đề án:
Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Và các giải pháp để phát
triển nó ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay.
PHầN Mở ĐầU
Bớc ngoặc lớn nhất của cách mạng Việt Nam đó là sự ra đời của
đảng cộng sản vâo ngày 3-2-1930. Ngay từ khi ra đời đảng ta mặc dù
còn non trẻ nhng vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo của mình. Đảng đã
lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống lại sự xâm lợc của Nhật, Pháp, Mĩ
cứu nớc. Nhng sau khi hoà bình lập lại, chúng ta là nớc bị tàn phá nặng
nề cả về kinh tế lẫn xã hội. Về mặt kinh tế chúng ta bị tàn phá về cơ sở
vật chất khá nghiêm trọng, nạn đói hoành hành khắp nơi. Vì thế mục
tiêu của đảng lúc bấy giờ là làm sao xoá đói giảm nghèo và khôi phục
lại đất nớc.
Cũng nh các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đó ngay từ đầu chúng ta đã
áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung (KTKHHTT) mặc dù
điều kiện ra đời của nền kinh tế hàng hóa (KTHH) vẫn còn nhng không
đợc thừa nhận một cách chính thức. Nền KTKHHTT đã từng thể hiện
tính u việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nớc ta. Và đã đóng góp vào
thành công của cách mạng Việt Nam. Nhng kể từ khi kết thúc chiến
tranh do hậu quả nặng nề của nó để lại, và do cấm vận của các nớc đế
quốc và do không còn viện trợ của các nớc xã hội chủ nghĩa nữa cho
nên nền kinh tế nớc ta gặp nhiều khó khăn. Sản xuất không đáp ứng đợc
tiêu dùng. Nền kinh tế bị sơ cứng năng xuất chất lợng bị giảm sút
nghiêm trọng. Do duy trì quá lâu nền kinh tế này mà kinh tế nớc ta lâm
vào tình trạng suy thoái kéo dài. Tiếp đó lại có sai lầm về chính sách
1
kinh tế. Càng làm cho nền kinh tế bị suy thoái nặng nề. Từ suy thoái về
kinh tế dẫn đến suy thoái về xã hội. Làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của đảng. Trớc bối cảnh đó đảng và nhà nớc ta chủ
chơng chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trờng theo
định hớng xã hội chủ nghĩa ở đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI năm
1986.
Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay kinh tế nớc ta đã thu đợc
rất nhiều thành tựu to lớn và bớc đầu thực hiện chính sách xoá đói giảm
nghèo. Và lần lợt qua các kỳ đại hội nó đã đợc bổ xung và ngày càng đ-
ợc hoàn thiện đối với nền kinh tế nớc ta. Nhng nó cũng không tránh
khỏi những sai xót trong việc áp dụng.
Trong phạm vi bài tiểu luận này em muốn nêu lên một quan điểm,
một nhận xét khách quan về nền kinh tế thị trờng ở nớc ta. Vì vậy em
đã chọn đề tài Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của nền
kinh tế thị trờng (KTTT) định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và
các giải pháp để phát triển nó ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã trực tiếp giúp đỡ em hoàn
thành bài tiểu luận này.
PHầN GIảI QUYếT VấN Đề :
2
I. Sự cần thiết và tính khách quan phải phát triển nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
1. Kinh tế kế hoạch hoá tập trung, những u và nhợc điểm của nó.
a. Ưu điểm:
Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm
của các nớc xã hội chủ nghĩa cũ, cả nớc ta bắt đầu xây dựng mô hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản
xuất. Các hình thức tổ chức rộng rãi ở nông thôn cũng nh thành thị.
Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, có thêm sự giúp đỡ tận tình của
các nớc xã hội chủ nghĩa cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát
huy đợc tính u việt của nó. Từ một nền kinh tê nông nghiệp lạc hậu và
phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung đợc vào tay một
lực lợng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản, tiền vốn để phát triển ổn
định về kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ ở miền Bắc đã có
những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập
trung đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung tự cấp vốn có của ta lúc
đó, đồng thời cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến lúc đó.
b. Nhợc điểm:
Sau ngày giải phóng, miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế đã
thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình
kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng
hoá.
Đó là thực tế khách quan, tồn tại sau năm 1975, nhng chúng ta vẫn
tiếp tục chủ chơng xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch
hoá trong phạm vi cả nớc. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều,
việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kinh tế đã thay đổi làm xuất
hiện rất nhiều hiện tợng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân
3
nhắc tới sự phù hợp của các cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã
không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đât nớc,
trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các
nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trờng bị
ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nớc thực hiện bao cấp tràn lan.
