Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

SKKN một số biện pháp có hiệu quả trong bồi dưỡng học sinh giỏi ở tiểu học giải pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.23 KB, 22 trang )







SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CÓ HIỆU QUẢ
TRONG BỒI DƯỠNG HỌC SINH
GIỎI Ở TIỂU HỌC: GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI
TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC
SINH LỚP 5


MỤC LỤC
Đề mục
Trang

Phần I. Đặt vấn đề
2

1. Lý do chọn đề tài.
2
2. Mục đích nghiên cứu.
3

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3


4. Phương pháp nghiên cứu.
3
5. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu.
4
Phần II. Nội dung
4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC
4
1. Cơ sở lí luận
4
2. Cơ sở tâm lý học.
5
3. Cơ sở thực tiễn
9
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN YÊN LẠC

11
1. Đặc điểm và tình hình của trường Tiểu học Thị trấn Yên Lạc
11
2. Nghiên cứu thực trạng công tác giải toán có lời văn ở trường
Tiểu học Thị trấn Yên Lạc.
11
CHƯƠNG III.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI
CÁC BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 5

12
1. Nội dung và các hình thức tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi

12
2. Một số giải pháp bối dưỡng học sinh giỏi
14
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG CHUYÊN ĐỀ

19
Phần III. Kết luận và kiến nghị
20
Tài liệu tham khảo
22

Phần I.Đặt vấn đề.


1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Về mặt lý luận:
Chương trình toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán
học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát
triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu
về số học. Các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản giải toán có
lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản.
Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu
tượng hoá, khái quát hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán,
phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết các
suy luận đơn giản góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa
học, linh hoạt và sáng tạo.
Mục tiêu nói trên được thông qua dạy học các môn học đặc biệt là môn
toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa
học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời

sống sinh hoạt và lao động cần của con người. Môn toán là “chìa khoá” mở của
các ngành khoa học khác,nó là côngcụ cần thiếtcủa người lao động trong thời
đại mới. Vì vậy,môn toán là một bộ phận không thể thiếu được trong nhà
trường,nó giúp con người phát triển toàn diện, góp phần tình cảm, trách nhiệm,
niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đât nước.
Trong dạy-học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí
quan trong. Có thể coi viêc dạy-học và giải toán là “lửa thử vàng” của dạy-học
toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy
động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong
nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được
nêu ra một cách tường minh. Và trong chừng mực nào đó biết suy nghĩ năng
động sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu
hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh.
Dạy học giải toán có lời văn ở tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau:
-Giúp học sinh luyện tập củng cố vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành
đã học, rèn luyện kĩ năng tính toán bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn
luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn.
-Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy rèn luyện phương pháp và
kĩ năng suy luận khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi.
-Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người
lao động như: Cẩn thận, chu đáo, cụ thể
1.2. Về mặt thực tiễn:
Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán đối với các em không còn là mới lạ, khả
năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư
duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vững và đa dạng và đang ở giai đoạn phát


triển vốn sống vốn hiểu biết thực tế bước đầu đã có những hiểu biết nhất định.
Tuy nhiên trình độ nhận thức của các em không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi
giải toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều

bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra,
nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: Sai sót do viết không đúng
chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một sai sót đáng kể khác là học sinh
thường không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn
sai phép tính.
Với các lí do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng,
việc học toán và giải toán có lời văn rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện
tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích
hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng. Hiểu sâu được bản chất của
vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán lôgíc thông
qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó
giúp các em hứng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó tôi đã chọn đề tài:
Một số biện pháp có hiệu quả trong bồi dưỡng học sinh giỏi ở tiểu học
“Giải pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5”
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài này có mục đích:
Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp đúng để giảng
dạy toán có lời văn.
Tìm hiểu những kĩ năngcơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có
lời văn cho học sinh lớp 5.
Khảo sát và hướng dẫn giải cụ thể một số bài toán, một số dạng toán có
lời văn ở lớp 5, từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất một số ý kiến góp phần nâng
cao chất lượng dạy học và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu giải toán.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Là học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thị trấn Yên Lạc.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Phương pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 ở trường Tiểu học
Thị trấn Yên Lạc.
4. Phương pháp nghiên cứu.

