Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.13 KB, 49 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : LÊ HÙNG
SINH VIÊN : TRẦN THANH THẾ
LỚP : CĐ 19 E1
TP. HỒ CHÍ MINH 2005

Nông nghiệp là ngành sản xuất kinh tế ra đời sớm nhất trong lòch sử loài
người.
Nông nghiệp không chỉ là một cơ sở cho sự phát triển công nghiệp và cho
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (cung cấp lương thực, thực
phẩm, nguyên liệu, đất đai, lao động, tiền vốn, thò trường cho công nghiệp nhẹ
và dòch vụ). Trái lại, nông nghiệp hiện đại là một loại công nghiệp và dòch vụ
có năng suất và hiệu quả cao, có giá trò sử dụng thiết yếu không gì thay thế
được, tạo ra giá trò gia tăng lớn, có thể cần phải và đang trở thành một ngành
rất quan trọng của kinh tế tri thức . . .
Còn nông thôn không phải là một đòa bàn thứ yếu và hậu phương phụ
thuộc vào thành thò, có trình độ phát triển về các mặt đều thấp hẳn so với thành
thò, cổ hủ, lỗi thời, lạc hậu về chính trò, kinh tế, văn hóa, xã hội nơi con người,
nhất là lớp trẻ luôn hướng ra thành thò.
Trái lại, nông thôn hiện đại là một dạng của thành thò, sự phân biệt giữa
thành thò và nông thôn đang mất dần, trong nông thôn có các thành phố và thò
trấn văn minh, sự khác nhau giữa thành thò và nông thôn là ưu việt hơn cho
nông thôn, chứ không phải cho thành thò.
* Nông thôn hiện đại là một đòa bàn để giữ gìn và tô điểm môi trường sinh
thái của loài người, chứa đựng “lá phổi và trái tim” của sự sống trên thế giới.
* Nông thôn hiện đại là một không gian rộng lớn mà tại đó con người được
sống, gắn bó hài hòa với thiên nhiên, cây cỏ, chim muông, sông núi, đất trời,
không ngột ngạt trong những thành phố đầy nhà chọc trời, bê tông, sắt thép và
kính.


* Nông thôn hiện đại là nơi nghỉ mát trong lành, giải trí phong phú, là vùng
du lòch sinh thái đa dạng, yên tónh, thanh bình …
Vì vậy mà việc đề ra “Những phương hướng phát triển kinh tế nông
nghiệp và nông thôn ở Việt Nam” là hết sức quan trọng và cần thiết.
Nói đến việc phát triển nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam (VN) là nói
đến toàn bộ những phương hướng của Nhà nước ta đề ra để phát triển nông
nghiệp và nông thôn. Ngoài ra, còn nói đến những thành phần kinh tế nào tác
động chính đến việc phát triển nông nghiệp và nông thôn. Những vấn đề lớn về
các biện pháp tiên tiến trên thế giới đã và đang và sẽ được áp dụng vào Việt
Nam như thế nào để phát triển nông nghiệp và nông thôn một cách hiệu quả tốt
nhất.
Để thực hiện tốt nhất các phạm vi trên, thì chúng ta phải có những cách
thức thế nào? Để thực hiện một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất để đưa nông
nghiệp và nông thôn ở nước ta phát triển mạnh mẽ. Ví dụ như : làm sao để đưa
khoa học kỹ thuật mới nhất trên thế giới vào nền nông nghiệp và nông thôn ở
Việt Nam, làm sao để chọn một thành phần kinh tế phù hợp nhất để phát triển
nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, làm sao có phương hướng nhanh nhất để
thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
ở nước nhà …
Để sử dụng và áp dụng thành công các phương pháp và mục tiêu sẽ được
đề ra dưới đây ta phải tích cực tham khảo các tài liệu về phát triển nông nghiệp
và nông thôn, nhưng thành phần kinh tế chính tác động đến nông nghiệp và
nông thôn ở Việt Nam và trên thế giới, nhưng phương hướng chỉ đạo mới nhất
của Đảng và Nhà nước tác động đến nông nghiệp và nông thôn nói chung …
PHẦN I
LÝ THUYẾT VỀ NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN
1 – Vài nét về quan điểm về việc thực hiện phát triển nền nông nghiệp và
nông thôn
a) Quan điểm về nền nông nghiệp bền vững :
Nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích : Nông nghiệp hiện đại không đóng vai

trò thụ động, cung cấp nguồn lực, phương tiện và điều kiện cho công việc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa mà có một vai trò rất chủ động là động cơ phát lực
cho toàn bộ nềnh kinh tế xã hội.
Từ 1992 đến nay, dần dần khái niệm phát triển bền vững được mở rộng
ngoài việc mở rộng môi trường, còn bao hàm việc tăng trưởng kinh tế vững
chắc với tốc độ cao thỏa đáng và thực hiện công bằng xã hội. Một nền nông
nghiệp bền vững phải đạt được 3 mục đích :
- Giữ gìn và làm phong phú môi trường.
- Đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Bảo đảm công bằng kinh tế và công bằng xã hội.
Vì vậy tại phiên họp 8, từ tháng 4 đến tháng 5/2000, Liên Hiệp Quốc đã
nêu lên 4 đặc trưng của nền nông nghiệp bền vững :
1) Nuôi dưỡng các nguồn tài nguyên của toàn thế giới cho thế hệ ngày nay
và mai sau.
2) Áp dụng mỗi đòa phương những cách làm nông nghiệp của đòa phương.
3) Bảo đảm vai trò đích đáng của nông dân trong mọi khâu của quá trình ra
quyết đònh.
4) Phân phối quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên và các sản phẩm nông
nghiệp một cách công bằng.
Ngoài ra còn chú ý đến 4 nhân tố là :
1) Sự tham gia chủ động, tích cực của các cộng đồng nông thôn, bao gồm
các nông hội, các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân và các cơ quan nhà
nước.
2) Môi trưòng chính sách quốc gia thuận lợi, giàu tính khuyến khích, hỗ
trợ.
3) Thông tin minh bạch, thông suốt và có hiệu quả giữa các tác nhân có
liên quan.
4) Tập trung hoạt động nghiên cứu ứng dụng vào những cách làm những
kỹ thuật thích đáng của những đòa phương.
b) Phát triển kinh tế nông thôn và phát triển nông thôn toàn diện