Những sự việc đó gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng tr-
ởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân
sách bị thâm hụt năng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng,
tích luỹ hàng năm hầu nh không có. Vốn đầu t chủ yếu dựa vào vay,
viện trợ của nớc ngoài. Đến cuối nhng năm 80, giá cả leo thang, khủng
hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao, làm cho đời sống nhân dân bị
giảm sút thậm chí một số đại phơng nạn đói đang rình dập. Nguyên
nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nớc ta là do ta đã dập khuôn
một mô hình kinh tế cha thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ
bản là:
Ta đã thực hiên chế độ sở hữu toàn dân về t liệu sản xuất, trên một
quy mô lớn trong điều kiện cha cho phép Điều này đã dẫn đến một bộ
phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan
hiếm của đất nớc trong khi dân số ngày một gia tăng.
Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện cha cho
phép: Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân
phối bình quân vữa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động
lực phát triển.
Việc quản lý kinh tế của nhà nớc lại sử dụng các công cụ hành
chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự
do la chọn của ngời sản xuất và ngời tiêu dùng đã không kích thích sự
sáng tạo của hàng triệu ngời lao động.
2. Sự cần thiết khách quan phải chuyển sang kinh tế thị trờng theo
định hớng xã hội ở nớc ta.
4
Về phơng diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của
sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ
chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và
phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất.
Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá
mà giai đoạn cao của nó đợc gọi là kinh tế thị trờng.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội đầu tiên của nhân
loại. Đó là phơng thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử
dụng những tăng vật của tự nhiên và sau đó đợc thực hiện thông qua
những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng
trong việc duy trì sự sinh tồn của con ngời. Nó đợc bó hẹp trong mối
quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con ngời và tự nhiên kinh tế tự nhiên
lấy quan hệ trực tiếp giữa con ngời và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa ng-
ời lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với
xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại
và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhng vẫn còn tồn tại
trong xã hội t bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiên vật, sinh
tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hoá, bắt nguồn từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra dời từ
khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan giã, dựa trên hai tiền đè cơ bản là
có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ
sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự
cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bớc chuyển sang thời
đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch
sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng dần đợc đổi
thay: Từ chỗ nh là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội không phổ biến, không
hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những ngời thợ thủ công và
nông dân tự do, đến chỗ đợc thừa nhận trọng xã hội phong kiến, và đến
chủ nghĩa t bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những đợc thừa
nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là nền kinh tế thị trờng.
5
Kinh tế thị trờng là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá,
cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển.
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản
đơn sang kinh tế thị trờng (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trờng sơ khai
giã man).
Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thi trờng tự do.
Đặc trng quan trọng của giai đoạn này là sự phá triển kinh tế diễn ra
theo tinh thần tự do, nhà nớc không can thiệp vào hoạt động kinh tế.
Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn kinh tế thị trờng hiện đại. Đặc của
giai đoạn này là nhà nớc can thiệp vào kinh tế thị trờng và mở rộng kinh
tế với nớc ngoài. Sự can thiệp của nhà nớc vào kinh tế thị trờng thông
qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nớc, các chơng trình
khuyến khích đầu t và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ
kinh tế nh tài chính, tín dụng, tiền tệ. . . để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ
mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trờng trong một nền hinh tế hỗn
hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nớc có mức
tăng trởng kinh tế nhanh.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất
hàng hoá nhỏ) tự phát sẽ hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa t bản
(nói theo cách nói của V. I. Lê-Nin) và sự phát triển của KTTT trong
lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa t
bản, nhng tuyệt nhiên, KTTT không phải là một chế độ kinh tế-xã hội.
KTTT là một hình thức và phơng pháp vận hành kinh tế các qui luật của
thị trờng chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản xuất cái gì,
sản xuất nh thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ
chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của
sự phát triển lực lợng sản xuất. Nó là phơng thức sinh hoạt kinh tế của
sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trờng theo qui luật giá trị
đòi hỏi các chủ thể sản xuất-kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng
dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động, tiết kiệm
6
chi phí, mở rộng qui mô của sản xuất-kinh donh. Quá trình hình thành
và phát triển kinh tế thị trờng là quá trình mở rộng phân công lao động
xã hội, phát triển khoa học-công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực
tiễn sản xuất-kinh doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình
phát triển của văn minh nhân loại, của khoa học-kỹ thuật, của lực lợng
sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hoá
giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công;
Giai đoạn kinh tế thị trờng hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ, kỹ
thuật vi điện tử-tin học. . .