4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc sách, văn bản để thu nhập tư
liệu, thông tin cần thiết cho chương một của đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra cơ bản (bằng phiếu điều tra) kết hợp với quan sát, đàm thoại,
phỏng vấn, trò chuyện để nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn cho học sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Thị trấn Yên Lạc.


- Thực nghiệm sư phạm để thử nghiệm giải pháp nâng cao chất lượng giải
toán có lời văn, nhằm nâng cao kết quả của hoạt động dạy và học trong nhà
trường. Phương pháp này được sử dụng ở chương ba.
- Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của giáo viên và học sinh (giáo án, sổ
sách…) để xác định kết quả công tác dạy - học của giáo viên và học sinh.
4.3. Phương pháp nghiên cứu hỗ trợ:
- Thống kê toán học để phân tích số liệu điều tra và thực nghiệm như tính
phần trăm, tính trung bình.
- Trò chuyện của cô giáo với học sinh.
5. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu.
Trong đề tài này, chúng tôi xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu trong
khuôn khổ học sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Thị trấn Yên Lạc ,giai đoạn 2010 -
2013 nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy bồi dưỡng học sinh giỏi.

Phần II. Nội dung
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sở lý luận:
Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn
toán ở bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với
nội dung của số học và số học tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản
và các yếu tố đại số , hình học có trong chương trình.
Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm

sau:
a. Các khái niệm và các qui tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều
được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố
vận dụng các kiến thức, rèn luyện các kĩ năng tính toán, đồng thời qua việc giải
toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm hoặc
thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng và tư duy để giúp các em phát huy và
khắc phục.
b.Vệc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện
thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một
cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kĩ năng thực hành
cần thiết trong đời sống hằng ngày giúp các em biết vận dụng những kĩ năng đó
trong cuộc sống.Việc giải toán góp phần quan trong việc xây dựng cho học sinh
những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan
duy vật biện chứng: Việc giải toán với những đề tài thích hợp, có thể giới thiệu
cho các em những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta và các nước bè bạn, trong công cuộc bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới,
góp phần giáo dục các em bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế
hoạch Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học.


Ví dụ: các số, các phép tính, các đại lượng đều có nguồn gốc trong cuộc sống
hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ
biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm
c.Việc giải toán góp phần quan trọng vào rèn luyện cho học sinh năng lực
tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán,
tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt
cái gì đã cho và cái gì cần tìm, thiết lập mối quan hệ giữa các giữ kiện của bài
toán giữa cái đã cho và cái phải tìm. Suy luận, nêu lên những phán đoán, rút ra
những kết luận thực hiện phép tính cần thiết để giải quyết các vấn đề đặt
ra Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý trí

vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có hiệu quả, có kế hoạch,
thói quen xem xét có căn cứ, có thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình
làm, có óc độc lập, suy nghĩ sáng tạo, tự tìm ra những lời giải mới hay và ngắn
gọn
*Nội dung chương trình toán lớp 5:
1. Ôn tập về số tự nhiên.
2. Ôn tập về các phép tính số tự nhiên.
3. ÔN tập dấu hiệu chia hết cho 2.3.5.9.
4. Phân số ôn tập, bổ sung.
5. Ôn tập các phép tính về phân số.
6. Số thập phân.
7. Các phép tính về số thập phân.
8. Hình học-chu vi, diện tích, thể tích của một hình.
9. Số đo thời gian-Toán chuyển động đều.
2. Cơ sở tâm lý học.
2.1. Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học:
2.1.1. Chú ý của học sinh tiểu học:
a. Khái niệm chú ý: Chú ý là một trạng thái tâm lý của học sinh giúp các
em tập trung vào một hay một nhóm đối tượng nào đó để phản ánh các đối
tượng này một cách tốt nhất.
Ở học sinh tiểu học có hai loại chú ý: chú ý không chủ định và chú ý có
chủ định.
b. Đặc điểm chú ý của học sinh tiểu học:
Cả hai loại chú ý đều được hình thành và phát triển ở học sinh Tiểu học,
chú ý không chủ định đã có trước 6 tuổi và tiếp tục phát triển, những gì mới lạ,
hấp dẫn dễ dàng gây chú ý không chủ định của học sinh. Do có sự chuyển hoá
giữa hai loại chú ý này nên khi học sinh chú ý không chủ định, giáo viên đưa ra
câu hỏi để hướng học sinh vào nội dung bài học thì chú ý không chủ định
chuyển hoá thành chú ý có chủ định. Chú ý có chủ định ở giai đoạn này được
hình thành và phát triển mạnh. Sự hình thành loại chú ý này là đáp ứng nhu cầu