Từ rất sớm, ở nhiều nước, người ta xác đònh tầm quan trọng của kinh tế
nông thôn, bao gồm cả hoạt động nông nghiệp và các hoạt động phi nông
nghiệp rất phong phú, đa dạng tại nông thôn. Những hoạt động phi nông nghiệp
này từ các loại ngành, nghề, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp, công nghiệp
nhỏ và vừa đến các loại dòch vụ kinh tế, khoa học công nghệ và văn hóa, xã
hội, cung ứng đầu vào cho nông nghiệp, giúp nâng cao cho năng suất lao động
và hiệu quả sản xuất nông nghiệp chế biến nâng cao giá trò của nông sản, khơi
luồng tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp. Kinh tế nông thôn tạo thêm nhiều
việc làm ngay tại đòa bàn làng xã, nâng cao đời sống của nông thôn, cư dân bản
đòa, làm nên sự giàu có và thay đổi bộ mặt của nông thôn nhờ sự gắn kết của
nông nghiệp với công nghiệp, dòch vụ, gắn kết giữa nông nghiệp với thành thò
tạo ra quá trình đô thò hóa hiện đại không dồn dân vào một số ít thành phố, thực
hiện phân công lao động mới, phân bổ lại sản xuất, quy hoạch kinh tế, xã hội,
tổ chức đời sống dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày nay, chúng ta nhận thức sáng tỏ và sâu sắc hơn điều vốn được phát
hiện từ hàng trăm năm trước là : nếu chỉ dựa vào nông nghiệp thuần túy, thì
nông thôn không thể là cơ sở, là bàn đạp của công cuộc công nghiệp hóa đất
nước, nông dân khó có sức tái sản xuất mở rộng, khó giàu lên, cũng như khó
xóa bỏ được đói nghèo.
Vì vậy mà việc phát triển nông nghiệp và nông thôn thật là khó khăn, gian
khổ nhưng ta vẫn phải làm và từng bước làm một cách triệt để nhất.
c) Những vấn đề cần phát triển mà nông nghiệp và nông thôn quan tâm :
* An ninh lương thực :
Đầu thế kỷ 21, nếu sản lượng lương thực, thực phẩm của thế giới chia bình
quân cho dân số toàn cầu, thì mỗi người ngày nhận được 300 calo, tức là một
mức dinh dưỡng hơn cả no đủ. Còn thực tế hiện nay do sự phân bố bất công nên
gần 1 tỷ người thiếu ăn, hàng trăm triệu người bò đói, tập trung ở nông thôn các
nước kém và đang phát triển.
Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu nhận đònh nền nông nghiệp thế giới bắt
đầu diễn ra cuộc cách mạng xanh mới gọi là :”Cách mạng xanh kép” với 3 kiểu

hiểu là :
1) Là cuộc cách mạng xanh về kỹ thuật, về môi trường.
2) Cách mạng xanh về giống cây trồng, về nước cho nông nghiệp (cấp tiêu
đầy đủ, đúng cách, kòp thời), mà chủ yếu ở các nước nghèo đói.
3) Là cuộc cách mạng xanh về kinh tế xã hội (nội dung là công bằng xã
hội, tiến bộ xã hội trong phân phối sản xuất nông nghiệp, tổ chức đời sống ở
nông thôn).
Trong trường hợp tính chung cả nước thì an ninh lương thực được đảm bảo,
nhưng do có sự phân phối không đều, một số vùng và một bộ phận dân cư
thường bò thiếu hoặc bò đe dọa thiếu lương thực. Như vậy, an ninh lương thực
cho mọi người chỉ có thể đảm bảo được nhờ thành công của công cuộc “xóa đói
giảm nghèo”.
* Phát triển nông nghiệp bền vững :
Ở phần trên, chúng ta đã phân tích về những đặc trưng và nhân tố của nền
nông nghiệp bền vững. Phần này chỉ nêu cụ thể hơn một số việc quan trọng cần
làm là :
1) Đảm bảo an ninh lương thực, phát triển các loại nông sản thế mạnh.
Là vấn đề tiêu thụ nông sản trên thò trường trong và ngoài nước bằng
cách : tổ chức quản lý tiên tiến những công nghệ cao thích hợp, chính sách đúng
đắn của nhà nước, sự chủ động sáng tạo của nông dân, hội nhập kinh tế quốc tế
hiệu quả.
2) Phát triển công nghiệp& dòch vụ nông thôn
Ở đây là công nghiệp dòch vụ ở “nông thôn” chứ không phải ở thành thò,
các khu kinh tế, các khu công nghiệp. Nghóa là cái gì? Đó là luôn gắn bó với
nông thôn, dùng nguồn lực của nông thôn, đáp ứng nhu cầu của nông thôn và
nhu cầu cả nước, nhu cầu xuất khẩu, coi trọng doanh nghiệp nhỏ và vừa, kết
hợp công nghệ truyền thống với công nghệ cao, kinh nghiệm thực tiễn với kiến
thức, kỹ năng hiện đại của thế giới.
* Phát triển dân chủ trong nông nghiệp & nông thôn.
Từ giữa thế kỷ 20 và có thể nói cho đến nay, nói đến vấn đề này là ta

