Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Những yêu cầu để đổi mới thi pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.93 KB, 3 trang )

Suy tưởng về sự vận hành của thi pháp
Có những thời đại, thi ca đã được thăng hoa và kết tinh sáng tạo với những hình thức kết cấu thơ
mẫu mực. Bằng sự kết thành của những hình thức thơ mới này, nó đã tạo ra vẻ đẹp đặc biệt cho sự
chiêm ngưỡng không ngừng của những thời đại tiếp theo nó. Chẳng hạn như Trung Hoa sáng tạo ra
thể thơ Đường luật, Nhật Bản với Hai-kư, và một số thể thơ của châu Âu,…
Rõ ràng là, chỉ những thời đại đó, với những con người sinh ra trong thời đại đó, mới sáng tạo ra
được những hình thức thơ mẫu mực và kỳ diệu này. Và, ngẫu nhiên hình thức thơ đó đã tạo ra
những quy tắc vàng có tính hướng dẫn thực tiễn đối với sáng tạo thơ ca. Những thế hệ tiếp nối trong
sự ngưỡng mộ đã không ngừng sáng tác những bài thơ theo những quy tắc vàng mà các bậc tiền bối
đã để lại. Nhưng, các sáng tác sau đó, dù có xuất sắc đến đâu thì ánh sáng từ vẻ đẹp của các tác
phẩm thơ của họ cũng yếu dần đi và mờ nhạt so với những sáng tác thơ của những thời đại trước.
Điều này, không hẳn là do các nhà thơ các thời đại sau suy giảm về tài năng hoặc nỗ lực thi ca, mà
nó nằm ở điều cốt yếu - đó là sự đòi hỏi của thể chất thơ ca là phải luôn đổi khác, mới mẻ, thoát
khỏi quán tính thói quen về cảm xúc và cách tiếp cận thế giới.
Một nhà thơ lừng lẫy thời nhà Đường (Trung Hoa) là thi hào Lý Bạch, trong cuộc đời thế tục của
mình ông đã dời khỏi vị trí ở hoàng cung để đổi lấy tự do. Những bài thơ hay nhất của Lý Bạch
được dịch ra ở nước ta, có nhiều bài thơ kiệt xuất không viết theo thể thơ Đường luật, trong đó có
những bài mà ai đã từng đọc thơ Lý Bạch đều không thể bỏ qua, như bài "Tương tiến tửu" và bài
"Thục đạo nan". Những bài thơ này không được thực hiện bởi quy tắc vàng của hình thức thơ mẫu
mực do chính thời đại đó đã tạo tác. Những bài thơ không viết theo thể thơ luật của Lý Bạch được
vận hành theo dòng xả trôi tự do của cảm xúc, và nhịp điệu kết cấu của bài thơ được sinh ra trong
sự hoa điệu đủ để chứa tải cái hứng khởi tràn đầy của nhà thơ trong khối tâm sự đan bện chằng chịt
được dâng đặt giữa thiên nhiên trời đất và giữa lòng thiên hạ bao la.
Nếu theo cách nhìn của ngày nay, thì đó là những bài thơ viết theo thể thơ mới không bị ràng
buộc bởi những quy tắc quá chặt chẽ. Trong thời đại rực rỡ của Đường thi, nhiều kiệt tác còn lại đến
nay được viết theo thể thơ cổ phong, một thể thơ khá tự do từ thời cổ của Trung Hoa. Như vậy, cái
mà người ta gọi thời đại Đường thi với cái ý nói về thơ Đường luật, chỉ là rất tương đối mà thôi. Rõ
ràng những kiệt tác còn đến nay của thời đại Đường thi không chỉ là thơ Đường luật. Do vậy, cho
thấy các hình thức thơ được tạo tác dù mẫu mực và sáng rỡ đến bao nhiêu cũng chỉ đủ làm nên cái
Tượng thi hào Nguyễn Du ở Nghi Xuân - Hà Tĩnh.
rạng rỡ của sáng tạo thi ca thời đại đó và có thể tỏa rạng đến các thế kỷ sau - nhưng, đối với tiến