hoạt động học, ở giai đoạn đầu cấp chú ý có chủ định được hình thành
nhưng chưa ổn định, chưa bền vững. Vì vậy để duy trì nó nội dung mỗi tiết học
phải trở thành đối tượng hoạt động của học sinh. Ở cuối cấp chú ý có chủ định
bắt đầu ổn định và bền vững.
Các thuộc tính chú ý được hình thành và phát triển mạnh ở học sinh Tiểu
học. Ở giai đoạn đầu cấp khối lượng chú ý của học sinh còn hạn chế, học sinh
chưa biết tập trung chú ý của mình vào nội dung bài học chưa có khả năng phân
phối chú ý giữa các hoạt động diễn ra cùng một lúc. Ở giai đoạn 2 của cấp học
khối lượng chú ý được tăng lên, học sinh có khả năng phân phối chú ý giữa các
hành động, biết định hướng chú ý của mình vào nội dung cơ bản của tài liệu.
2.1.2. Trí nhớ của học sinh tiểu học.
a. Khái niệm trí nhớ:
Trí nhớ là quá trình tâm lý giúp học sinh ghi lại, giữ lại những tri thức
cũng như cách thức tiến hành hoạt động học mà các em tiếp thu được khi cần có
thể nhớ lại được, nhận lại được.
Có hai loại trí nhớ: trí nhớ có chủ định và trí nhớ không chủ định.
Tính trực quan trong hình ảnh trừu tượng giảm dần từ lớp 1 đến lớp 5; ở
học sinh đầu cấp tiểu học tính trực quan thể hiện rất rõ trong hình ảnh
trừu tượng. Đến lớp 4, 5 hình ảnh trừu tượng bắt đầu mang tính khái quát.
b. Đặc điểm trí nhớ của học sinh tiểu học.
Cả hai loại trí nhớ đều được hình thành và phát triển ở học sinh tiểu học.
Trí nhớ không chủ định tiếp tục phát triển nếu tiết học của giáo viên tổ
chức không điều khiển học sinh hành động để giải quyết các nhiệm vụ học thì dễ
dàng rơi vào ghi nhớ không chủ định.
Do yêu cầu hoạt động học trí nhớ có chủ định hình thành và phát triển.
Học sinh phải nhớ công thức, quy tắc, định nghĩa, khái niệm để vận dụng giải
bài tập hoặc tiếp thu tri thức mới, ghi nhớ này buộc học sinh phải sử dụng cả hai
phương pháp của trí nhớ có chủ định là: ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa.

Trí nhớ trực quan hình ảnh phát triển mạnh hơn trí nhớ từ ngữ trừu tượng
nghĩa là tài liệu, bài học có kèm theo tranh ảnh thì học sinh ghi nhớ tốt hơn so
với tài liệu bài học không có tranh ảnh.
2.1.3. Tưởng tượng của học sinh.
a. Khái niệm tưởng tượng.
Tưởng tượng của học sinh là một quá trình tâm lý nhằm tạo ra các hình
ảnh mới dựa vào các hình ảnh đã biết.
Ở học sinh Tiểu học có hai loại tưởng tượng: Tưởng tượng tái tạo (hình
dung lại) và tưởng tượng sáng tạo (tạo ra biểu tượng mới) để tạo ra hình ảnh mới
trong tưởng tượng học sinh sử dụng các thao tác sau: nhấn mạnh chi tiết thành
phần của sự vật để tạo ra hình ảnh mới. Thay đổi kích thước thành phần, ghép
các bộ phận khác nhau của sự vật, liên hợp các yếu tố của sự vật bị biến đổi nằm
trong mối quan hệ mới. Tập hợp, sáng tạo, khái quát các đặc điểm điển hình đại
diện cho một lớp đối tượng sự vật cùng loại.