thường nhắc đến :
1- Tổ chức đời sống xã hội nông thôn lành mạnh, con người đoàn kết, bản
sắc văn hóa phát huy, kết hợp hài hòa thành tựu văn hóa, văn minh hiện đại.
2- Cung cấp dễ dàng thông tin cho nhân dân, thực hiện minh bạch, công
khai mọi hoạt động của chính quyền.
3- Giải trình, báo cáo của chính quyền một cách đònh kỳ, bất thường khi
cần, tạo mọi điều kiện cho sự kiểm tra, phê bình của nhân dân với các hoạt
động của chính quyền cơ sở.
4- Giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo lao động nông nghiệp, thực hiện xã
hội học tập ở nông thôn.
5- Phát triển dân chủ (vừa đại diện vừa trực tiếp), dành trọng lượng lớn cho
vai trò của quần chúng nông dân quyết đònh, thực hiện quyết đònh.
6- Phân cấp thẩm quyền, hoạt động của nhà nước, mở rộng quyền hạn cho
cơ sở nông thôn đích đáng.
7- Thiết lập quan hệ đối tác, công tác giữa các tổ chức nước ngoài và chính
quyền cơ sở.
2 – Những tác động, cơ hội, thách thức của nông nghiệp và nông thôn.
a) Cách mạng khoa học và công nghệ
Đó là : thủy lợi hóa, hóa học hóa, cơ khí hóa, điện khí hóa.
Ngày nay, 4 hóa trong nông nghiệp so với hồi đầu thế kỷ 20 khác biệt rất
lớn, hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn, hiện đại hơn nhờ tác động của công nghệ
mới, cao mang lại mà chỉ 50 – 60 năm trước không một nhà khoa học nào dự
báo được.
Như vậy vận dụng công nghệ sinh học (sinh sản vô tính, biến đổi gen, …)
rất nhanh chóng, năng suất nhưng vô cùng nguy hại về chất lượng. Ở đây ta
cũng có thể nói thêm là có sự phân bố rất không đồng đều về công nghệ ở các
nước.
Vì vậy, đứng trước những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ,
nước nào kết hợp khéo các khả năng của các chặng đường công nghiệp hóa
nông nghiệp trong 100 năm qua thì thành công lớn. Trái lại vào đầu thế kỷ 21

mà vẫn khư khư bám lấy cách nghó, cách làm của đầu thế kỷ 20 hay vội vã, hồ
đồ áp dụng công nghệ cao nhất ngày một cách sai lầm sẽ lãng phí công của,
thời gian dẫn đến thất bại là điều tất yếu.
b) Toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập quốc tế, khu vực.
Có thể nói gọn là : một quốc gia, dẫu là nước đang phát triển có sức cạnh
tranh của sản phẩm nông nghiệp. Lúc đầu không cao, nếu có một chính sách,
cách làm đúng hoàn toàn có cơ hội tranh thủ được nguồn vốn, thiết bò, vật tư,
công nghệ, kỹ năng quản lý từ bên ngoài để nâng cao năng suấr, chất lượng và
hiệu quả nông nghiệp, phát huy các thế mạnh đã có hoặc tiềm tàng tạo thêm
nhiều công ăn việc làm, gắn bó công nghiệp với nông nghiệp để tinh chế nông
sản mở rộng thò trường xuất khẩu ở khu vực và thế giới.
Theo nhòp tiến triển của toàn cầu hóa thì nguồn ODA ở nước ngoài vào các
nước đang phát triển (ở VN) tăng lên nhưng cũng làm cho sản xuất ở trong nước
gặp nhiều rủi ro là nông sản bò chi phối bởi các công ty đa quốc gia dẫn đến
nhiều doanh nghiệp nhỏ nhà nước phá sản, kinh tế hộ gia đình thua thiệt, mất
công ăn việc làm … khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ … Đó là những thách
thức mà đất nước ta nói riêng, các quốc gia khác có cách thích hợp để ứng phó
có hiệu quả nhất.
c) Vai trò nhà nước, của các cộng đồng nông thôn phi chính phủ và quần
chúng nông dân.
Qua thực tản người ta nhận ra rằng làm sao cho nhà nước càng nhỏ, càng
tốt, làm sao cho nhà nước có hiệu lực, hiệu quả, không ôm đồm về công việc,
không cồng kềnh về tổ chức.
Về nông nghiệp vai trò nhà nước thể hiện rõ ở 3 điểm sau :
1- Nhà nước đảm nhận một phần quan trọng (nhưng không phải là tất cả)
công việc xây dựng kết cấu kỹ thuật hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn.
2- Nhà nước hướng dẫn (nhưng không can thiệt sâu vào) hoạt động nông
nghiệp từ cung ứng đầu vào tiến hành sản xuất, đến tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Trong thời gian và mức độ hợp lý, Nhà nước không chỉ hướng dẫn mà còn trợ
cấp, giúp đỡ hoạt động nông nghiệp bằng những cơ chế, phương pháp thích hợp.

3- Nhà nước đảm nhận một phần quan trọng (nhưng không phải là tất cả)
công việc tổ chức cung ứng các dòch vụ giáo dục, y tế, văn hóa … cho nông dân.
Nói tóm lại là :”Do quy tắc tổ chức thương mại quốc tế nên hình thành hệ
thống giá trên thò trường, vì vậy để đảm bảo thò trường trong nước ổn đònh thì
nhà nước là người giữ “luật chơi”, sửa chữa những khuyết điểm, thất bại của
chính sách, của thò trường đi đôi với “hướng dẫn, trợ giúp, tiếp thò, xây dựng hạ
tầng” nhưng có chọn lọc.
Quan trọng không kém gì việc đổi mới, tăng hiệu quả của vai trò nhà
nước, là nâng cao tác dụng của tổ chức phi chính phủ trong mọi khâu soạn thảo,
quyết đònh, hoạt động liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Điều
đầu tiên là bảo đảm cho những tổ chức đó, từ các hội nông dân, các hợp tác xã
đến các loại hiệp hội khác ở nông thôn thực sự không phải là những tổ chức nửa
nhà nước hoặc gần như nhà nước mà thực sự là tổ chức của nông dân.
KẾT LUẬN PHẦN I :
Qua toàn bộ những vấn đề được đặt ra trong phần này, ta thấy để có một
nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển thì :
“Tăng cường sự chỉ đạo, huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục phát
triển đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng
ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đẩy
mạnh thủy lợi hóa, điện khí hóa. Quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trò thu được trên đơn vò diện tích; giải
quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa, đầu tư nhiều hơn cho phát
triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp,
dòch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến cơ khí
phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao
động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dòch vụ, tạo nhiều việc làm
mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân, dân
cư ở nông thôn.” (Báo cáo chính trò của Đại hội IX của Đảng).
PHẦN II

