Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: Thị trường vốn Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.45 KB, 30 trang )

TRƯỜNG
KHOA……………………….
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
Thị trường vốn Việt Nam
1
MỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU 3
PHẦN II: NỘI DUNG 5
CHƯƠNG I 5
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
VỐN 5
I. Khái niệm và vai trò của thị trường vốn 5
1.1. Khái niệm 5
Thị trường vốn là thị trường cung cấp vốn cho các khoản đầu tư dài hạn các doanh
nghiệp, của chính phủ và các hộ gia đình. * Thị trường vốn (TTV) là nơi trao đổi các công
cụ tài chính trung và dài hạn. một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán trên 1 năm
được coi là công cụ của TTV. 5
II. Phân loại thị trường vốn 11
1. Thị trường vốn đầu tư gián tiếp 11
3. Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn 14
3.1 Thị trường sơ cấp 14
4. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường 15
4.1 Thị trường cổ phiếu 15
IV. Chính sách tạo vốn và sử dụng trong nền kinh tế
25
CHƯƠNG II 26
THỰC TRẠNG, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM. .26
I, Thực trạng 26
2


1.Tình hình phát triển 26
II. Mục tiêu phát triển thị trường vốn Việt Nam đến
2010 và định hướng đến năm 2020 28
PHẦN III : KẾT LUẬN 30
I. Tổng kết thực tiễn về thị trường vốn ở Việt Nam
30
PHẦN I : MỞ ĐẦU
Cùng với lao động và đất đai, vốn là một yếu tố đầu vào vô cùng quan
trọng mà tất cả các doanh nghiệp phải lựa và sử dụng một cách hợp lý. Ngày
nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, trị trường vốn ở nước cũng
phát triển ngày càng phong phú, đa dạng.
Như ta đã biết, thị trường vốn là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị
trường hiện đại. Nền kinh tế của một quốc gia có phát triển mạnh mẽ hay
không , điều đó sẽ được phản ánh thông qua thị trường vốn. Tất cả các biến
động trong nền kinh tế đều ít nhiều gây ra các ảnh hưởng đối với thị trường
vốn, vì vậy mà thị trường vốn còn được coi là “ một nền kinh tế tượng trưng”
cho nền kinh tế thực.
Bên cạnh đó, một quốc gia muốn phát triển về mọi mặt đặc
biệt là về kinh tế thì điều vô cùng quan trọng đối với quốc gia đó chính là
vốn- điều kiện hàng đầu trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, nhất là
đối với các quốc gia đang phát triển như nước ta. Đứng trước yêu cầu phát
triển đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo để trở thành một
quốc gia có nền công nghiệp phát triển, nền kinh tế được chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đời sống nhân dân được nâng cao về
mọi mặt, củng cố an ninh quốc phòng, phát triển văn hoá-xã hội…; thì nhu
cầu về vốn càng lớn và càng trở nên cấp thiết. Do vậy mỗi doanh nghiệp, mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực của nền kinh tế đều đặt vấn đề thu hút vốn đầu tư trong
và ngoài nước và sử dụng vốn sao cho hiệu quả lên vị trí quan trọng. Hiện
nay, thị trường vốn chính là kênh cung cấp vốn phong phú nhất, đa dạng nhất
với nhiều hình thức khác nhau, nhiều thời hạn khác nhau cho các chủ thể

trong nền kinh tế quốc dân.
3
Từ những lí do kể trên, chúng ta thấy được vai trò quan trọng
của thị trường vốn đối với nền kinh tế Việt Nam, cũng như tính cấp thiết của
việc nghiên cứu loại thị trường này để đưa các giải pháp nhằm phát triển và
hoàn thiện thị trường vốn.
Dựa trên những kiến thức đã được học trong bộ môn tài chính tiền tệ,
kinh tế học… và xuất phát từ tình hình thực tiến của thị trường vốn ở Việt
Nam, chúng ta hãy đi tìm hiểu đề tài “ Thị trường vốn Việt Nam”. Một đề
tài nóng bỏng và cấp thiết của một nền kinh tế mở
Kết cấu của đề tài bao gồm ba chương:
Chương I : Những lý luận chung về thị trường vốn.
Chương II : Thực trạng, định hướng và giải pháp phát triển trên thị
trường vốn ở Việt Nam
4
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN
I. Khái niệm và vai trò của thị trường vốn
1.1. Khái niệm.
Thị trường vốn là thị trường cung cấp vốn cho các khoản đầu tư
dài hạn các doanh nghiệp, của chính phủ và các hộ gia đình. * Thị trường
vốn (TTV) là nơi trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn. một công cụ
tài chính có thời hạn thanh toán trên 1 năm được coi là công cụ của TTV.
Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trường này dài hạn hơn so với
thị trường tiền tệ nên các công cụ trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn và
đi theo nó là lợi tức kì vọng cũng cao hơn.
1.2. Vai trò
1- Vai trò tập trung và tích tụ vốn cho đầu tư vốn cho đầu tư.
Thị trường vốn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự phát triển

kinh tế của mỗi đất nước, đây là một kênh bổ sung vốn rất hiệu quả và nhanh
chóng cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp .
Thông qua việc phát hành và mua bán các loại chứng khoán , các
khoản vốn nhỏ lẻ tồn tại trong dân cư được các tổ chức kinh tế huy động
nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho công cuộc đầu tư và xây dựng của chủ đầu
tư.
Các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu , trái phiếu để huy động vốn
cùng chính phủ và các địa phương phát hành trái phiếu của chính phủ và trái
phiếu địa phương để bù đắp thiếu hụt ngân sách hoặc đầu tư xây dựng các dự
án lớn.
Nếu đem so sánh với các phương thức huy động vốn khác thì thị
trường vốn có thể huy động một cách đa dạng hơn, rộng rãi hơn với một
phương thức linh hoạt hơn , từ đó có thể đáp ứng một cách nhanh chóng
những nhu cầu khác nhau của các nhà đầu tư, đảm bảo được tính hiệu quả và
thời gian cho nhà đầu tư và những người cần vốn.
Ngoài ra , thông qua thị trường vốn thì chính phủ và địa phương có thể
huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình bằng việc phát
hành trái phiếu , công trái . Hơn nữa , nếu xét theo quan điểm kinh tế học thì
5
đây là hình thức cụ thể kiềm chế được lạm phát do không phải in thêm tiền
vào lưu thông để phục vụ cho chi tiêu của chính phủ .
Ở Việt Nam hiện nay thì vai trò này đã bắt đầu phát huy tác dụng
nhưng vẫn chưa thoả mãn nhu cầu về vốn hiện nay. Theo các nhà kinh tế thì
tổng nhu cầu về vốn đầu tư của Việt Nam hiện nay : 258000 tỉ đồng (năm
2004) , 300.000 tỉ đồng ( năm 2005) và khoảng từ 360.000-370.000 tỉ đồng
( năm 2006) trong khi đó thì đến tháng 8/2006 chúng ta chỉ mới huy động
được một lượng rất nhỏ khoảng 8.000 tỉ đồng so với quy mô đầu tư.
2. Thị trường vốn góp phần tạo lập cơ chế đầu tư hợp lý, thúc đẩy
quá trình sử dụng vốn một cách hợp lý.
Thị trường vốn là kênh huy động vốn theo tín hiệu cơ chế thị trường ,