b. Đặc điểm tưởng tượng của học sinh tiểu học:
Tính có mục đích, có chủ định của tưởng tượng học sinh tiểu học tăng lên
rất nhiều so với trước 6 tuổi. Do yêu cầu của hoạt động học, học sinh muốn tiếp
thu tri thức mới thì phải tạo cho mình các hình ảnh tưởng tượng.
Hình ảnh tưởng tượng còn rời rạc, đơn giản chưa ổn định thể hiện rõ ở
những học sinh đầu cấp tiểu học. Do những nguyên nhân sau:
+ Học sinh thường dựa vào những chi tiết hấp dẫn, những đặc điểm hấp
dẫn, mới lạ bề ngoài của sự vật hiện tượng để tạo ra hình ảnh mới.
+ Vốn kinh nghiệm của học sinh còn hạn chế vì tưởng tượng phải dựa vào
hình ảnh đã biết.
+ Tư duy học sinh đầu cấp tiểu học vẫn là tư duy cụ thể, ở cuối cấp học
hình ảnh tưởng tượng hoàn chỉnh hơn về kết cấu, chi tiết, tính lôgic.
2.1.4. Tư duy của học sinh tiểu học.
a. Khái niệm tư duy của học sinh tiểu học:

Tư duy của học sinh Tiểu học là quá trình các em hiểu được, phản ánh
được bản chất của đối tượng của các sự vật hiện tượng được xem xét nghiên cứu
trong quá trình học tập ở học sinh.
Có hai loại tư duy: Tư duy kinh nghiệm (tư duy cụ thể) chủ yếu hướng
vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể dựa vào vật thật hoặc là các hình ảnh trực
quan. Tư duy trìu tượng (tư duy lý luận) hướng vào giải quyết các nhiệm vụ lý
luận dựa vào ngôn ngữ, sơ đồ, các ký hiệu quy ước.
b. Đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học:
Do hoạt động học được hình thành ở học sinh Tiểu học qua hai giai đoạn
nên tư duy của học sinh cũng được hình thành qua hai giai đoạn.
Giai đoạn 1: Đặc điểm tư duy học sinh lớp 1, 2, 3.
Tư duy cụ thể vẫn tiếp tục hình thành và phát triển, tư duy trừu tượng bắt
đầu được hình thành. Tư duy cụ thể được thể hiện rõ ở học sinh lớp 1, 2 nghĩa là
học sinh tiếp thu tri thức mới phải tiến hành các thao tác với vật thực hoặc các
hình ảnh trực quan.
VD: Khi dạy về phép cộng hoặc phép trừ phải dựa vào việc sử dụng que
tính.
Tư duy trừu tượng bắt đầu được hình thành bởi vì tri thức các môn học là
các tri thức khái quát.
VD: Nếu không sử dụng que tính các em phải biết cách cộng hoặc trừ có
nhớ hoặc không có nhớ.
Tuy nhiên tư duy này phải dựa vào tư duy cụ thể.
Giai đoạn 2: Đặc điểm học sinh tiểu học lớp 4, 5.
Tư duy trìu tượng bắt đầu chiếm ưu thế so với tư duy cụ thể nghĩa là học
sinh tiếp thu tri thức của các môn học bằng cách tiến hành các thao tác tư duy
với ngôn ngữ, với các loại ký hiệu quy tắc.


