Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng cho sự phát triển KTTT ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.82 KB, 16 trang )

Lời nói đầu
Bớc lên từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại phải trải qua hai cuộc
chiến tranh giữ nớc khốc liệt, nền kinh tế nớc ta vốn đã lạc hậu lại càng thêm kiệt
quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế lạc hậu, trì trệ đó, nớc
ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, khiến cho đất n-
ớc lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trong khi đó, nhờ sử
dụng triệt để kinh tế thị trờng mà CNTB đã đạt đợc những thành tựu về kinh tế- xã
hội, phát triển lực lợng sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế
thị trờng, quản lý xã hội đạt đợc những thành quả về văn minh hành chính, văn
minh công cộng; con ngời nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức
đua tranh phát triển. Trớc tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta kịp thời
nhận ra sai lầm và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trờng theo
định hớng XHCN, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu dân giàu
nớc mạnh xã hội công bằng văn minh.
Mới chập chững bớc vào nền kinh tế thị trờng đầy gian khó, phức tạp, nền kinh tế
Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại trên cơ sở cân
nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong quá
trình học hỏi đó, triết học Mác- Lênin, đặc biệt là phạm trù triết học cái chung và
cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức về kinh tế thị tr-
ờng.
Để góp thêm một tiếng nói ủng hộ đờng lối phát triển kinh tế mà Đảng và
nhà nớc ta đang xây dựng, tôi chọn vấn đề "Mối quan hệ giữa cái riêng và cái
chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trờng ở nớc ta" làm
công trình nghiên cứu của mình.
Hoàn thành tiểu luận này, tôi hi vọng có thể góp một phần nhỏ của mình
trong việc làm rõ, củng cố lòng tin của mọi ngời vào công cuộc đổi mới của nhà n-
ớc ta, và giúp mọi ngời quen thuộc hơn với một nền kinh tế mới đợc áp dụng ở
Việt Nam- nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN trong điều kiện thế giới hiện
nay.
1
Chơng 1


Cái riêng và cái chung dới cái nhìn
của triết học Macxit
1.1. Các khái niệm:
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thờng tiếp xúc với một số sự vật hiện
tuợng quá trình khác nhau.Mỗi sự vật hiện tuợng đó đợc gọi là một cái riêng ,đồng
thời chúng ta cũng thấy giữa chung lại có mặt giống nhau tc là tồn tại cái chung
giữa chúng .
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tợng, một
quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Ví dụ: Một hành tinh nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn
nhất trong giới tự nhiên. Cái riêng trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào
đó, nh là cuộc cách mạng tháng Tám của Việt nam chẳng hạn. Một con ngời nào
đó: Huệ, Trang,... cũng là cái riêng. Cái riêng còn có thể hiểu là một nhóm sự vật
gia nhập vào một nhóm các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó
của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại
ở những cấu trúc sự vật khác. Tính chất này đợc diễn đạt bằng khái niệm cái đơn
nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những
mặt chỉ có ở một sự vật nhất định mà không lặp lại ở những sự vật khác. Ví dụ
chiều cao, cân nặng, vóc dáng... của một ngời là cái đơn nhất. Nó cho biết những
đặc điểm của chỉ riêng ngời đó, không lặp lại ở một ngời nào khác. Cần phân biệt
cái riêng với cái đơn nhất.
Mặt khác, giữa những cái riêng có thể chuyển hóa qua lại với nhau, chứng tỏ
giữa chúng có một số đặc điểm chung nào đó. Những đặc điểm chung đó đợc triết
học khái quát thành khái niệm cái chung.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định ,mà còn đợc lặp lại
trong nhiều sự vật hiện tợng hay quá trình riêng lẻ khác, những mối liên hệ
giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng.
Cái chung thờng chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại. Ví dụ nh qui
luật cung- cầu, qui luật giá trị thặng d là những đặc điểm chung mà mọi nền kinh