là van điều tiết hữu hiệu các khoản vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn , từ nơi
sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Theo các chuyên gia, các nhà quản lý của các tổ chức quỹ đầu tư hàng
đầu thế giới nhận xét thì việc khả năng huy động vốn đầu tư của nước ngoài
là rất tốt và có triển vọng tăng cao hơn trong các năm tiếp theo.
Bà Johanna Chua, Giám đốc phân tích kinh tế và thị trường các nước
đang phát triển ở châu Á thuộc Ban phụ trách thị trường toàn cầu châu Á của
Citigroup nói việc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006 sẽ khuyến khích
thêm vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào châu Á nói chung và tăng khả
năng mở rộng thị trường của Việt Nam tại thị trường Mỹ và EU nói riêng.
Cũng cần nói thêm rằng Citigroup hiện nay là tập đoàn cung cấp dịch vụ tài
chính và ngân hàng lớn nhất thế giới. Tại Việt Nam, Citigroup đó 4 năm liền
được nhận giải thưởng Ngân hàng có dịch vụ tốt nhất
3. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Hàng năm Việt Nam thu hút vốn một lượng vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài rất lớn từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của người nước ngoài
thông qua việc đầu tư vào thị trường cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FDI) không chỉ mang lại vốn
mà cũng có vai trò quan trọng thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo
hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng qui mô và tăng tính minh bạch;
nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp
Tuy nhiên, dung vốn này cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các
kênh huy động vốn nước ngoài khác. Chính vì vậy, thúc đẩy thu hút FII ổn
định và tương xứng với tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị
trường vốn và nền kinh tế Việt Nam đang là vấn đề được các cơ quan hoạch
định chính sách, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp quan tâm.
Theo Bà Nguyễn Thị Liên Hoa, Trưởng Ban phát triển thị trường
thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thì :
6
"Trong hai năm 2004 và 2005, tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp

Nhà nước đó được đẩy mạnh hơn so với những năm trước rất nhiều lần. Tới
cuối tháng 3 năm 2006, đó cú 4.673 doanh nghiệp Nhà nước được tái cơ cấu,
trong đó có 3.298 doanh nghiệp được cổ phần hoá.
.Một khu vực tiềm tàng nữa mà có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài, đó chính là khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư
nhân. Hiện nay, có tới 97% của hơn 230.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt
động tại Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp tư
nhân rất năng động và phát triển mạnh mẽ và đó trở thành một bộ phận quan
trọng của nền kinh tế.
Sự phát triển chung của cả nền kinh tế cùng những cải cách mạnh mẽ
về thể chế và khuôn khổ pháp lý trong nỗ lực gia nhập WTO đó được các nhà
đầu tư nước ngoài chú ý.
4. Thị trường vốn tác động đến tăng trưởng tới nền kinh tế của đất
nước .
Theo các lý thuyết về đầu tư như : lý thuyết về đầu tư , lý thuyết gia
tốc đầu tư … thì vốn có tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế.
Như ta đã biết thì vốn được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau
trong đó có thị trường vốn . Theo tính chất bắc cầu trong kinh tế thì thị
trường vốn cũng có một tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế của đất nước
Ta có thể thông qua hình vẽ dưới đây để có thể hiểu được tầm quan
trọng của vốn đầu tư với sự tăng trưởng của nền kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
vốn đầu tư
Khi nguồn vốn đầu tư tăng thì khối lượng sản phẩm sản xuất ra tăng , từ
đó làm tăng tổng thu nhập quốc dân , làm cho GDP tăng từ đó làm cho nền
kinh tế tăng trưởng .
7
Tuy nhiên khi nguồn vốn đầu tư tăng đến một mức nào đó thì kinh tế
không thể tăng trưởng thêm đựơc do nền kinh tế cũng phụ thuộc rất nhiều
yếu tố khác nhau như : lao động , tài nguyên thiên nhiên, hay chính sách tài

khoá của chính phủ .
Nước ta xuất phát từ một nước nghèo nàn và lạc hậu thì nguồn vốn lại
là một yếu tố vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước.
Không có tiền chúng ta không thể làm được gì, không có tiền chúng ta không
thể mọc thêm các nhà máy sản xuất, không thể tận dụng nguồn lao động dồi
dào của nước ta , không thể tận dụng những gì mà thiên nhiên đó ban tặng
cho chúng ta .
Kể từ khi đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường thì nguồn vốn là một điều rất quan trọng. Chính phủ đã
cố gắng tạo ra những cơ chế chính sách hợp lý tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh
của đất nước ta, để có thể phát huy tối đa mọi khả năng và nguồn lực của đất
nước.Và, cũng từ đó thì thị trường vốn cũng dần dần mở cửa khi chúng ta hội
nhập kinh tế thế giới.
Hiếm thấy lần phát hành trái phiếu Chính phủ đầu tiên nào thu được
thành công như của Việt Nam" là nhận định được nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đưa ra. Bằng chứng là ngay ngày đầu tiên tại Hong Kong (19.10), số
lượng các nhà đầu tư đặt mua đó đạt khoảng 1 tỷ USD, gấp 2 lần số lượng
trái phiếu Chính phủ Việt Nam định phát hành. Đến ngày 26.10, sau khi
Chính phủ quyết định tăng khối lượng phát hành thêm 250 triệu USD, số
lượng các nhà đầu tư đặt mua đó tăng lên tới hơn gấp 3 lần từ mức trên 1 tỷ
USD lên khoảng 3 tỷ USD. Ngày định giá trái phiếu, 29/10, số lượng các nhà
đầu tư đặt mua đó lờn tới con số kỷ lục 4,5 tỷ USD, tức là gấp 6 lần mức
Chính phủ Việt Nam phát hành trong đợt này. Đặc biệt, có ngân hàng của
Malaysia cũn dựng cả tiền dự trữ để tham gia mua 50 triệu USD. Điều này
chứng tỏ, sức hút mạnh mẽ của trái phiếu Việt Nam trên thị trường vốn quốc
tế.
5. Thị trường vốn làm đa dạng hoá các cơ hội đầu tư cho các chủ
đầu tư.
Trước kia khi chưa có thị trường vốn thì các nhà đầu tư thường không
có nhiều cơ hội đầu tư, nhất là những nhà đầu tư có quy mô vốn nhỏ , những

người có vốn nhàn rỗi .
Hiện nay , khi thị trường vốn xuất hiện thỡ đó tạo ra rất , rất nhiều cơ
hội đầu tư cho các nhà đầu tư. Chỉ tính riêng trên thị trường chứng khoán
hiện nay đó cú trên 40 doanh nghiệp cổ phần được niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung và cũn rất nhiều doanh nghiệp khác trên thị trường
OTC. Chính điều này đó làm tăng khả năng cạnh tranh nhau về vốn trên thị
trường vốn. Chẳng hạn ,trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua
8
bán cổ phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được giao
dịch khá thường xuyên; trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Vinamilk,
Giống Cây trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược Hậu Giang, Bảo Minh,
Sacombank, ACB, EximbankTuy nhiờn thỡ số lượng nhà đầu tư tham gia
trên thị trường chứng khoán chưa nhiều như mong đợi, diễn biến giao dịch
trên thị trường có những giai đoạn trầm lắng, nhiều công ty vẫn cũn tình
trạng thiếu minh bạch trong cụng bố thụng tin khi đấu giá bán cổ phần lần
đầu ra công chúng
Cho tới thời điểm hiện nay, đó cú 41 công ty niêm yết tại Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM và 11 công ty đăng ký giao dịch tại Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Dữ liệu thị trường vào trung tuần tháng
7/2006 cho thấy mức vốn hoá của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
Tp.HCM ước đạt 44.442 tỷ VND, và của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
Hà Nội là 15.000 tỷ VND.
Tổng mức vốn hoá của toàn bộ thị trường tại thời điểm này ước chiếm
tỷ trọng 7,6% GDP (khoảng 3,8 tỷ USD). Trong thời gian sắp tới, sẽ có ít
nhất 7 công ty nữa được cấp phép niêm yết và dự kiến thị trường sẽ chiếm tỷ
trọng ít nhất 8,5% GDP trong năm nay.
6. Thị trường vốn tạo điều kiện để thực hiện các chính sách kinh tế
vi mô.
Thị trường vốn có một ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh
tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị

trường chứng khoán như một trung tâm thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của
các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, của chính phủ và địa phương tạo
thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế.
Thị trường vốn hoạt động dựa theo những tín hiệu của thị trường như
lãi suất , hệ số tín nhiệm, độ rủi ro. Thị trường vốn như một cái van điều tiết
của nền kinh tế, điều tiết từ nơi sử dụng vốn không hiệu quả sang đến nơi sử
dụng vốn có hiệu quả hơn, từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Do đó thị
trường vốn đó gúp phần giúp chính phủ và các tổ chức tài chính điều tiết cho
nền kinh tế.
Thực tế đó chứng minh điều đó rất rõ, từ khi xuất hiện thị trường vốn
thì thị trường tài chính của Việt Nam đó được ổn định rất nhiều, không có
những biến động quá lớn trên thị trường tài chính, tạo điều kiện cho sự phát
triển kinh tế đất nước. trên thị trường vốn thì bất cứ khoản vốn nào được sử
dụng đều phải trả giá do vậy mà người sử dụng vốn phải quan tâm rất nhiều
đến khả năng sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra.
Khi đất nước ta chưa có cải cách kinh tế thì tình hình tài chính của
Việt Nam rất rối ren, và mang tính khó lường. Tỉ lệ lạm phát tăng cao, có khi
đến hàng trăm phần trăm, người dân không dám cầm tiền mặt trong tay do sợ
9
mất giá đồng tiền , từ đó kinh tế chậm phát triển ,đời sống nhân dân gặp rất
nhiều khó khăn. Nhưng cũng hiện nay, do có những chính sách tài chính ổn
định cùng với sự xuất hiện của thị trường vốn thì thị trường tài chính của
Việt Nam đó ổn định đi rất nhiều , không còn những con số lạm phát cao như
trước đây nữa mà thay vào đó là tỉ lệ lạm phát luôn luôn nằm trong phạm vi
được kiểm soát .
Thông qua thị trường vốn thì chính phủ đó điều tiết và thực hiện
những chính sách kinh tế của mình nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của
mình và nhằm bình ổn giá cả , bình ổn thị trường tài chính , từ đó phục vụ
cho nhu cầu phát triển kinh tế của doanh nghiệp ,của đất nước.
7. Thị trường vốn là công cụ đánh giá, dự báo chu kì kinh doanh

của các doanh nghiệp của nền kinh tế.
Đứng trên quan điểm của chính phủ và trên quan điểm của các doanh
nghiệp thì thị trường vốn thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp , nhà nước và
thị trường. Thị trường vốn như cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn huy
động vốn và sử dụng vốn .
Với chính phủ thì phải ban hành những quy định và chính sách kinh tế
ngày càng hợp lý hơn, ngày càng đi sâu đi sát vào tình hình trên thị trường
vốn hơn. Chẳng hạn như : Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1/1/2005 của
Chính phủ về quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài giúp Chính phủ xây
dựng một cơ chế quản lý nợ an toàn, hiệu quả, thống nhất, và mang tính
chuyên nghiệp; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở đảm bảo
sự nhất quán và đồng bộ trong hệ thống văn bản phỏp lý hiện hành, đảm bảo
sự không phân biệt giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận nguồn vốn
của Chính phủ. Đạt được mục tiêu giám sát có hiệu quả hơn các nghĩa vụ dự
phũng và rủi ro tiềm ẩn đối với ngân sách Nhà nước và dự trữ ngoại tệ quốc
gia. Đồng thời tiến dần tới áp dụng các thông lệ được quốc tế thừa nhận rộng
rói, nhằm hỗ trợ quỏ trỡnh hội nhập kinh tế-tài chính khu vực và quốc tế của
nước ta Việc theo dõi, thu thập, xử lý thụng tin quản lý đảm bảo thường
xuyên, kịp thời đối với mọi hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý. Quy trình huy
động, đàm phán ký kết các Hiệp định vay, thủ tục giải ngân, thanh toán, thu
hồi vốn, trả nợ từ nguồn vốn nước ngoài đó được cải tiến theo hướng giảm
bớt thủ tục, thời gian và từng bước hài hoà với thông lệ quốc tế. Việc bố trí
sử dụng vốn đó được quy định một cỏch rừ ràng, trong đó xác định rừ những
loại dự án nào được ngân sách Nhà nước cấp, dự án phải vay lại, đồng thời
tăng thêm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc vay vốn thương
mại nước ngoài của các doanh nghiệp, gắn trách nhiệm sử dụng vốn hiệu
quả, tạo ra khả năng trả nợ và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay
và viện trợ nước ngoài
10
Đối với các doanh nghiệp thì thị trường vốn là một căn cứ rất quan

trọng trong sự phát triển kinh tế của doanh nghiệp, nhất là với các công ty cổ
phần , các công ty trách nhiệm hữu hạn có quy mô vốn hầu hết là vừa và nhỏ.
Để tăng quy mô sản xuất thỡ cỏc doanh nghiệp cần phải ỏp dụng nhiều biện
phỏp khỏc nhau,và một trong những yếu tố là cần phải tăng quy mô vốn để
đáp ứng nhu cầu sản xuất của công ty. Để có thể tăng quy mô vốn cho việc
sản xuất của mỡnh thỡ cú thể ỏp dụng nhiều phương thức huy động vốn khác
nhau như vay vốn của tổ chức tín dụng, tiền trợ cấp từ ngân sách nhà nước,
hay thế chấp tài sản của doanh nghiệp khi vay vốn của ngân hàng… Hiện nay
thỡ nguồn vốn ngõn sách không còn nữa khi Việt Nam chính thức gia nhập
WTO do đó các doanh nghiệp sẽ phải huy động vốn trên thị trường vốn.
Chính thị trường vốn sẽ là nơi huy động vốn một cách tốt nhất , đáp ứng một
cách đầy đủ và nhanh chóng về vốn cho các doanh nghiệp. Và cũng chính thị
trường vốn là căn cứ , là tín hiệu , là công cụ dự báo chu kỳ kinh doanh cho
các doanh nghiệp khi đi quyết định đi vay vốn.
8 . Thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ
của nhà nước.
chính sách và hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực lưu
thông tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các biện
pháp như phát hành tiền, chống lạm phát, dự trữ pháp định và quản lí dự trữ
ngoại tệ, tái chiết khấu các kì phiếu và lãi suất, chính sách lãi suất để đáp
ứng kịp thời nhu cầu giao dịch, ổn định sức mua của đồng tiền, phát triển sản
xuất, kinh doanh trong một giai đoạn nhất định. Là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lí kinh tế của nhà nước, trên cơ sở
vận dụng đúng đắn quy luật của sản xuất hàng hoá và quy luật lưu thông tiền
II. Phân loại thị trường vốn
1. Thị trường vốn đầu tư gián tiếp
Theo các chuyên gia về lĩnh vực đầu tư và tài chính nước ngoài thỡ thị
trường vốn đầu tư gián tiếp của Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng.
Cùng với việc tăng trưởng GDP của Việt Nam và có thể duy trỡ ở mức
8%/năm trong năm năm tới, thậm chí cũn cú thể nhanh hơn nếu có chính