VD: Học sinh sử dụng công thức tính diện tích tam giác để tìm công thức
tính diện tích hình thang.

Các thao tác tư duy đã liên kết với nhau thành 1 chỉnh thể có cấu trúc
hoàn chỉnh.
Thao tác thuận : a + b = c
Thao tác nghịch: c - b = a, c - a = b
Thao tác đồng nhất : a + 0 = a
Tính kết hợp nhiều thao tác: (a+b) + c = a + (b+c)
Thao tác phân loại không gian, thời gian phát triển mạnh.
Đặc điểm khái quát hoá: Học sinh biết dựa vào các dấu hiệu bản chất của
đối tượng để khái quát thành khái niệm.
Đặc điểm phán đoán suy luận: Học sinh biết chấp nhận giả thiết trung
thực. Học sinh không chỉ xác lập từ nguyên nhân đến kết quả mà còn xác lập
khái niệm từ kết quả đến nguyên nhân.
2.2. Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học.
2.2.1. Nhu cầu nhận thức của học sinh tiểu học.
a. Khái niệm nhu cầu nhận thức.
Nhu cầu nhận thức là một loại nhu cầu của hoạt động học hướng tới tiếp
thu tri thức mới và phương pháp đạt được tri thức đó.
Nhu cầu nhận thức bao giờ cũng tồn tại trong đầu học sinh dưới dạng câu
hỏi tại sao? Cái đó là cái gì?
b. Đặc điểm của nhu cầu nhận thức:
Nhu cầu nhận thức được hình thành và phát triển mạnh ở học sinh
Tiểu học.
Nhu cầu nhận thức của học sinh tiểu học hình thành qua 2 giai đoạn.
2.2.2. Năng lực học tập của học sinh.
a. Khái niệm:
Năng lực học tập của học sinh là tổ hợp các thuộc tính tâm lý của học sinh
đáp ứng được yêu cầu của hoạt động học đảm bảo cho hoạt động đó diễn ra có
kết quả.
Năng lực học tập của học sinh gồm:
+ Biết định hướng nhiệm vụ học, phân tích nhiệm vụ học thành các yếu

tố, mối liên hệ giữa chúng từ đó lập kế hoạch giải quyết.
+ Hệ thống kỹ năng, kỹ xảo cơ bản: phẩm chất nhân cách, năng lực quan
sát, ghi nhớ, các phẩm chất tư duy: tính độc lập, tính khái quát, linh hoạt
b. Đặc điểm năng lực học tập của học sinh tiểu học.
Nhờ thực hiện hoạt động học mà hình thành ở học sinh những năng lực
học tập với cách học và hệ thống kỹ năng học tập cơ bản.
Năng lực học tập của học sinh được hình thành qua 3 giai đoạn.
+ Giai đoạn hình thành (tiếp thu cách học)


+ Giai đoạn luyện tập (vận dụng tri thức mới, cách học mới).
+ Giai đoạn vận dụng (vận dụng cách học để giải các bài tập trong vốn
sống).
Để đánh giá năng lực học tập của học sinh, ta dựa vào các chỉ số sau:
+ Tốc độ tiến bộ của học sinh trong học tập.
+ Chất lượng học tập biểu hiện ở kết quả học tập.
+ Xu hướng, năng lực, sự kiên trì.
3. Cơ sở thực tiễn.
Toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế. Nội dung bài toán
được thông qua những câu nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có
liên quan đến cuộc sống thường sảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời
văn là phải lược bỏ những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài
toán, hay nói cách khác là chỉ ra mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa
đựng trong bài toán và nêu ra phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số bài
toán.
a) Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần:
Phần đã cho hay còn gọi là giả thiết của bài toán.
Phần phải tìm hay còn gọi là kết luận của bài toán.
Ngoài ra trong đề toán có nêu mối quan hệ giữa phần đã cho và phần
phải tìm hay thực chất là các mối quan hệ tương quan phụ thuộc vào giả thiết và