tế thị trờng bắt buộc phải tuân theo.
2
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
Trong lịch sử triết học, mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung đợc quan niệm
khác nhau. Phái duy thực đồng nhất thợng đế với cái chung và cho rằng chỉ có cái
chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguônhiều sản sinh ra cái riêng. Đối
lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh nh P. Abơla (1079- 1142),
Đumxcot (1265- 1308) cho rằng chỉ những sự vật, hiện tợng tồn tại riêng biệt với
những chất lợng riêng của chúng mới là có thực còn khái niệm cái chung chỉ là
sản phẩm của t duy của con ngời. Thấy đợc và khắc phục hạn chế của hai quan
niệm trên, triết học duy vật biện chứng cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên
hệ biện chứng mật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện
sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng. Ví dụ qui luật
bóc lột giá trị thặng d của nhà t bản là một cái chung, không thế thì không phải là
nhà t bản, nhng qui luật đó đợc thể hiện ra ngoài dới những biểu hiện của các nhà
t bản (cái riêng).
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có
cái Riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập ,Thí dụ:Mỗi con ngời là một cái riêng nhng
mỗi con ngời không thể tồn tại ngoàI mối liên hệ với tự nhiên và xã hội. Nền kinh
tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung-cầu,quy luật QHSX phù hợp với tính
chất và trình độ của LLSX,dó là cái chung .Nh vậy sự vật hiện tợng nào cũng bao
hàm cái chung
Cái chung là bộ phận,nhng sâu sắc hơn cái riêng, còn cái riêng là toàn bộ
nhng phong phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài đặc
điểm chung ,cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái
riêng phản ánh những thuộc tính ,những mối liên hệ ổn định,tất nhiên, lặp lại ở
nhiều cái riêng cùng loại .Do vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất,quy định
phơng hớng tồn tại và phát triển của cái chung.
Có thể khái quát một công thức nh sau:

Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Công thức trên có thể là không hoàn toàn đúng một cách tuyệt đối, nhng
trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói đợc một cách chính xác quan hệ bao
trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên
chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể sống động.
Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế,
3
giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua lại với nhau,
chuyển hóa lẫn nhau. Sự " va chạm" giữa những cái riêng vừa làm cho các sự vật
xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất.
Cũng nhờ sự tơng tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể đợc phát hiện.
Về điểm này, Lênin nói: "... Cái riêng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới
cái chung". Ví dụ, nguyên tử của mọi nguyên tố đều khác nhau, đều là cái "
riêng", chúng có trọng lợng nguyên tử của mình, có hoá trị của mình, có điện tích
hạt nhân của mình, có cấu tạo vỏ nguyên tử của mình... Nhng tất cả những nguyên
tử đều có cái chung: trong mọi nguyên tử đều có hạt nhân, vỏ điện tử, đều có
những hạt nguyên tố; hạt nhân của mọi nguyên tử đều có thể bị phá vỡ. Chính nhờ
có những đặc tính chung cho mọi nguyên tử mà khoa học mới có khả năng biến
nguyên tử của một nguyên tố này thành nguyên tử của một nguyên tố khác.
Nguyên tử, cũng nh bất cứ hiện tợng nào khác trong thế giới khách quan, là sự
thống nhất của cái khác nhau và cái giống nhau, cái đơn nhất và cái phổ biến.
Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hoá thành cái
đơn nhất và ngợc lại. Ví dụ: trớc Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trờng, khoán sản
phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhng từ sau Đại hội
Đảng VI thì kinh tế thị trờng lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế tập trung bao
cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số ngành nh an ninh quốc
phòng...
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tơng
đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhng nếu xét
ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ nh cây cối là một đặc điểm chung