sách cởi mở, thông thoáng hơn. Thỡ việc các nhà đầu tư nước ngoài chấp
nhận trái phiếu quốc tế VN cũng là một tín hiệu tốt cho lĩnh vực đầu tư gián
tiếp vào VN.
Theo VinaCapital, sau cuộc khủng hoảng tài chớnh khu vực cuối thập
niờn 1990, dũng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào VN đó tăng trở lại. Tuy
nhiên, con số vẫn cũn thấp so với đầu tư trực tiếp nước ngoài, chiếm khoảng
11
1,2% năm 2002 và tăng lên 3,7% năm 2004. Trong khi đó, tỉ lệ này ở Thái
Lan, Malaysia và Trung Quốc là 30-40%. “Các quĩ đầu tư có mặt tại đây
đang nắm giữ một lượng vốn khoảng 100 tỉ USD. Chỉ cần họ đồng ý chi 1%
trong số này vào VN là chỳng ta đó cú 1 tỉ USD” - ụng Don Lam, tổng giỏm
đốc VinaCapital, nói.
Và thực tế đó chứng minh điều này khi Việt Nam mở cửa thị trường
vốn của mình với những chính sách thông thoáng hơn. Các doanh nghiệp ,
các tổ chức tài chính nước ngoài đó chính thức nhảy vào thị trường vốn của
Việt Nam một cách nhanh chóng với một tốc độ chóng mặt.
Ngoài VinaLand, VinaCapital đang nỗ lực giải ngân nốt số tiền cũn lại
chừng 50 triệu đô la Mỹ trong tổng số 171 triệu đô la Mỹ của Quỹ Vietnam
Opportunities Fund (VOF). Hướng đầu tư chính của VOF tiếp tục là cổ phiếu
OTC và địa ốc
Không phải chỉ có VinaCapital nhận ra cơ hội đầu tư tài chính ở Việt
Nam đang bùng nổ. Dragon Capital, công ty quản lý quỹ có thâm niên nhất ở
Việt Nam, vừa nhận quản lý thêm một quỹ mới, Vietnam Dragon Fund, với
số vốn 35 triệu Đôla Mỹ.
Đây là quỹ thứ ba của Dragon Capital, cùng với hai quỹ khác là VEIL
(vốn 190 triệu đô la Mỹ) và Vietnam Growth Fund (90 triệu Đôla Mỹ). Công
ty Quản lý quỹ MekongCapital đó đầu tư gần hết số vốn 18,5 triệu Đôla Mỹ
của Mekong Enterprise Fund vào các doanh nghiệp cổ phần và tháng 5 này
sẽ ra mắt một quỹ mới với số tiền 40 triệu Đôla Mỹ.
Indochina cũng không đứng ngoài cuộc đua đầu tư gián tiếp khi họ

đang có trong tay hai quỹ, một địa ốc với 42 triệu đô la Mỹ và một quỹ
chứng khoán với 50 triệu Đôla Mỹ. Quỹ đầu tư Phan-xi-phăng (PXP) đó
“đổ” 93% của số tiền 25,8 triệu Đôla Mỹ vào 23 công ty niêm yết và chưa
niêm yết, đồng thời dự kiến phát hành thêm 3,5 triệu cổ phiếu để tăng vốn
trong quí 2 năm nay.
Tuy nhiên nhiều nhà đầu tư cũng cảnh báo, chính sách mở cửa của
Chính phủ Việt Nam đó tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài
nước, thu hút được nhiều nguồn vốn, tốc độ phát triển nhanh, nhưng vấn đề
là cần phải có một khung pháp lý hoàn thiện để có thể kiểm soát được hoạt
động của các doanh nghịêp.
Vấn đề tiếp theo mà Việt Nam cần lưu ý là xu hướng luân chuyển
đồng vốn trên thị trường thế giới quá nhanh, vì vậy, Việt Nam cần phải có
qui chế, cơ sở hạ tầng để điều chuyển nguồn vốn hịêu quả, là phải hoàn thiện
hệ thống tài chính, ngân hàng, kiểm toán.
2.Thị trường vốn quốc tế.
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế ngoài mục
tiêu huy động vốn cũng nhằm tạo ra một hình ảnh của Việt Nam trường thị
12
trường vốn quốc tế. Trong bối cảnh chúng ta đó tiến hành hội nhập về hoạt
động thương mại, đầu tư thì hội nhập tài chính không thể đứng ngoài cuộc.
TPCP do Việt Nam phát hành trên thị trường quốc tế sẽ là thước đo cho các
nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào Việt Nam.
Thứ trưởng Tài chính Lê Thị Băng Tâm cho biết: “Việc phát hành trái
phiếu lần này có ý nghĩa rất quan trọng vỡ đây là một trong những mục tiêu
của Việt Nam tham gia hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế, đồng thời
việc phát hành trái phiếu quốc tế cũng là một phương thức vay thương mại
trong chiến lược huy động vốn của Việt Nam, đảm bảo quyền tự chủ trong
việc sử dụng nguồn vốn huy động được không bị lệ thuộc vào điều kiện của
các nhà thầu như vay tín dụng xuất khẩu. Đồng thời việc phát hành trái phiếu
lần này đó mở đường cho các doanh nghiệp lớn của Việt Nam trực tiếp huy

động nguồn vốn trung và dài hạn bằng ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư
phát triển kinh tế”.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trên thế giới thì số lượng các
nhà đầu tư quốc tế tham gia mua trái phiếu đạt mức kỷ lục trên thị trường
vốn trong nhiều năm lại đây (lên tới 255 nhà đầu tư lớn). Các nhà đầu tư
tham gia mua trái phiếu của Chính phủ Việt Nam đều là những nhà đầu tư
lớn, có uy tín trên thị trường tài chính quốc tế. Điều đặc biệt là số trái phiếu
này được phát hành rộng khắp trên thế giới đó là Châu Á nắm 38%, Châu Âu
nắm 32% và Mỹ là 30%.
Về cơ bản, kinh tế của Việt Nam đó được công nhận là đổi mới:
Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN; Từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN; Chuyển một nền kinh tế khép kín, nhập khẩu là chủ yếu sang
nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay
thế nhập khẩu những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế và có hiệu quả.
Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền
kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung
Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lũng tin của nhà đầu tư đối với
trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tỡnh hỡnh kinh tế chớnh
trị cỏc nước này thời gian qua không ổn định lắm. Số tiền thu được sẽ được
bơm thêm vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bỡnh từ 7
- 8% của Việt Nam, cựng với việc đầu tư nước ngoài đang tăng nhanh tại
đây.
Việt Nam đó rút ra nhiều bài học từ kinh nghiệm của các nước trong khu
vực trong suốt 20 năm qua và đang có những chiến lược kinh tế tài chính
được đánh giá cao. Chính phủ đó cú kế hoạch 5 năm sắp tới (2006-2010) là
thời gian quyết định để thực hiện chiến lược đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng
13
nước đang phát triển ở trình độ thấp và tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản
trở thành một nước công nghiệp hiện đại.