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1- Vài nét về những thành tựu của cả nước nói chung và nông nghiệp nông
thôn nói riêng trong thời gian đổi mới đạt được.
Nhờ có động lực to lớn của chính sách đổi mới, trong thập kỷ 90 đánh dấu
một bước nhảy vọt của nền kinh tế Việt Nam. Về công nghiệp là rất mừng khi
trong những năm gần đây (2004). Công nghiệp khu vực dân doanh đã tăng
24,1% (2003)lên 26,1%, công nghiệp chế biến tăng từ 82% (2003) lên 83%
(2004), kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD/năm có thêm điện tử, máy tính, sản
phẩm gỗ … Nói chung cả năm nền công nghiệp nước ta tăng 16%.
Về nông nghiệp nông thôn là có bước tiến mạnh hơn cả. Tỷ trọng các sản
phẩm cây công nghiệp, ăn quả tăng từ 19,5% (1987) tới 21,8% (1997), các
ngành phi nông nghiệp tăng từ 10% (1989) đến 30% (1999) trong GDP ở nông
thôn … Vì vậy đã giảm mức đói nghèo từ 58% (1993) xuống 37% (1998) ở nông
dân. Kim ngạch xuất khẩu của ngư nghiệp tăng từ 971 triệu USD/1999 đến 1,4
tỷ USD/2000. Về lâm nghiệp thực hiện quyết đònh 327, 661 … với dự án 5 triệu
ha rừng. Trường học, y tế, diện tích tưới tiêu, điện ngày càng hoàn thiện.
Đây chỉ là 2 ngành quan trọng trong việc đưa nền kinh tế Việt Nam phát
triển, nó đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển ổn đònh của nền kinh tế Việt
Nam trong những năm trước tới nay. Chẳng vậy mà từ thập kỷ 90 (những năm
từ 1990 đến nay) đa số nền kinh tế nước ta vẫn giữ vững mức độ tăng trưởng
trung bình từ trên 7% trở lên.
2- Phát triển nông nghiệp nông thôn ở nước ta trong thập kỷ 21.
Sự phát triển này chủ yếu ở 2 điểm chính là :
1. Trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn, để xác đònh chủ trương,
chính sách thực sự tiến hành mọi công việc, nói một cách giản đơn, nguồn căn
cứ của chúng ta gồm 2 phần :
* Những kiến thức, kinh nghiệm của loài người nhất là thời đại ngày nay,
trước hết là của những nước có điều kiện gần với điều kiện của ta. Đây là kho
tàng kinh nghiệm vô giá, rất phong phú mà ta chưa tìm hiểu, vận dụng nhiều,

chưa biết tiếp thu áp dụng sao cho trở thành tri thức của chính chúng ta.
* Những kinh nghiệm, kiến thức do ông cha ta để lại qua mấy nghìn năm,
những hiểu biết tích lũy được thêm từ khi ta xây dựng một xã hội mới. Đó là
kho tàng phong phú ta vẫn chưa hoàn toàn làm chủ được, chưa kiểm kê và tổng
hợp được đầy đủ, chưa vận dụng và phát huy như mong muốn.
2. Đảng và Nhà nước ta chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn. Phát tiển nông nghiệp là phát triển một bộ phận rất quan
trọng của kinh tế nông thôn chứ không phải tất cả. Còn phát triển nông thôn thì
bao quát rộng lớn hơn, chẳng những về kinh tế mà cả về chính trò, văn hóa, xã
hội con người.
Phát triển nông nghiệp tạo ra một cơ sở tiền đề thiết yếu để phát triển
nông thôn; mặt khác phát triển nông thôn có tác động có tác động quyết đònh
đến phát triển nông nghiệp. Nếu nông thôn kém phát triển thì không thể có
nông nghiệp phát triển.
Vì vậy mà nếu quá chú tâm phát triển nông nghiệp, coi nhẹ phát triển
nông thôn thi ngay chỉ riêng về nông nghiệp cũng không thể có thành công một
cách bền vững được.
3- Các nhận thức về sự phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Ở đây ta chỉ chú trọng đến sự lý luận, nhận thức thông qua các chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta, chủ yếu ở 3 mặt là :
1) Về quan điểm phát triển :
Các văn kiện của Đảng trong 15 năm đổi mới từng bước xác đònh ngày
càng rõ hơn vai trò quan trọng của lónh vực nông nghiệp, kinh tế nông thôn
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa suốt giai đoạn quá độ lên chủ
nghóa xã hội. Báo cáo chính trò Đại hội Đảng IX vào 4/2001 đã nhấn mạnh việc
tăng cường chỉ đạo, huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn như một nhiệm vụ trọng tâm
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự xác đònh vò trí phát
triển này là tối cần thiết để quốc hội xây dựng hệ thống văn bản pháp luật,
chính phủ ban hành chính sách, phân bổ đầu tư đủ mức tiếp thêm sức lực, đáp