trình vận hành của thi ca thì các hình thức có trước đều trở thành vật cản trong công cuộc vận hành
không ngừng nghỉ của sáng tạo thế hệ tiếp theo.
Ở Việt Nam, thơ lục bát có thể trở thành hình thức thơ mẫu mực của những thời đại trước đây
được không? Câu hỏi này đã có người đặt ra, và cũng đã có một số ý kiến từng khẳng định thơ lục
bát không chỉ xuất hiện ở Việt Nam, mà nó có nguồn gốc từ một số nền văn hóa trong khu vực.
Điều này tôi không tường tận nên không dám lạm bàn.
Cứ cho rằng chỉ Việt Nam mới có thể thơ này, và rằng thể thơ này đã trở thành mẫu mực với
những quy tắc vàng mà nó đã tạo ra trong những yêu cầu về vần, nhịp và kiến trúc câu thơ, thì một
điều chắc không phải tranh cãi nhiều lắm, là thơ lục bát - trong những thế kỷ trước chỉ xuất hiện
dưới dạng chữ Nôm, thật khó tìm được một câu lục bát ở nước ta là một câu thơ dưới dạng chữ
Hán.
Đối với nhà nước phong kiến Việt Nam, ít nhất là từ thế kỷ XIX trở về trước, ngôn ngữ được
dùng trong các văn bản chính thức là chữ Hán (ngoại trừ một ít văn bản trong thời gian ngắn ngủi
của triều đại Hoàng đế Quang Trung).
Ta nhận thấy những trước tác thi ca của danh nhân các thời đại trước của nước ta hầu hết là bằng
chữ Hán, một số bài thơ chữ Nôm còn tồn tại chỉ nên được coi như một cái thú chơi của riêng họ.
Trong các đấng bậc văn chương thời trước, mấy ai ngang tàng hơn Cao Bá Quát, ông đã công khai
coi thường cái triều đình ngay cả lúc ông còn nhận miếng cơm manh áo từ nó, rồi ông đã cả gan tập
hợp lực lượng tổ chức một cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình đó. Thế mà đối với chữ Nôm, trong
bài tựa truyện "Hoa Tiên", Cao Bá Quát đã phải thốt lên: "Than ôi! Lấy Quốc ngữ làm văn chương,
thì ta chưa dám, nhưng lấy văn chương mà coi Quốc ngữ thì ta có phần tán thành".
Như vậy, từ thế kỷ XIX trở về trước, thực tế chữ Nôm chỉ tồn tại trong dân gian. "Lấy Quốc ngữ
làm văn chương", đến Cao Bá Quát - một con người dám lấy cuộc đời mình làm cột chống trời như
vậy còn "chưa dám", thì hỏi ai còn dám đây? Cho nên, dù các bậc danh gia về phê bình văn chương
có bình phẩm siêu quần thế nào đi chăng nữa về "Truyện Kiều" của thi hào Nguyễn Du, thì cá nhân
tôi vẫn cho rằng hai câu thơ kết của “Truyện Kiều” mà Nguyễn Du đã viết, là ông viết thực lòng,
thực tâm, chứ không có ý khiêm nhường và ngụ ý sâu sa gì cả.
Đã đành, cốt truyện của Truyện Kiều là của Trung Quốc, căn cứ vào các văn bản chú giải "Truyện
Kiều" của các học giả, các nhà nghiên cứu nước ta, thì tôi nhận thấy và nhiều người nhận thấy, có
nhiều câu thơ lục bát vào bậc hay nhất của "Truyện Kiều" là dịch từ thơ Đường, Tống. Thiên tài của