Các nhà đầu tư hy vọng chiến lược đó sẽ giúp họ hưởng lợi lớn trong
tương lai khi bỏ tiền vào Việt Nam để cùng Việt Nam bước vào công cuộc
cải cách mới.
3. Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn
3.1 Thị trường sơ cấp.
Thị trường sơ cấp đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua phát
hành chứng khoán ra công chúng (POs - Public Oferrings hoặc lPOs - Initial
Public Oferring). Thị trường sơ cấp thực sự là kênh huy động vốn trung và
dài hạn cho nên kinh tế. Thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua
đi bán lại chứng khoán, từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng
khoán được giao dịch
Trong khi đó tại Việt Nam thì tại thị trường sơ cấp chỉ mới huy động
một lượng vốn cũng rất nhỏ so với quy mô đầu tư. Năm 2000 và 2001, số
huy động vốn qua kênh này bằng 0, năm 2002 là 0,035 nghìn tỷ đồng. Nếu so
sánh với dư nợ cho vay trung và dài hạn đa là con số không đáng kể, so với
tổng dư nợ cho vay của cả hệ thống ngân hàng thì con số là không có ý nghĩa
gì. Hoạt động của thị trường sơ cấp rất mờ nhạt trong hai năm đầu đi vào
hoạt động có duy nhất Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) phát
hành thêm 01 triệu cổ phiếu mới (tương dương với số vốn 35 tỷ đồng) để huy
động vốn cho dự án giấy kraf.
Ngoài ra , khi nói đến thị trường sơ cấp không thể không nói đến vai
trò của các ngân hàng thương mại.
Các ngân hàng thương mại đảm nhiệm vai trò trong việc bảo lãnh phát
hành chứng khoán cho đơn vị phát hành. Tuy nhiên tại Việt Nam, bảo lãnh
phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ
tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các ngân hàng thương mại có ưu
thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành.
Như vậy, ở thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay chưa thực
sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, nó chỉ mới
đáp ứng một phần rất nhỏ trong tổng quy mô vốn đầu tư của cả nước.

3.2 Thị trường thứ cấp
Nếu thị trường sơ cấp là nơi kênh huy động vốn trung và dài hạn cho
nền kinh tế thì thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua bán lại
chứng khoán đó từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán
được giao dịch.
14
Ở thị trường thứ cấp của Việt Nam thỡ Thị trường thứ cấp lại hoạt
động trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong
thời gian gần đây. Nguyên nhân là do việc công bố thông tin của các doanh
nghiệp niêm yết trong một số trường hợp không trung thực, đánh mất lòng tin
của công chúng đầu tư đối với thị trường. Có thể nêu vài ví dụ: Công ty đồ
hộp Hạ Long CANFOCO, tổng giám đốc bị truy tố đến sáu tháng mà các nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán không hề hay biết Công ty bánh kẹo Biên
Hoà đến 30/6/2003 vẫn tiếp tục trì hoãn không công bố thông tin về tình hình
hoạt động kinh doanh trong năm 2002.
Tuy nhiên nếu tính đến việc vay vốn nước ngoài thông qua việc phát
hành trái phiếu chính phủ thì trên thị trường thứ cấp chúng ta lại thu được
những kết quả rất tích cực , hơn cả sự mong đợi của các nhà đầu tư và của
chính phủ.
Qua đó chúng ta có thể thấy được tính thanh khoản cũng như việc mua
bán các công cụ trên thị trường thứ cấp. Tại thị trường thứ cấp thì việc buôn
bán các công cụ tài chính hết sức linh hoạt và biến động một cách liên tục.
Đây cũng là thị trường được công chúng đầu tư quan tâm nhất và được theo
dõi liên tục nhất.
4. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường.
4.1 Thị trường cổ phiếu.
Người ta có thể có hàng trăm cách để đầu tư, muốn chọn được cách tốt
nhất thì nhà đầu tư trước hết phải tìm được thông tin cơ bản về các công cụ
tài chính mà họ đang xem xét. Trong thị trường chứng khoán thì cổ phiếu là

công cụ tài chính thường được sử dụng nhất , thường được buôn bán nhiều
nhất do tính đại chúng và lượng thông tin nhiều, được phổ biến rộng rãi.
Thứ nhất : Thị trường chứng khoán của Việt Nam mặc dù còn non trẻ
nhưng cũng đó gúp phần rất lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Và được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất cao và được coi là thị trường
đầy tiềm năng. Bên cạnh đó thì chính phủ Việt Nam cũng đó và đang rất
quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chính phủ đó có các nghị quyết và chủ trương liên quan đến chiến
lược phát triển của toàn ngành chứng khoán, đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đi đôi với phát triển thị trường chứng
khoán. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được chuyển giao về Bộ Tài chính
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát
triển
Thứ hai : Trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua bán cổ
15
phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được giao dịch khá
thường xuyên; trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Vinamilk, Giống
Cây trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược Hậu Giang, Bảo Minh,
Sacombank, ACB, Eximbank…
Bên cạnh đó, với nỗ lực đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước và được khích lệ bởi sự tăng trưởng trở lại của thị trường
chứng khoán chính thức, các đợt đấu giá bán cổ phần ra công chúng thật sự
“bùng nổ” và thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng đầu tư.
Thứ ba : Làn sóng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần .
Vấn đề tăng cường nội lực tài chính. Sức mạnh từ nội lực sẽ là nguồn gốc để
tăng trưởng một cách bền vững chứ không dựa vào nguồn lực từ bên
ngoài .Do đó để phát triển thị trường chứng khoán nói chung thì cần phải
tăng cường nội lực, củng cố năng lực tài chính một cách vững mạnh. Hiện tại
, theo ước tính cả nước ta có khoảng 34 ngân hàng thương mại cổ phần đang
hoạt động. Hầu hết là những ngân hàng có tiềm lực tài chính vừa và nhỏ so

với quy mô của thế giới, cho nên hầu hết các ngân hàng này đang thực hiện
chính sách thắt lưng buộc bụng để tăng vốn điều lệ, nhất là trong hai năm gần
đây. Một số đơn vị đó thành công với chiến lược tăng vốn của mình và trở
thành những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu, như: Sacombank hiện
có 505 tỷ đồng; ACB với 423,9 tỷ đồng. Kế đến là NHCP Xuất Nhập khẩu
với 300 tỷ đồng, ngân hàng quân đội 280 tỉ , ngân hàng VIB 180 tỉ .Các ngân
hàng đó thực hiện tăng vốn, mở rộng quy mô hoạt động; chuẩn bị cho thời kỳ
hội nhập với các tổ chức thương mại quốc tế và thực hiện cam kết Hiệp định
thương mại Việt - Mỹ; theo đó, ngân hàng sẽ phải đối đầu với những cạnh
tranh gay gắt
Thứ tư : Quá trình nhảy vào của các ngân hàng nước ngoài vào thị
trường vốn ở Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước đó quyết định mức sở hữu tối đa của các nhà đầu
tư nước ngoài tại ngân hàng cổ phần trong nước là 30%, dự thảo Nghị định
về tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng trong nước do
NHNN soạn thảo đó được trình Chính phủ. Cho dự như vậy, các ngân hàng
nước ngoài dường như vẫn sẵn sàng cho một đợt tăng số tiền góp vốn trong
các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các cổ đông chiến lược nước ngoài tới
đây sẽ được sở hữu tới 20% cổ phần tại một ngân hàng Việt Nam.
Qua đó chúng ta có thể thấy được khả năng huy động vốn từ đầu tư
gián tiếp của nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán mà cụ thể ở đây
là thông qua việc mua cổ phiếu để trở thành cổ đông. Tuy nhiên ở đây chúng
ta phải lưu ý là việc huy động từ đầu tư nước ngoài phải hết sức phòng tránh
việc thôn tính của các ngân hàng nước ngoài đối với các ngân hàng trong
nước. Từ đó có thể làm đảo lộn thị trường tài chính của Việt Nam , tránh một
16
cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Hơn nữa, hầu hết các ngân hàng
của Việt Nam hầu hết còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc
quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả từ các nguồn vốn có thể huy
động được. Từ đó mới thấy hết tầm quan trọng của nguồn vốn.