ứng nhu cầu cần thết và vai trò quan trọng của lónh vực nền tảng này.
2) Về lý luận để phát triển :
Đúc kết từ thực tiễn đổi mới, các chủ trương của Đảng làm sáng tỏ dần mô
hình phát triển kinh tế thò trường theo đònh hướng xã hội chủ nghóa. Từ chỗ coi
một mô thức quan hệ sản xuất nhất đònh là thước đo của CNXH ngay cả trong
thời kỳ quá độ, đến nay, báo cáo chính trò của Đại hội IX 4/2001 khẳng
đònh :”Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất đònh
hướng XHCN là thúc đẩy lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực
hiện công bằng xã hội”.
Như vậy, phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân là tiêu
chuẩn đánh giá quan hệ sản xuất có phù hợp hay không. Ttrong quá trình đổi
mới nông nghiệp, quan hệ sản xuất, bao gồm quan hệ sở hữu, quản lý tư liệu
sản xuất, tài nguyên, quan hệ phân phối sản phẩm, thu nhập đã và đang từng
bước thay đổi, ngày càng đa dạng càng phù hợp với tính chất trình độ của lực
lượng sản xuất.
3) Về giải pháp phát triển :
Các chính sách đổi mới về căn bản đã từng bước mở rộng việc sử dụng cơ
chế thò trường xử lý các vướng mắc trong quá trình phát triển sử dụng ngày
càng hiệu quả mọi nguồn lực. Việc tháo gỡ các rào cản trói buộc trong quản lý
sản xuất, quản lý thò trường từng bước thiết lập các thò trường chưa có hoặc còn
sơ khai cho phép hình thành các thò trường, giúp thò trường vận hành thuận lợi.
Việc đa dạng hóa các thành phần kinh tế, pháp luật hóa các mối quan hệ kinh
tế, xã hội đã góp phần từng bước tạo môi trường cạnh tranh công bằng, cho
phép huy động mọi nguồn lực trong xã hội vào xây dựng kinh tế.
Sự trưởng thành về tư duy trên, đi từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao khi được
cụ thể hóa trong luật pháp, chính sách. Sự điều hành của nhà nước đã tạo nên
động lực của công cuộc đổi mới, khôi nên sức mạnh toàn dân. Như vậy, động
lực mà đổi mới cho đến nay tạo ra cho nhân dân, về thực chất là động lực của
việc giao quyền làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ quản lý sản xuất kinh doanh,
làm chủ phân phối sản phẩm cho nhân dân, là hiệu quả có được từ việc giao

trách nhiệm đều tiết tài nguyên cho cơ chế thò trường là sự tiếp sức của nhà
nước về vốn, công nghệ, đảm bảo môi trường pháp lý để người dân thực hiện
quyền làm chủ của mình trong cơ chế thò trường.
4. Môi trường kinh tế tác động đến sự phát triển của nông nghiệp, nông
thôn.
* Thuận lợi :
Đảng và Nhà nước ta đã tích cực có những tác động vô cùng lớn đối với
việc phát triển nền kinh tế nông nghiệp nông thôn như :
Ngày càng nới lỏng bộ luật cho nông nghiệp, nông thôn, tạo mọi điều kiện
có thể được để đưa nông nghiệp nông thôn phát triển như : quan hệ ngày càng
rộng với các nước, các tổ chức trên thế giới để có thể tiêu thụ nông sản một
cách ổn đònh của nước ta ra thò trường nước bạn …
Có thể tóm gọn bằng 7 chính sách là : chính sách ruộng đất với nguyên tắc
chủ yếu là “khoán” và “nông dân làm chủ”; chính sách đầu tư; chính sách thuế
theo từng đòa bàn; chính sách khoa học công nghệ theo phương pháp tuyên
truyền và hướng dẫn từng bước; chính sách giá cả sản lượng; chính sách tín
dụng : tạo mọi điều kiện thật dễ dàng để nông dân vay vốn làm ăn; cuối cùng
là chính sách xã hội như : xóa đói, giảm nghèo, chính sách y tế giáo dục …
Ngoài ra, còn vô số những điều kiện rất thuận lợi khác.
* Khó khăn :
Bên cạnh những điểm lợi như vậy, nhưng tại sao nước ta vẫn chưa đưa nền
nông nghiệp nông thôn trở nên tiên tiến được? Song song với những điều kiện
thuận lợi là hàng loạt những khó khăn đặt ra :điều kiện tự nhiên thì khắc nghiệt
(chỉ thuận lợi cho một số cây trồng nhất đònh), gia nhập với quốc tế tức là phải
cạnh tranh để mà phát triển, cơ sở hạ tầng rất là thấp kém, …
5. Những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới sự phát triển đến nông
nghiệp, nông thôn nước ta.
1- Những thách thức và khó khăn mới.
Ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam đã đi được một chặng
đường dài thành công trên con đường đổi mới, tạo cơ sở thuận lợi cho sự nghiệp