kết luận của bài toán.
b) Quy trình giải toán có lời văn thường thông qua các bước sau:
- Nghiên cứu kĩ đầu bài: Trước hết cần đọc cẩn thận bài toán, suy nghĩ về
ý nghĩa của bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt là chú ý đến câu hỏi của bài
toán. Chớ vội tính toán khi chưa đọc kĩ đề toán.
- Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đat nội dung bài toán
bàng ngôn ngữ hoặc tóm tắt điều kiện bài toán, hoặc minh hoạ bằng sơ đồ hình
vẽ.
- Lập kế hoạch giải toán: Học sinh phải suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi
của bài toán cần thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ số đã cho và
điều kiện của bài toán có thể biết gì? Có thể làm phép tính gì? Phép tính
đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không? Trên các cơ sở đó, suy
nghĩ để thiết lập trình tự giải toán.
- Thực hiện phép tính theo trình tự kế hoạch đã thiết lập để tìm đáp số.
Mỗi khi thực hiện phép tính cần kiểm tra xem đã tính đúng chưa? Phép tính
được thực hiện có dựa trên cơ sở đúng đắn không?
Giải xong bài toán, khi cần thiết, cần thử lại xem đáp số tìm được có trả
lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không?
Trong một số trường hợp, giáo viên nên khuyến khích học sinh tìm xem có cách
giải khác gọn hơn không?


Ví dụ 1: Thùng to có 26 lít dầu, thùng bé có 18 lít dầu. Dầu được chứa
vào các chai như nhau, mỗi chai có 0,8 lít. Hỏi có tất cả bao nhiêu chai dầu?
Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện bài toán trên bằng cách dùng
phương pháp vấn đáp, kết hợp với minh hoạ bằng tóm tắt đề toán.
+Phân tích nội dung đề toán: Giáo viên dùng hai câu hỏi: Bài toán cho
biết gì? Bài toán hỏi gì? Để học sinh hiểu nội dung bài:
Thùng to có 26 lít dầu.
Thùng bé có 18 lít dầu.

Mỗi chai chứa 0,8 lít dầu.
Hỏi có tất cả có bao nhiêu chai dầu?
+Tóm tắt bài toán : Theo những câu trả lời của học sinh, giáo viên
hướng dẫn học sinh tóm tắt như sau:
Thùng to: 26 l
Thùng bé:18 l
Có : chai dầu?
Tóm tắt trên chính là chỗ dựa cho học sinh tự tìm ra lời và phép tính
tương ứng.
+Thiết lập trình tự giải: Giáo viên đạt câu hỏi “Muốn biết có bao nhiêu
chai dầu, ta phải làm thế nào? ” Học sinh trả lời: “Trước hết ta phải tìm tổng số
lít dầu có ở hai thùng, sau đó mới tìm tổng số chai đựng dầu”.
Bài giải
Tổng số lít dầu ở hai thùng là:
26 + 18 =44 (l)
Số chai đựng dầu là:
44 : 0,8 = 55 (chai )
Đáp số: 55 chai





CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN YÊN LẠC
1. Đặc điểm và tình hình của trường Tiểu học Thị trấn Yên Lạc :