4.2. Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chỉ là mới
giai đoạn đầu với sự tồn tại sơ khai của trái phiếu chính phủ. Dư nợ của trái
phiếu cũng rất thấp, chỉ mới chiếm khoảng 7% GDP so với các thị trường
khác trong khu vực như : Trung Quốc 21% , Thái Lan 33% và Malaxia
62% Do đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 7,5%/năm
trong giai đoạn 2000 - 2010, nhu cầu vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế là
rất lớn, khoảng 30 - 35% GDP/năm.
Tuy còn non trẻ về tuổi đời, ít đa dạng trong chủ thể phát hành nhưng
trong năm 2005 được coi là năm thành công của thị trường trái phiếu của
Việt Nam và cũng là năm đánh dấu sự nở rộ của các loại trái phiếu trong
nước được đăng kí giao dịch trên thị trường chứng khoán .
Phát hành trái phiếu chính quyền địa phương cũng có nhiều khởi sắc.
Đến nay, đó có 3 tỉnh, thành phố phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương với tổng số tiền huy động trên 7.000 tỷ đồng, trong đó Thành phố Hồ
Chí Minh đó huy động 2.000 tỷ đồng trái phiếu, nâng tổng số huy động trong
3 năm (2003-2005) lên gần 6.000 tỷ đồng, Hà Nội huy động trên 1.100 tỷ
đồng trái phiếu Thủ đô và Đồng Nai huy động khoảng 243 tỷ
4.3. Chứng khoán phái sinh
Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở
những công cụ đó cú như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác
nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ hoặc tạo lọi nhuận.Các chứng khoán phái
sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ
phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay
đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức
ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và
mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền,
hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng,
nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là Hợp đồng tương lai (futures), Hợp
đồng kỳ hạn (forwards), Quyền chọn (options) và Hợp đồng hoán đổi

(swaps).
Thứ nhât( Hợp đồng tương lai).
Hợp đồng tương lai (Futures) là việc thoả thuận giữa các bên về những
nghĩa vụ mua bán phải thực hiện theo mức giá đó xác định cho tương lai mà
không phụ thuộc vào giá thị trường tại thời điểm đó.
Thứ hai: Hợp đồng kỳ hạn (forward)
17
Là một thỏa thuận trong đó một người mua và một người bàn chấp
nhận thực hiện một giao dịch hang hóa với một khối lượng xác định tại một
thời điểm xác định.
Thứ ba: Quyền chọn (Option)
trong Option có hai loại là Option mua và Option bán.
OPTION mua: là quyền của nhà đầu tư trong đó người mua option sẽ
trả cho người bán option một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí
quyền chọn (option premium) và người mua option sẽ có quyền được mua
(nhưng không bắt buộc phải mua) một lượng tài sản nhất định (chứng khoán,
ngoại tệ, hàng hoá…) theo một mức giá đó được thoả thuận trước tại thời
điểm đó xỏc định trong tương lai.
OPTION bán : là quyền của nhà đầu tư trong đó người mua OPTION
bán sẽ phải trả cho người bán option bán một khoản tiền, gọi là phí quyền
chọn và người mua option bán nay sẽ có qưyền được bán một lượng tài sản
nhất định theo một mức giá đó được thoả thuận trước tại thời điểm đó được
xác định trong tương lai.
Thứ tư : Hợp đồng hoán đổi (Swaps)
SWAPS dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực lãi
suất và tiền tệ. Nhiều công ty, ngân hàng muốn có swap để ấn định tỷ lệ lãi
suất nhằm giảm thiểu sự bất ổn trong kinh doanh. Trên thực tế, việc đầu tư
vào các các công cụ phái sinh vẫn chưa được nhiều nhà đầu tư chú ý, bởi nếu
các nhà đầu tư mạo hiểm mua thật nhiều cổ phiếu mà không băn khoăn về
khả năng thua lỗ thì họ sẽ thu về hàng triệu USD lợi nhuận; trong khi đầu tư

vào các công cụ phái sinh, tuy đảm bảo được sẽ không bị thua lỗ nhưng do
các bên cung cấp công cụ phái sinh trên thị trường thường giới hạn một
lượng cung cấp nhất định đồng thời yêu cầu mức phí khá cao, nên các nhà
đầu tư chỉ thu về một phần lợi nhuận nhỏ hơn rất nhiều. Trên đây là những
công cụ phái sinh phổ biến trên các thị trường giao dịch chứng khoán trên thế
giới. Đây là những công cụ giúp các nhà đầu tư tránh được những nguy cơ do
rủi ro khi đầu tư vào thị trường đầy mạo hiểm này.
5. Căn cứ vào phương thức hoạt động
5.1 Thị trường niêm yết tập trung
Thị trường niêm yết tập trung hay còn gọi là sở giao dịch được tổ chức
tập trung có địa điểm giao dịch cố định. Chứng khoán được mua bán là loại
đó được niêm yết tại Sở giao dịch, việc mua bán được thực hiện theo phương
thức đấu giá hai chiều giữa đại diện người mua và đại diện người bán.Các
môi giới sàn giao dịch cùng nhau trả giá cạnh tranh và sẽ thực hiện giao dịch
khi đạt được giá thoả đáng nhất cho khách hàng đầu tư .
18
Thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay do mới xuất hiện nên
chúng ta chỉ có hai thị trường niêm yết tập trung tại thành phố Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh.
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì thị trường niêm yết tập
trung cũng đó có sự phát triển để đáp ứng với nhu cầu vốn đầu tư của các
doanh nghiệp trên thị trường niêm yết cũng như trên thị trường giao dịch phi
tập trung
5.2 thị trường phi tập trung (OTC)
Thị trường phi tập trung(OTC) được tổ chức không dựa vào một mặt
bằng giao dịch cố định nào mà chỉ dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ
chế cạnh tranh và thương lượng giữa các công ty chứng khoán với nhau
thông qua một sự trợ giúp quyết định nhiều đến hiệu quả hoạt động.
Ở các nước phát triển thỡ thị trường giao dịch phi tập trung phát triển
một cách mạnh mẽ hơn thị trường giao dịch niêm yết tập trung nhờ hệ thống