đổi mới toàn nền kinh tế. Bước vào giai đoạn phát triển mới, trước mắt chúng ta
xuất hiện những thời cơ và thách thức thới, bên cạnh đó, nhiều nhược điểm,
thiếu sót trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp phát triển kinh tế nông thôn
vẫn tiếp tục tồn tại, đòi hỏi tiếp tục đề ra chủ trương, chính sách đưa sự nghiệp
đổi mới đi lên. Một số trở ngại chính là :
- Sức cạnh tranh của nông sản kém
Sản xuất nông, lâm, ngư đã chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, qui mô
tuy lớn nhưng trình độ tổ chức còn yếu kém, sản xuất phân tán, chất lượng sản
phẩm thấp, giá thành cao, nên sức cạnh tranh và uy tín hàng hóa Việt Nam còn
yếu, không xứng với khối lượng sản phẩm trên thò trường, tạo nên mâu thuẫn
giữa yêu cầu cấp bách về nâng cao chất lượng, hiệu quả của sản xuất kinh
doanh và cách tổ chức chỉ đạo thiên về khuyến khích tăng sản lượng. Có rất
nhiều mặt hàng hiện nay cung đã vượt cầu trong nước và xuất khẩu là giải pháp
duy nhất để nâng giá nông sản, tuy nhiên, chất lượng thấp, giá thành cao, qui
cách và phẩm cấp không phù hợp thò hiếu tiêu dùng đang làm nông sản Việt
Nam kém sức cạnh tranh trên thò trường thế giới.
Tổ chức tiêu thụ nông sản chưa đáp ứng kòp tốc độ phát triển sản xuất
hàng hoá, xảy ra dư thừa, ứ đọng, người sản xuất kinh doanh bò động trước biến
động giá cả, chi phí buôn bán cao, ảnh hưởng xấu đến thu nhập và đời sống của
người làm nghề nông. Cánh kéo giá tiếp tục diễn biến bất lợi cho nông dân.
Kinh doanh nông sản vẫn là ngành rủi ro cao, lợi nhuận thấp.
Một trong những biểu hiện của yếu kém này là sự non yếu của lónh vực
chế biến nông sản. Tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn quá thấp,
mới chỉ đạt 30% sản lượng mía, gần 60% chè, 5% rau quả, 1% thòt hơi, 25% sản
phẩn thủy sản… Số lượng các cơ sở mới được xây dựng có máy móc, thiết bò
tương đối hiện đại chưa nhiều. Phần lớn các cơ sở chế biến lúa gạo, chè, rau
quả… được xây dựng đã lâu, thiết bò và qui trình công nghệ lạc hậu. Nhìn chung
năng lực công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch chưa theo kòp tốc độ
phát triển sản xuất nguyên liệu và có khoảng cách xa so với yêu cầu về nâng
cao chất lượng và hiệu quả nông sản. Hầu hết các sản phẩm nông nghiệp đều

được tiêu thụ dưới dạng thô hoặc sơ chế. Công nghiệp chế biến nói chung và
ngành, nghề công nghiệp nông thôn phát triển chậm.
Một biểu hiện khác là công tác quản lý Nhà nước vẫn nặng về cầm tay
chỉ việc, lo đốc thúc tiến độ, qui mô sản xuất nhưng chưa chú ý đúng mức đến
tạo dựng và duy trì một môi trường thuận lợi cho một nền sản xuất chất lượng
và hiệu quả cao. Việc ban hành chính sách, tiêu chuẩn chất lượng chậm và
thiếu, công tác tổ chức giám sát kỹ thuật, kiểm tra chất lượng thiếu và yếu,
không huy động được sức mạnh toàn dân tham gia quản lý và giám sát. Bởi vậy
tình trạng gian lận trong sản xuất và thương mại diễn ra kéo dài và nghiêm
trọng, như buôn lậu, khai thác và buôn bán trái phép sinh vật hoang dã, làm
hàng giả, kém vệ sinh, cân thiếu… Tình trạng tiêu cực trong các cơ quan công
quyền chòu trách nhiệm kiểm tra, giám sát kỹ thuật có điều kiện tiếp tục tồn tại.
Việt Nam đã cam kết thực hiện giảm thuế nhập khẩu và cắt giảm các biện
pháp phi quan thuế cho phần lớn hàng hoá các nước ASEAN vào năm 2003.
Những cam kết khác cũng đang được thực hiện với thành viên APEC, đã được
ký kết với Mỹ hoặc đang thảo thuận với WTO. Cạnh tranh sản phẩm nông
nghiệp trong tương lai đã bắt đầu và sẽ diễn ra quyết liệt ngay trong thò trường
nội đòa. Nhiều mặt hàng liên quan đến nông nghiệp mà Việt Nam có thể sản
xuất được hiện vẫn vất vả đương đầu với hàng nhập như đường, muối, trứng,
hoa quả, ván nhân tạo, bột giấy, máy nông nghiệp…
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này, nhưng sự yếu kém trong đầu tư
và tổ chức quản lý của các doannh nghiệp Nhà nước và một môi trường kém
hấp dẫn để hình thành các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác là
một trong những nguyên nhân quan trọng. Tiến độ và nội dung quá trình sắp
xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước chậm, không gắn bó với nhu cầu tăng
cường năng lực cạnh tranh để ứng phó với tiến trình hội nhập, vì vậy không tạo
nên động lực chủ động từ phía người lao động, người quản lý của các doanh
nghiệp. Thiếu động lực nội tại cũng làm cho hầu hết doanh nghiệp liên doanh
với nước ngoài của ngành nông nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ phải phá sản
hoặc phải chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Để chủ động ứng phó với thò trường, đối đầu với cạnh tranh, người sản
xuất kinh doanh cần có thông tin thò trường kòp thời và chính xác, các doanh
nghiệp khi gia nhập thò trường quốc tế cần có sự hỗ trợ thích đáng của Nhà
nước về xúc tiến thương mại. Hiện nay, các hoạt động này mới ở trạng thái
manh nha, bởi vậy người kinh doanh và tiếp theo là người sản xuất phải gánh
chòu nhiều rủi ro không đáng có. Công tác nghiên cứu kinh tế theo quan điểm
thò trường còn mới mẻ và hạn hẹp, chưa hình thành tổ chức tham mưu đáng tin
cậy cho công tác quản lý Nhà nước về đònh hướng đầu tư, đàm phán hội nhập
kinh tế quốc tế, xây dựng chính sách thương mại.
- Cạnh tranh trên thò trường nông sản ngày càng gay gắt :
Việt Nam sản xuất nhiều nông sản giống như các nước trong vùng. Gạo
cạnh tranh với Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Mianma; cao su với Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Srilanca; chè với Srilanca, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia;
đường với Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc; rau quả với Trung Quốc, Thái
Lan… Ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, các nước trong khu vực Châu Á tăng
cường sản xuất, thu hẹp nhập khẩu. So với mức gạo nhập khẩu năm 1999,
Indonesia năm 2000 giảm hơn 2 triệu tấn, Philipin giảm 0,6 triệu tấn. Trung
Quốc tháng 3/2000 xuất khẩu phá giá gạo với mức thấp hơn gạo Việt Nam 10
USD và thấp hơn gạo Thái Lan 25 USD, tăng xuất khẩu 48% so với 5 năm
trước.
Các nước trong vùng ráo riết đổi mới chính sách nhằm khuyến khích sản
xuất và đầu tư hiệu quả. Chỉ tính từ năm 2000 trở lại đây, Indonesia đánh thuế
30% với gạo nhập khẩu, mức thuế này đang tăng dần và được điều chỉnh 6
tháng/lần để bảo vệ sản xuất; chuyển từ trực tiếp kiểm soát ngành đường sang
đánh thuế nhập khẩu và mua mía của dân theo giá qui đònh. Thái Lan mua hàng
trăm ngàn tấn gạo tạm trữ, áp dụng chương trình trợ giá gạo, hỗ trợ người trồng
mía và triển khai chương trình đầu tư để tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu 12
nông sản chủ lực, trợ giá cao su, giảm diện tích cao su thay thế bằng cọ dầu, đổi
cao su lấy phân bón; Trung Quốc tiến hành giảm thuế nhập khẩu, thuế thu
nhập, thu hút đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, tăng hiệu quả sản xuất bằng