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nớc ta,
sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật,
tự cung, tự cấp còn chiếm u thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa
trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nớc, nông dân chiếm đại đa
số. Việt Nam vẫn là một nớc nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát
triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối với toàn đảng, toàn dân ta
trong bớc đờng đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc
dân sang trạng thái của sự phát triển, là sự phát triển kinh tế thị trờng,
cùng với nó là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Sự cần thiết tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trờng định
hớng XHCN.
Trớc sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nớc ngoài lại giảm sút đã
đa nền kinh tế nớc ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI của
đảng đã chủ trơng phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện
chuyển đổi sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến đại
hội VII đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế nớc ta là một tất
yếu khách quan và trên thực trạng diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý
của nhà nớc theo định hớng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận
thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng nh trong thực tế lãnh
đạo của đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn
7
đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nớc ta phù hợp với các qui luật
kinh tế và xu thế của thời đại.
Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể
nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ cha nói đến tích luỹ vốn để mở
rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực
hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ
chế quản lý kinh tế, nhng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất
thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng, tích luỹ hầu nh không có
đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nớc ngoài.
Do đặc trng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có
tác dụng thúc đẩy tăng trởng kinh tế. Và chỉ có tác dụng phát triển nền
kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nớc ta tồn tại quá dài do
đó nó không những còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất
mà nó còn sinh ra nhiều hiện tợng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất l-
ợng và hiệu quả sản xuất.
Xét về tồn tại thực tế ở nớc ta những nhân tố của nền kinh tế thị tr-
ờng. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nớc cho
rằng thị trờng ở nớc ta là thị trờng sơ khai. Thực tế kinh tế thị đã hình
thành và phát triển đạt những mức phát triển khác nhau, ở hầu hết các
đô thị và vùng hẻo lánh đang đợc mở rộng với thị trờng quốc tế. Nhng
thị trờng ở nớc ta phát triển cha đồng bộ còn thiếu hẳn thị trờng các
yếu tố sản xuất nh thị trờng lao động, thị trờng vốn và thị trờng đất đai
về cơ bản vẫn là thị trờng tự do, mức độ can thiệp của nhà nớc còn rất
thấp.
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nớc ta
đang hoà nhập với nền kinh tế thị trờng thế giới, sự giao lu về hàng hoá
dịch vụ và đầu t trực tiếp của nớc ngoài làm cho sự vận động của nền
kinh tế nớc ta gần gũi hơn với thị trờng thế giới. Tơng quan giá cả các
loại hàng hoá trong và giá cả hàng hoá quốc tế.
8
Xu hớng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế
của một nớc không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Sự cạnh
tranh giữi các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số
đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích
của các chính sách của các quốc gia tạo đợc nhiều của cải vật chất trong
quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân đ-
ợc cải thiện, thất nghiệp thấp, tiềm lực kinh tế đã trở thành thớc đo chủ
yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ
uy tín duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trờng hớng tới của nớc ta sẽ không phải là
nền kinh tế thị trờng thuần tuý. Lý thuyết để mặc cho thị trờng tự do
cạnh tranh là không tồn tại. Ngoài bàn tay vô hình, vai trò của chính
phủ để điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trờng tạo cho nền
kinh tế ổn định và phát triển. Đói với nớc ta vai trò của nhà nớc trong
nền kinh tế thị trờng cũng sẽ rất quan trọng.
Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu
xãhội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự
gia tăng về lợng (tăng trởng kinh tế) còn bao hàm những thay đổi về
chất(những biến đổi về mặt xã hội). Phát triển là nâng cao phúc lợi của
nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và
bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế.
Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển
rộng hơn . Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C. Mác là một
thành tựu khoa học của loài ngời. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng
quát của lịch sử nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài ngời sẽ tiến
tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội không đói lập với phát triển, với kinh tế thị trờng, mà
là một nấc thang phát triển của loài ngời đợc đánh dấu bằng tiến bộ-xã
hội của sự phát triển. Nó là cach thức giải quyết các quan hệ xã hội vì
cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn tể xã hội,
là sự thiết lập một trật tự xã hôi với mục tiêu công bằng văn minh. Sự
9
phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của t bản, của một số ít
ngời trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất t bản chủ nghĩa là
sự phát triển cổ điển. Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh, hạnh
phúc cho đại đa số nhân dân lao động cho toàn thể xã hội, thì sự phát
triển đó mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc
đấu tranh cách mạng trờng kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta
dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là chủ tịch
HCM nhằm giải phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giàu
sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong
hiện tại và tơng lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh
phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội,
của toàn xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính chất xã hội
chủ nghĩa, sự phát triển hiện đại. Nghiã là, chúng ta phải phát triển nền
KTTT định hớng XHCN. Điều đó không chỉ đơn thuần là sự phát triển
kinh tế nhằm đạt đợc mục tiêu dân giàu nớc mạnh, mà còn bao hàm vấn
đề quan trọng mang tính hiện đại, là thiết lập một kiểu tổ chức xã hội,
một trật tự xã hội với nộng dung công bằng và văn minh. Nhà nớc
XHCN, của dân, do dân và vì dân dới sự lãnh đạo của Đảng Cọng sản
Việt Nam là điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện sự định hớng đó.
II. Đặc điểm của nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam và các giải pháp để phát triển nó ở nớc ta trong giai đoạn hiện
nay.
A. Đặc điểm kinh tế thị trờng của các nớc trên thế giới.
Để hiểu rõ hay có một cách nhận xét khách quan nền kinh thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta phải xem xét các đặc
điểm kinh tế thị trờng thế giới.
1. Đặc điểm chung:
Kinh tế thị trờng là hoạt động kinh tế của con ngời đã trải qua
nhiều thời đại. Kinh tế thị trờng đã xuất hiện từ xa xa trong lịch sử kinh
10
tế nhng KTTT chỉ phát triển mạnh mẽ, phong phú trong vài trăm năm
trở lại đây. Gần nh hầu hết các nớc trên thế giới ngày nay đều theo mô
hình KTTT với những đặc trng màu sắc riêng của từng nớc. KTTT của
các nớc Tây Âu có những nét đặc trng riêng không giống mô hình của
Mĩ, Nhật, Trung. Nớc Nga ngày nay cũng đã rẽ hẳn theo hớng kinh tế
thị trờng của các nớc phơng Tây nhng mấy năm qua nền kinh tế của nớc
này điêu đứng, lao đao, có lúc lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế
xã hội sâu sắc đến nay cha định hình trong việc lựa trọn mô hình kinh
tế Mỹ, Tây Âu, hay Nhật
Song trên bình diện tổng quát, KTTT của các nớc đều có điểm t-
ơng đồng vừa có bàn tay vô hình của thị trờng tác động, tự điều chỉnh
vừa có sự can thiệp, điều tiết của nhà nớc, cái gọi là bàn tay hữu hình
là sự quản lý của nhà nớc là không thể thiếu đợc dù nền kinh tế ở bất
kỳ trình độ phát triển nào. hiện nay trên thế giới thì mọi nền kinh đều
có sự tham gia quản lí, điều tiết của nhà nớc tuy ở các mức độ khác
nhau. Nền KTTT đó là một nền kinh tế phát triển, có nhiều u điểm. Tuy
nhiên nền kinh tế nào cũng có những mặt trái của nó. Và ở đây, mặt
trái của KTTT là tình trạng bất công trong xã hội còn cao, sự phân hoá
giai cấp trong xã hội còn diễn ra sâu sắc, tệ nạn xã hội ngày càng
nhiều, đồng thời cùng với sự phát triển kinh tế thì tình trạng lạm phát sẽ
bị đẩy nên cao.
Tại châu âu mô hình kinh tế của Thuỵ Điển rất đáng chú ý. Vốn là
một quốc gia nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu nhng chỉ trong một thơì
gian ngắn thì thuỵ điển đã trở thành một nớc công nghiệp phát triển
hàng đầu thế giới, ở Châu á Trung Quốc cũng là một nớc đã chuyển từ
cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trờng và đã có sự tăng trởng kinh tế đáng
kể. Còn đối với Nga đầu tiên là một nớc đi theo định hớng XHCN và
đã có một nền kinh tế vào loại phát triển của thế giới . Nhng từ khi đi
theo hớng phát triển của các nớc TBCN thì nền kinh tế của nớc này đã
lâm vào khủng hoảng. Tốc độ tăng trởng kinh tế của nớc này đã giảm
11