làm giá linh động hơn.
Tại Việt Nam hiện nay thì thị trường OTC đang phát triển tại trung
tâm giao dịch tại Hà Nội theo chiến lược phát triển thị trường chứng khoán
của chính phủ trong những năm sắp tới. Và sẽ xây dựng một thị trường OTC
hiện đại tại Hà Nội.Tính đến nay, sau một năm triển khai hoạt động, trung
tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đó tổ chức giao dịch cho 12 công ty đăng
ký giao dịch với tổng số 494 triệu cổ phiếu (tương đương với 4.940 tỷ đồng
theo mệnh giá); tổng giá trị vốn hoá thị trường của 12 công ty là 14.876 tỷ
đồng, tương đương với 1,95% GDP năm 2005; doanh số giao dịch đạt trên
1.900 tỷ đồng (trong đó có khoảng 1.200 tỷ đồng cổ phiếu); đó tổ chức đấu
giá thành công cho 71 phiên đấu giá cổ phần (trong đó có 31 phiên đấu giỏ
do Hà Nội chủ trỡ) với tổng giá trị cổ phiếu đấu giá đạt 3.230 tỷ đồng (tổng
giá trị cổ phiếu do Hà Nội chủ trỡ đạt 2.040 tỷ đồng). Nhìn chung, tham gia
đăng ký giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội phần lớn là
các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá thực hiện bán đấu giá cổ phần lần
đầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán và sau đó gắn kết với đăng ký giao
dịch, đặc biệt là một số doanh nghiệp có quy mô vốn rất lớn, như Nhiệt điện
Phả Lại (3.070 tỷ đồng); Thuỷ điện sông Hinh-Vĩnh Sơn (1.250 tỷ đồng); Tái
bảo hiểm quốc gia (340 tỷ đồng); Điện lực Khánh Hoà (150 tỷ đồng)
6. Quỹ đầu tư.
Thường gọi là “ Quỹ của các Quỹ” hay Hedge Fund.
Trong lĩnh vực chứng khoán, “Hedge” là thuật ngữ dùng để chỉ một
chiến lược nhằm bù đắp những rủi ro đầu tư. Vì thế “Hedge Fund” (HF) còn
được dịch là “Quỹ phòng hộ” hay “Quỹ của các Quỹ”, như giới đầu tư chứng
khoán thường gọi.
19
Ở Việt Nam hiện nay đó xuất hiện nhiều loại quỹ đầu tư khác nhau do
các ngân hàng và các công ty tài chính quốc tế đưa vào. Tuy số lượng các
quỹ đầu tư này còn ít song nó cũng đã có sự phát triển mạnh mẽ trong những
năm qua.

Cụ thể :
20
Một số dạng Quỹ đầu tư hiện nay
Loại Quỹ Hình thức hoạt
động
Các Quỹ tiêu
biểu tại VN
Venture
Fund
Chuyên đầu tư
vào doanh nghiệp đang
trong giai đoạn khởi
nghiệp nhưng có triển
vọng phát triển
IDG Việt Nam
Private
Equity Fund
Chuyên đầu tư
vào doanh nghiệp đó cú
những bước phát triển
ổn định và đang có dự
định niêm yết trên
TTCK
Mekong Capital,
Dragon Capital, VOF,
Indochina Capital
Listed
Securties Fund
Chuyên đầu tư
vào doanh nghiệp phát

triển mạnh và đó được
niêm yết trên TTCK
PXP, Dragon
Capital, VOF,
Indochina Capital
Asset
Management
Company
Chuyên đầu tư
trong lĩnh vực cổ phiếu,
trái phiếu
Prudential,
Manulife và khu vực
ngân hàng
Có thể nói với sự tham gia đầu tư của các quỹ này thì thị trường chứng
khoán của Việt Nam sẽ được phát triển một cách mạnh mẽ hơn, những yêu
cầu và đòi hỏi về tính minh bạch và công khai tài chính đối với các doanh
nghiệp sẽ khắt khe hơn. Từ đó sẽ làm lành mạnh hoá nền tài chính của Việt
Nam
hợp tác kinh doanh được mở ra và đi liền đó là nhu cầu cần phải thẩm
định các cơ hội làm ăn này. Mặt khác, hội nhập kinh tế đòi hỏi phải có sự
minh bạch hóa cao về thông tin doanh nghiệp, chẳng hạn như về tài chính,
năng lực điều hành, công nghệ áp dụng nhưng trong thực tế các doanh
nghiệp Việt Nam phần lớn đều có xu hướng che giấu sự thật về bản thân
mình, khuếch trương những điểm tốt, mặt mạnh, che giấu thông tin tài chính
thực và những hạn chế của mình.
III. Các luồng di chuyển và các tụ điểm vốn
Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó nguồn tài chính được tạo ra đồng
thời cũng là nơi thu hút trở lại của các nguồn vốn ở các mức độ và
phạm vi khác nhau.Trong hoạt động kinh tế các tụ điểm vốn này có mối

21
liên hệ thường xuyên với nhau thông qua nhưng mối quan hệ nhất định.
+ )Thứ nhất: tài chính doanhnghiệp
Tại đây nguồn tài chính xuất hiện là nơi thu hút trở lại phần quan
trọng của các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Tài chính doanh
nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài
chính có tác động to lớn đến nền sản xuất và đời sống xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường , đặc trưng cơ bản của tài chính doanh
nghiệp được thể hiện như sau:những quan hệ tài chính vận hành theo cơ
chế kinh doanh hướng tới lợi nhuận cao vì vậy nguồn tài chính được
tăng cường và mở rộng đáp ứng tốt nhu cầu về vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh .
+) Thứ hai: Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước gắn liền với chức năng nhiệm vụ của nhà nước, là
phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực
hiện nhiệm vụ của mình. Vai trò của ngân sách nhà nước, điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường,
bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
Có thể nói ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế thị trường, để thực hiện vai trò của mình thì ngân sách nhà nước
phải có nguồn vốn tập trung từ các tụ điểm vốn. Ngân sách nhà nước
thực hiện các khoản chi cho tiêu dùng và chi đầu tư kinh tế, việc
cấp phát vốn ngân sách nhà nước cho các mục đích khác nhau sẽ tăng
nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn.
Những mối quan hệ nảy sinh trong hoạt động thu chi cho ngân sách nhà nước
đó là:
- Mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước với tổ chức kinh tế xã hội, tầng
lớp dân cư, nhà nước với nhà nước khác
- Mối quan hệ kinh tế giữa tụ điểm vốn quan trọng, ngân sách nhà nước
với bộ phận khác.