giảm giá thu mua mía, giảm diện tích mía, đóng cửa 143 nhà máy đường, giảm
trợ giá, giảm sản xuất lương thực, khuyến khích trồng cây có giá trò cao; Ấn Độ
tăng thuế nhập khẩu lương thực… Nhìn chung các nước vừa tăng cường bảo vệ
các mặt hàng có lợi thế, vừa mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu, loại bỏ các hàng hoá
kém lợi thế, khiến khả năng cạnh tranh của họ tăng lên rõ rệt.
Trong tương lai sau 5 năm nữa, với phần lớn các hàng hoá, do thực hiện
các cam kết với AFTA, thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm xuống 0 -5% và các hình
thức bảo vệ phi quan thuế cũng cắt giảm theo, tuy nhiên đối với nông sản, cuộc
đấu quyết liệt nhất sẽ là 8 – 10 năm sau, khi công nghiệp chế biến nông sản
non trẻ và các mặt hàng yếu thế của Việt Nam (đường, dầu ăn,…) bước vào áp
dụng cam kết. Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết hiệp đònh thương mại với Mỹ,
đang đàm phán gia nhập WTO, mức độ tham gia thò trường thế giới sẽ rộng lớn
hơn rất nhiều.
- Kết cấu hạ tầng kém phát triển :
Kết cấu hạ tầng nông thôn như giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc
và các kết cấu hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, nhà văn hoá, còn thấp
kém. Dòch vụ phục vụ sản xuất như thú y, sản xuất giống, tín dụng… và phục vụ
đời sống như giáo dục, y tế, tư pháp, văn hoá, thể thao… còn rất thiếu và yếu.
Còn vắng bóng các công trình phục vụ tiếp thò và thương mại như kho tàng, chợ
bán buôn, cảng, thông tin thò trường. Nông thôn vẫn là đòa bàn đầu tư kém
thuận lợi và lợi nhuận thấp.
Mưc đầu tư hạn hẹp kéo dài làm kết cấu hạ tầng nông thôn kém phát
triển, chất lượng các công trình thuỷ lợi còn thấp, chủ yếu phục vụ ngành trồng
lúa, nhiều vùng, nhiều loại cây trồng còn thiếu nước tưới, việc sử dụng nước
còn lãng phí, quản lý nước và công trình thủy lợi hiệu quả thấp. Hệ thống giao
thông nông thôn còn thiếu thốn và lạc hậu ở nhiều vùng, nhất là ở đồng bằng
sông Cửu Long, miền núi… gây ách tắc về giao lưu hàng hoá và chia cắt vùng
sản xuất với thò trường.
Mức độ cơ giới hoá và điện khí hoá trong nông nghiệp tăng chậm. 51% số
hộ đã có điện để dùng nhưng điện sử dụng trong khu vực nông thôn mới chiếm

gần 8,7% tổng sản lượng điện phát ra. Ở nông thôn, điện dùng cho sản xuất còn
ít, chủ yếu phục vụ bơm nước, các cơ sở chế biến và thắp sáng, chất lượng điện
cho nông thôn kém. Trong nông nghiệp, lao động thủ công vẫn phổ biến, trang
bò cơ giới cho 1 ha gieo trồng mới khoảng dưới 0,25 mã lực. Tỷ lệ cơ giới hoá
trong các khâu sản xuất nông nghiệp, chế biến… mới đạt trên 30%, còn lại chủ
yếu do lao động thủ công đảm nhiệm.
- Trình độ khoa học và công nghệ thấp.
Các Viện nghiên cứu và trường Đại học được đầu tư thấp, phối hợp hoạt
động kém. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, tổng chi phi cho 1 cán bộ
nghiên cứu của Việt Nam 1 năm chỉ bằng 9% suất đầu tư của Indonesia và Thái
Lan, 2,5% suất đầu tư của Malaysia. Với mức đầu tư quá ít cho khoa học hiện
nay, thì phần chi lương, hoạt động bộ máy đã chiếm gần 60% tổng kinh phí,
thực chi cho đề tài chỉ còn 37%. Thiết bò, máy móc, cơ sở vật chất lạc hậu, cũ
kỹ, thông tin khoa học ít ỏi, trình độ cán bộ thấp dần và mất dần nhân tài. Công
tác thông tin khoa học còn yếu kém. Nguồn tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới
chưa được thu thập, phân tích và chuyển giao đầy đủ, kòp thời cho người sản
xuất. Trình độ áp dụng thành tựu cách mạng sinh học thấp. Trừ một vài loại sản
phẩm như cà phê, lúa, ngô, phần lớn các cây trồng, vật nuôi năng suất thấp,
chất lượng sản phẩm kém. Nhiều loại sản phẩm dù Việt Nam có tiềm năng,
nhưng sự thua kém về khoa học kỹ thuật làm cho hàng hoá kém khả năng cạnh
tranh.
Nghiên cứu khoa học yếu, đầu tư áp dụng công nghệ mới cũng rất kém.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở và hộ ngành, nghề ở nông thôn rất thấp,
chỉ có 18,6% các cơ sở có nhà xưởng kiên cố; 85% có sử dụng điện; 37% công
việc được cơ khí hoá, còn 63% làm bằng tay. Vốn của các cơ sở và hộ ngành
nghề thấp, chủ yếu là vốn tự có. Bình quân 1 cơ sở có 370 triệu đồng, 1 hộ
chuyên : 36 triệu đồng, 1 hộ kiêm : 19 triệu đồng, trong đó, vốn vay chiếm
khoảng 20%. Sản phẩm của ngành, nghề nông thôn chủ yếu phục vụ thò trường
trong nước, chỉ có một phần hàng thủ công mỹ nghệ có tham gia xuất khẩu đạt
giá trò cao. Nhìn chung mặt hàng đơn điệu, chất lượng thấp, mẫu mã, bao bì