khi xét tập hợp các cây nh bạch đàn, phợng vĩ, bàng nh ng nếu xét trong phạm vi
thực vật thì cây cối chỉ là một đặc điểm đơn nhất chỉ các loại cây, mà ngoài ra
thực vật còn có cỏ, bụi rậm, nấm... Xét một ví dụ khác, qui luật cung- cầu là cái
chung trong nền kinh tế thị trờng, nhng trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong
lịch sử thì nó lại chỉ là cái đơn nhất, đặc trng cho kinh tế thị trờng mà không thể là
đặc điểm chung cho mọi hình thức khác nh kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn.
Trong một số trờng hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng định cái
riêng là cái chung. Ví dụ nh những câu sau: hoa hồng là hoa, kinh tế thị trờng
theo định hớng XHCN là kinh tế thị trờng... Những trờng hợp đó thể hiện mâu
thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan hệ bao trùm của cái riêng đối với cái
chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên những định nghĩa nh trên chỉ
4
nhằm mục đích tách sự vật ra khỏi những phạm vi không thuộc sự vật ấy, chứ
không dùng để chỉ toàn bộ những đặc tính của sự vật.
Trong quá trình phát triển của sự vật hiện tợng,trong những điều kiện nhất
định cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngợc lại cái chung có thể
biến thành cái đơn nhất ,nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo
điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con ngời trở thànhcái chung và
cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung, ta đã đa ra một
số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trờng của Việt nam một cách thích
hợp, cố gắng theo kịp tốc độ tăng trởng của các nớc phát triển trên thế giới, tăng c-
ờng cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
5
Chơng 2:
Cái chung và cái riêng nhìn dới vấn đề
Kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nớc ta đang hoà
nhập với nền kinh tế thị trờng thế giới, sự giao lu về hàng hoá, dịch vụ và đầu t
trực tiếp của nớc ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nớc ta gần gũi hơn với

nền kinh tế thị trờng thế giới. Tơng quan giá cả của các loại hàng hoá trong nớc
gần gũi hơn với tơng quan giá cả hàng hoá quốc tế. Thị trờng trong nớc gắn liền
với thị trơng thế giới . Nền Kinh tế Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế
giới. Chính điều này tạo nên một chỉnh thể hoàn chỉnh của nền kinh tế thế giới
Xu hớng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của
mỗi nớc không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa
các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều,
quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc
gia là tạo đợc nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình, là tốc độ phát triển
kinh tế cao, đời sống nhân dân đợc cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã
trở thành thớc đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu
để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền.
Nh vậy với t cách là một bộ phận của nền kinh tế thế giới thì việc tiếp thu
những đặc trng cơ bản những nét chung trong tổng thể đó để hoàn thiện nền kinh
tế Việt Nam là tất yếu . Tuy nhiên ta không đợc phép chỉ tiếp thu một cách hình
thức phải tiếp thu có chọn lọc cho phù hợp với đièu kiện đất nớc .Phải giữ dợc nh-
ng nét đặc trng riêng tc là phải bảo tồn cái đơn nhất của kinh tế Việt Nam từ đó
còn phải xây dựng một nền kinh tế thị trờng mới về chất, thể hiện sự phát triển,
phủ định biện chứng đối với nền kinh tế thị trờng TBCN.
6
Chơng 3
Những giải pháp phát triển kinh tế thị trờng ở Việt
Nam trên cơ sở nguyên lý về cái chung và cái riêng
3.1. Chuyển sang kinh tế thị trờng là một tất yếu khách quan:
3.1.1. Khái niệm kinh tế thị trờng:
Trên góc độ vĩ mô, thị trờng là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách
quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá, và lu thông hàng hoá.
ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có thị trờng. "Khi thị tr-
ờng, nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì quy mô sản xuất cũng tăng lên, sự
phân công sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn" (1). Theo David Begg, thị trờng "là

sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia
đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của các công ty về sản xuất
cái gì, sản xuất nh thế nào và cái quyết định của ngời công nhân về việc làm bao
lâu, cho ai đều đợc dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả". Ta cũng có thể định
nghĩa thị trờng là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu.
Kinh tế thị trờng là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng
suất, chất lợng và hiệu quả cao; d thừa và phong phú hàng hoá; dịch vụ đợc mở
rộng và coi nh hàng hoá thị trờng; năng động, luôn luôn đổi
mới mặt hàng, công nghệ và thị trờng. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ
chế thị trờng, với những đặc trng cơ bản nh: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng
thị trờng, tự do kinh doanh, tự do thơng mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu,
phân phối do quan hệ cung- cầu...
3.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trờng là một tất yếu khách quan
Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nớc ta là kinh tế
phong kiến. Ngoài ra nớc ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nớc khốc
liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá nặng nề.
Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá tập
trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về TLSX. Trong thời gian đầu sau
chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nớc trong hệ
thống XHCN mà mô hình kế hoạch hoá đã phát huy đợc tính u việt của nó. Từ một
nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nớc đã tập trung
vào tay mình một lợng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn
7

×