Nguyễn Du chính là sử dụng nhuần nhuyễn tài tình và biến hóa chữ Nôm trong câu thơ lục bát. Và,
tại "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã gửi gắm được tâm sự về thế cuộc rất khó nói của mình, khi trong
thời đại đó không thể tìm được nơi và người để ông có thể bộc bạch giãi bày nỗi lòng và cảnh ngộ
của mình.
Trong suốt cuộc đời sáng tác, Nguyễn Du đã để lại trên 300 bài thơ viết bằng chữ Hán, đã thể hiện
thế giới quan, nhân sinh quan và những rung động cùng hứng khởi của ông về những gì tâm huyết
nhất mà ông đã tiếp nhận được, đã suy tư trăn trở lúc đương thời. Với "Truyện Kiều" và chữ Nôm,
Nguyễn Du đã thực hiện được một công việc nằm ngoài ý chí của ông, như ông nói chỉ là "mua
vui". Đó chính là thế giới tự do của tâm tưởng, của tinh thần, ông đã bước vào mà không hay biết.
Với chữ Nôm cùng với thể lục bát và tích truyện của Trung Hoa, ông hoàn toàn tự do thoát khỏi
mọi ràng buộc, mọi quy ước và sự kiểm soát kiềm tỏa mà thời đại đã áp đặt lên nhận thức và tình
cảm mọi cá nhân trong xã hội đó.
Nếu theo góc nhìn của thời hiện nay, thì Nguyễn Du viết "Truyện Kiều" hoàn toàn là một sự vượt
rào khỏi những quy ước, những thói quen đã ngự trị thời ông sống. Đó là một sự đổi mới, là bước
ngoặt trong thi pháp thơ của ông. Điều này là hoàn toàn sáng rõ khi ta chú tâm nhìn ngắm lại toàn
bộ những sáng tác thơ mà Nguyễn Du đã để lại đến hôm nay. Thực tình, sự đổi mới thi pháp thơ
Nguyễn Du là một sự tình cờ vượt ra ngoài sự kiểm soát của nhà thơ. Sự tình cờ này đã để lại một
kiệt tác thơ, một kỳ công về ngôn ngữ có một không hai của thơ ca Việt Nam.
Đổi mới là cách tân, tức là phải đổi thay đi, phải khác đi. Đổi đến đâu và đổi như thế nào lại là
câu chuyện dài dài, không thể với dăm câu ba điều mà tỏ rõ được. Điều tiên quyết của đổi mới là
phải khác trước, là đổi sang cái gì đó tốt đẹp hơn, hiệu quả hơn và phù hợp hơn với hiện tại. Đó là
nguyện vọng của những người đổi mới và công chúng hưởng ứng cái mới. Dù cái mới nhiều khi
chưa hẳn đã tốt đẹp hơn cái trước nó, nhưng việc cải đổi sang cái mới luôn là nhu cầu tự thân của
mọi sự vận hành trên thế gian. Nó được tiến diễn như một quy luật, tức là không có gì có thể ngăn
trở được sự cải đổi này. Thế giới luôn đổi thay, đất nước hàng ngày thay đổi, nhận thức của con
người trong xã hội luôn được nâng cao theo sự thăng tiến không ngừng của nền văn minh, không hà
cớ gì mà thi ca lại không thay đổi.
Tôi không có ham muốn sẽ đề ra được những quy tắc nào đó của đổi mới thi ca, nhưng bằng trải
nghiệm và suy ngẫm của cá nhân cho tôi những gợi ý rằng việc đổi mới thi ca ít nhất phải thực hiện
được 3 điều sau:

1. Cảm xúc của sáng tác thơ phải cách biệt được cái nền cảm xúc của những sáng tác thơ trước
đó. Phải tạo dựng được một nền cảm xúc, trường độ cảm xúc riêng biệt và mới mẻ.
2. Cách nghĩ, cách tư duy, các mối quan tâm, nói chung là điểm nhìn của nhà thơ phải khác biệt
với điểm nhìn trước đó về con người, về nghệ thuật và về thế giới.
3. Cách thức tiến hành bài thơ, hệ thống ngôn từ được huy động cũng phải khác biệt và mang cảm
quan của thời đại, dù có thể là rất gián tiếp.
Còn một điều kiện nghe chừng có vẻ ngoại lệ, nhưng không thể bỏ qua, rằng để kết thành được 3
yếu tố trên trong một sáng tạo thơ mới, nhà thơ cần phải đạt đến sự tự do cao nhất về tâm thức và sự
thuần khiết của hứng khởi thi ca. Nếu không, 3 yếu tố trên cũng chỉ tạo ra một cái vỏ của sự mới mà
không mang theo một thể chất chứa đầy cường lực và năng lượng mới. Mang đến một thể chất mới
của thi ca, thực sự là mục tiêu mà công cuộc cách tân nỗ lực tìm kiếm và cần phải đạt đến.
Hà Nội, 5/5/2010
( Dương Kiều Minh)

×