kém.
- Thu nhập của nông dân tăng chậm, khoảng cách thu nhập giữa nông
thôn và thành phố tiếp tục tăng.
Mặc dù sản xuất nông nghiệp tăng liên tục nhưng thu nhập của nông dân
tăng rất chậm so với mức tăng sản lượng. Cuộc điều tra Mức sống dân cư Việt
Nam 1997 – 1998 cho thấy thu nhập bình quân thực của người dân nông thôn
chỉ bằng 35% so với mức thu trung bình ở thành thò, trong đó thu nhập bình quân
của dân nông thôn ở vùng miền núi phía Bắc còn thấp hơn mức trung bình của
dân cư nông thôn 16%. GDP đầu người ở nông thôn chưa bằng ½ thu nhập bình
quân của cả nước. Chênh lệch thu nhập và mức sống giữa nông thôn và thành
thò, giữa đồng bằng và miền núi, giữa các nhóm giàu, nghèo ở nông thôn tiếp
tục dãn ra. Thu nhập của nông dân rất thấp làm khả năng tiêu dùng của nông
dân thấp khiến nông thôn bao la chưa trở thành thò trường đáng kể cho kinh tế
đô thò.
Tỷ lệ đói nghèo còn cao. Theo các tiêu chí đánh giá cũ thì năm 1999 còn
13,3%, năm 2000 còn 11,4%, trong đó ở nông thôn năm 1999 còn gần 16%,
năm 2000 : 14,3% hộ nghèo (theo tiêu chí mới thì số hộ nghèo năm 2000 là
17%). Cuộc sống của nhân dân vùng sâu, vùng xa, miền núi vẫn rất khó khăn.
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng và đã đạt được kết quả to lớn, tới nay
vẫn còn khoảng 2,5 triệu người thuộc 52 dân tộc trong diện vận động đònh canh,
đònh cư, trong đó có 10 vạn hộ đặc biệt khó khăn. Hàng năm vẫn còn 30 vạn hộ
thường xuyên bò đói, 40 vạn hộ du canh, du cư.
- Cơ cấu kinh tế nông thôn chậm phát triển.
Mặc dù trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp đã đa dạng và từng
bước đổi mới cơ cấu, tuy nhiên , quá trình chuyển đổi diễn ra chậm. Chăn nuôi
chiếm tỷ trọng thấp trong sản xuất nông nghiệp và chưa trở thành ngành chính.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn phát triển rất chậm. Sự gắn bó
giữa kinh tế nông thôn với kinh tế đô thò về lao động, thu nhập, đầu tư chưa đủ
mạnh để thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn. Ở những vùng sâu, vùng xa phổ
biến vẫn là kinh tế thuần nông.

- Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn cao.
Dân số Việt Nam hiện có khoảng 77 triệu người và từ nay đến năm 2005,
hàng năm có hơn 1 triệu bước vào độ tuổi lao động cần có việc làm. Trong 30
triệu lao động nông thôn có tới hơn 85% không có chuyên môn kỹ thuật và 28%
không có hoặc thiếu việc làm. Số lao động dôi dư tiếp tục tăng nhanh hơn mức
tăng việc làm. Tay nghề và trình độ kỹ năng lao động nông thôn thấp. Nông
thôn thừa lao động, thiếu chất xám, trí thức không muốn về nông thôn làm việc.
- Môi trường bò phá hoại, thiên tai diễn biến phức tạp.
Phương thức tăng trưởng sản xuất theo chiều rộng hiện đang khai thác các
tài nguyên tự nhiên đến mức giới hạn. Hiện nay bình quân 1 hộ nông nghiệp chỉ
hơn 5000m
2
đất nông nghiệp, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng : 2.277m
2
.
Qui mô sản xuất manh mún như vậy chỉ phù hợp với sản xuất lao động thủ
công, nhất làở đồng bằng sông Hồng và miền Trung.
Nước tứơi, nước sinh hoạt cũng bò khai thác nhiều và sử dụng lãng phí.
Các đòa phương đầu nguồn, gần nguồn được hưởng lợi tối đa của các công trình
thủy lợi, đã lựa chọn mọi phương hướng sử dụng đất tiêu tốn nhiều nước và
tăng vụ đến mức tối đa trong khi nhiều vùng xa nguồn, hoặc ở hạ lưu thiếu cả
nước sinh hoạt trong mùa khô. Nguồn lợi thủy sản cạn kiệt do cách khai thác
tận diệt bằng thuốc nổ, hoá chất độc, rà điện hoặc dùng lưới quét mắt nhỏ ven
bờ đang làm cạn kiệt tài nguyên và ảnh hưởng xấu môi trường sinh thái.
Việt Nam có 19,6 triệu ha đất lâm nghiệp, chiếm 2/3 diện tích tự nhiên cả
nước, nếu như năm 1943 diện tích rừng tự nhiên là 14 triệu ha chiếm 48% tổng
diện tích thì hiện nay diện tích rừng chỉ còn hơn 9 triệu ha chiếm khoảng 28% -

×