+)Thứ ba: tài chính dân cư và các tổ chức xã hội
- Là tụ điểm vốn quan trọng bởi nền kinh tế nếu có những biện pháp thích
hợp thì chúng ta có thể huy động nguồn vốn lớn từ các hộ gia đình để
phục vụ cho sự phát triển kinh tế và góp phần vao việc thực hiện
chính sách về định hướng tích lũy và tiêu dùng của nhà nước.
Đặc điểm
- tài chính hộ gia đình có tính chất phân tán và đa dạng
Nguồn lực tài chính phân bố rải rác, không đồng đều trong hàng triệu
tư bản nhỏ của nền kinh tế chứ không quy tụ vào những tụ điểm lớn đó
là hộ gia đình.
Quy mô của nguồn vốn trong hộ gia đình rất lớn
22
+)Thứ tư: Tài chính đối ngoại
Không tập trung vào một tụ điểm nhất định mà phân tán đan xen vào các
quan hệ tài chính khác
Tính chất độc lập tương đối vị trí đặc biệt của quan hệ tài chính .
Những kênh vận động của tài chính đối ngoại gồm có:
- Quan hệ nhận viện trợ hoặc vay vốn nước ngoài cho quỹ ngân sách nhà
nước hoặc cho doanh nghiệp ,dân cư .
- Quan hệ tiếp nhận vốn đàu tư nước ngoài giữa các tổ chức kinh tế
trong và ngoài nước .
- Quá trình thanh toán xuất nhập khẩu giữa các doanh nghiệp ,tổ chức
trong và ngoài nước .
- Chuyển tiền và tài sản giữa cá nhân ngoài nước cho thân nhân trong nước .
- Việc thực hiện các hợp đồng chuyển phí bảo hiểm và thanh toán bảo hiểm .
+)Thứ năm:bộ phận dẫn vốn thực hiện chức năng truyền và dẫn vốn giữa
các tụ điểm vốn .
Gồm :Thị trường tài chính và các tụ điểm tổ chức tài chính trung gian
- Hoạt động dẫn vốn được thực hiện trực tiếp bằng cách:những người cần
vốn bán thị trường các công cụ nợ ,các cổ phiếu hoặc thực hiện vay

thế chấp;những người có vốn thì sử dụng tiền vốn của mình để mua vào.
- Các trung gian tài chính thực hiện việc dẫn vốn thông qua hoạt động
tài chính gián tiếp .
Trung gian tài chính huy động vốn từ những người có vốn để tạo thành
vốn kinh của mình . Sau đó sử dụng kinh doanh này để cho những người
vay lại hoặc đầu tư .
Như vậy trung gian tài chính đã tập trung được các nguồn vốn nhỏ từ
các hộ gia đình ,tổ chức kinh tế thành một lượng vốn lớn để đáp ứng
nhu cầu của người cần vốn ,từ những cá nhân chưa ai biết đến tới những
công ty lớn có tiếng trên thị trường.
- Dòng vốn và đầu tư tác động tới giá trị của một đồng tiền. Dòng vốn
đo lượng tiền chảy vào và ra khỏi một nền kinh tế vì các mục đích đầu
tư như mua chứng khoán hay trái phiếu ,sáp nhập hay hợp nhất công ty.
- Dòng vốn :tiền tệ chảy qua biên giới giữa các nước với một khối lượng
ngày càng tăng .
- Một số ví dụ về các luồng di chuyển và tụ điểm vốn:
Phát triển năng lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ,bảo
đam an toan f năng lượng quốc gia .Đảng ta đã khẳng định tại hội thảo
quốc tế: ‘‘giải pháp huy động nguồn vốn đầu tư phát triển năng lượng
việt Nam”
Phát triển năng lượng là nhiệm vụ quan trọng nhưng cũng rất vinh quang
của ngành năng lượng vì nó đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn. Do đó
23
việc thu hút nguồn vốn đấu tư cho phát triển năng lượng la nhiệm vụ
phải giải quyết trước tiên. Các dự án năng lượng khi đã được nguồn vốn
tài trợ sẽ là cơ sở để triển khai thành công các bước đầu tư.
- Đầu tư cho việc nâng cấp cơ sở hạ tầng nhăm phát triển giáo duc cũng
cần có một số nguồn vốn đang kể
- Đối với ngành dầu khí, các dự án kêu gọi của tập đoàn dầu khí Việt
Nam bao gồm: các dự án hạ nguồn, cảng biển, bất động sản, đầu tư tài

chính, trang thiết bị cho ngành dầu khí
Theo kế hoạch đầu tư giai đoan 2010-2015 tổng nhu cầu đầu tư của
ngành dầu khí là 75 tỉ USD
- Đầu tư trực tiếp nươc ngoài:
Nhật Bản đã tăng cường đầu tư vào các nước tây Âu .Họ sản xuất và bán
ô tô , máy tính ngay tại mĩ và Châu Âu để giảm xuất khẩu các sản phẩm
này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba và
từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mĩ và Châu Âu
Nhật Bản co lợi thế thặng dư về vốn chênh lệch so với các nước Tây Âu,
một nước thừa vốn sễ có năng suất cận biên thấp hơn và ngược lại nên
tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi thừa sang nơi
khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản xuất giữa các nước
thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn.
- Nguồn thu ngân sách lớn
Đối với nhiều nước đang phát triển hoặc đơn vị nhiều địa phương thuế
của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách
quan trọng
Ví dụ: Ở Hải Dương riêng thu từ thuế từ công ty lắp ráp oto Ford chiếm
50% so với nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006
- Các loại vốn đầu tư
Vốn đầu tư khai thác chuyển giao và công nghệ
Vốn đầu tư nhằm tiếp cận nguồn tài nguyên, tiếp thu công nghệ và bí
mật quản lí, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu, tăng số lượng việc
làm và đào tạo nhân công.
Vốn chứng khoán
Vốn tái đầu tư
Vốn vay nội bộ
Vốn tìm kiếm tài nguyên
Vốn đầu tư nhằm tìm kiếm hiệu quả
Vốn tìm kiếm thị trường.

24
IV. Chính sách tạo vốn và sử dụng trong nền kinh tế
Muốn phát triển kinh tế, cần có 3 yếu tố: Lao động, vốn, công
nghệ. Các yếu tố này còn được gọi là các nguồn lực khan hiếm. Đối với nước
ta, lực lượng lao động dồi dào, nhưng nguồn vốn quá ít ỏi và công nghệ còn
lạc hậu. Tất nhiên là muốn đổi mới công nghệ cũng cần phải có vốn. Do đó,
vốn là vấn đề mấu chốt trong chính sách ở giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô ở mọi quốc gia là tăng tổng sản
phẩm quốc dân (GNP). Muốn tăng GDP, điều tất yếu là phải tăng vốn đầu tư
cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Vấn đề đặt ra là xác định nhu cầu vốn
trong mỗi thời kì như thế nào
Có nhiều cách tính nhu cầu vốn trên cho một quốc gia trong một
thời kì nhất định.
Cách thứ nhất: Xác định nhu cầu vốn trên cơ sở gắn liền với việc
giả quyết vấn đề xã hội và việc làm
Cách thứ hai: Dựa vào mô hình Harrod Domar: ∆Y = a*∆k
Trong đó:
∆Y: Mức gia tăng về sản lượng sản phẩm
∆k: Mức gia tăng về vôn đầu tư
a: Hệ số tăng trưởng
Các nhà kinh tế tính toán hệ số tăng trưởng tại các nước đang phát
triển biến động từ 0,14 – 0,30. Ở nước ta, con số này những năm đầu thập
niên 90 khoảng 0,5.
Để thực hiện chính sách tạo vốn cần giải quyết một số vấn đề sau:
• Bằng mọi biện pháp và hình thức, các công cụ tài chính phải
hướng vào việc khai thác mọi tiềm năng về vốn trong nền kinh tế.
• Đẩy mạnh hoạt động tài chính đối ngoại nhằm thu hút các nguồn
vốn từ bên ngoài
• Tiết kiệm và hiệu quả trong sử dụng vốn
• Điều chỉnh cơ cấu chi ngân sách nhà nước theo hướng giảm các

nhu cầu chi chưa thực sự cấp bách
• Sử dụng triệt để các công cụ tài chính trung gian để khai thông các
nguồn vốn và hình thành thị trường vốn và thị trường tiền tệ, mở rộng tính tự
chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ tài chính- tiền tệ hoạt
động môi giới.
25

×