Trường Tiểu học Thị trấn Yên Lạc thành lập từ năm 1922 thuộc Phòng

GD –ĐT Yên Lạc,Huyện Yên Lạc ,tỉnh Vĩnh Phúc. Trường đóng trên địa bàn
Thị trấn Yên Lạc ,huyện Yên Lạc ,tỉnh Vĩnh Phúc.
Trường có 21 lớp (Khối 1 : 5 lớp ; khối 2 : 4 lớp ; khối 3: 5 lớp; khối 4: 4 lớp ;
khối 5: 3 lớp ).Với tổng số học sinh là 712 em. 100% các lớp học 2 buổi / ngày. .
Chất lượng học sinh giỏi của nhà trường các năm gần đây liên tục được nâng
lên.
2. Nghiên cứu thực trạng công tác giải toán có lời văn ở trường Tiểu
học Thị trấn Yên Lạc.
* Thuận lợi:
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi hiện nay đã được nhà trường và chính
quyền địa phương quan tâm chỉ đạo sát sao đặc biệt là chính quyền địa phương
đã có những phần thưởng có tính khích lệ để động viên giáo viên và học sinh .
Bên cạnh đó nhà trường tạo mọi điều kiện cần thiết đảm bảo cho công tác
bồi dưỡng đạt hiệu quả như: phòng học, chế độ bồi dưỡng của giáo viên, đồ
dùng dạy học và đặc biệt là Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn thường
xuyên hội ý, rút kinh nghiệm trong từng giai đoạn bồi dưỡng, Hiệu trưởng trực ti
ếp chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá.
Giáo viên bồi dưỡng thường là những giáo viên có năng lực giảng dạy
tốt, có uy tín trong học sinh, nhân dân và đồng nghiệp.
Đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao, dân trí được phát triển vì
vậy nhận thức của phụ huynh học sinh về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
được sáng tỏ. Vì vậy việc cho con em tham gia các lớp bồi dưỡng được các phụ
huynh hết sức ủng hộ và tạo mọi điều kiện vật chất để con em mình tham gia.
Ngay từ các lớp dưới học sinh đã được làm quen với cách giải các dạng
toán có lời văn.
Nhà trường tổ chức nhiều chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học để
giáo viên học tập phương pháp.
* Khó khăn:
Về phía phụ huynh học sinh, số lượng phụ huynh có nguyện vọng cho con
em mình đi học bồi dưỡng thêm môn toán còn ít vì cho rằng ở tiểu học kiến thức

rất đơn giản.
Về phía giáo viên: Kiến thức toán, khả năng tư duy sâu còn hạn chế, kinh
nghiệm bồi dưỡng còn ít, không được phân công chuyên trách về vấn đề này.
Bên cạnh đó có những nguy cơ xem nhẹ, chưa chú trọng đến việc sửa lỗi cho
học sinh trong khi trình bày lời giải của những bài toán có lời văn mà chỉ chú ý
đến kết quả đúng - sai.
Đặc trưng môn học chủ yếu là dựa vào khả năng tìm tòi, sáng tạo và tích
lũy kiến thức của cá nhân học sinh .


Thời gian dành cho chương trình bồi dưỡng không nhiều chỉ chủ yếu là
năm học cuối cấp vì vậy việc nắm khối lượng kiến thức hết sức nặng nề với các
em. Bên cạnh đó sự tập trung của các em chưa bền vững, khả năng tập trung
chưa cao, nóng vội trong các tình huống cộng với trình độ thấp so với yêu
cầu đặt ra của học sinh giỏi tạo ra không ít khó khăn cho công tác bồi dưỡng.
Điều kiện kinh tế gia đình của học sinh còn khó khăn, thời gian dành cho
việc học tập ở nhà còn ít, việc mua sắm tài liệu tham khảo còn hạn chế dẫn đến
chất lượng không cao.
Tóm lại: Thực trạng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn toán,
hiện nay tuy có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Tuy vậy, khó
khăn nào cũng có hướng giải quyết, thuận lợi nào đều có thể phát huy những
khó khăn đó, đề tài xin đưa ra một số biện pháp giải quyết trong chương 3, phần
nội dung.

CHƯƠNG III.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI CÁC BÀI
TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 5

1. Nội dung và các hình thức tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi.
1.1. Nội dung tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi

Dựa vào nội dung chức năng tổ chức trong công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi gồm các nội dung sau:
Xác định cấu trúc tổ chức hợp lý của đối tượng đó là học sinh giỏi.
Xây dựng cấu trúc tổ chức hợp lý : Từ Hiệu trưởng, phó Hiệu trưởng, các
tổ chức chuyên môn và giáo viên trực tiếp bồi dưỡng.
Tạo ra một mạng lưới các quan hệ tổ chức giữa những người trong hệ
quản lý và hệ được quản lý là màng lưới từ Hiệu trưởng, phó Hiệu trưởng, các tổ
chuyên môn đến giáo viên đứng lớp, giáo viên bồi dưỡng đội tuyển học sinh
giỏi.
Bồi dưỡng giáo viên dạy đội tuyển.
Tổ chức bồi dưỡng một cách khoa học nhằm nâng cao hiệu quả học sinh
giỏi.
1.2. Các hình thức tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi.
Lịch sử phát triển của loài người đã chứng tỏ rằng thế hệ trước muốn
truyền lại kiến thức, kinh nghiệm về mọi mặt cho lớp người sau một cách tối ưu
thì phải qua các hình thức giáo dục đào tạo thích hợp. Vì vậy đối với học sinh
giỏi ở bậc tiểu học cần phải có hình thức bồi dưỡng phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của các em, phù hợp với mục tiêu, nội dung, phương pháp ở bậc Tiểu
học.
Các hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi rất đa dạng phong phú song có thể
phân thành ba loại: Bồi dưỡng theo nhóm, bồi dưỡng trong lớp học sinh bình
thường và hình thức bồi dưỡng đặc biệt.


*Bồi dưỡng theo nhóm:
Người ta phân loại sắp xếp học sinh theo các nhóm đặc biệt có sự tương
đồng về năng lực, thành tích, năng khiếu, hứng thú hoặc động cơ. Các nhóm học
sinh này có sinh hoạt mỗi tuần một hoặc hai buổi.
- Ưu điểm:
Hình thức bồi dưỡng này giảm bớt sự khác biệt giữa các cá nhân trong

nhóm, cho phép dễ áp dụng thử nghiệm các nội dung học ở mức độ cao hơn.
Học sinh được phát huy được hết khả năng nhận thức của mình. Tạo nhiều cơ
hội để kích thích học sinh trao đổi những năng lực, thành tích, hứng thú và phán
đoán.
Thuận lợi trong việc tìm giáo viên phụ trách.
- Nhược điểm:
Nếu không quản lý tốt học sinh dễ rơi vào tình trạng học quá sức, học
lệch. Xu hướng bồi dưỡng các em thành các thợ toán, thợ văn dễ xảy ra.
* Tổ chức trong lớp học bình thường
Giáo viên phải lựa chọn, điều chỉnh nội dung dạy học trên lớp để có sự
phân hoá, phù hợp với nhu cầu nhận thức của học sinh giỏi.
- Ưu điểm:
Việc cung cấp kiến thức để bồi dưỡng học sinh giỏi ngay trên lớp học bình
thường là trách nhiệm của mỗi giáo viên.
Sự phát triển nhân cách của học sinh luôn có sự thay đổi nên lớp học bình
thường là chỗ dựa tốt nhất để tiếp nhận sự biến đổi đó và để bồi dưỡng sự phát
triển toàn diện.
Tính toán nhanh nhẹn, sáng tạo và tư duy linh hoạt của học sinh giỏi có
tác dụng kích thích tốt đến chất lượng của học sinh toàn lớp.
Học sinh giỏi có nhận thức sâu sắc, sáng tạo hơn học sinh bình thường,
nên luôn làm phong phú hơn những tình huống diễn ra trên lớp, tạo không khí
học tập và hứng thú dạy học cho thầy và trò.
- Nhược điểm:
Giáo viên gặp khó khăn trong việc điều khiển lớp học nhiều trình độ, ở
thời điểm này chú ý tới đối tượng học sinh yếu thì học sinh giỏi bị bỏ rơi và
ngược lại.
Học sinh dễ bằng lòng với kết quả đạt được với những điểm số cao nhưng
đánh giá ở mức thấp.
* Hình thức bồi dưỡng đặc biệt:
Đối với những trẻ em có khả năng trí tuệ đặc biệt có thể cho học sinh học

sinh học theo tài liệu: giáo viên hướng dẫn các em tham khảo tài liệu tự chọn và
tự học ở nhà, nếu gặp khó khăn thì giáo viên có thể giúp đỡ các em.
Mỗi hình thức đều có những ưu, nhược điểm riêng. Người ta thường sử
dụng phối hợp hình thức bồi dưỡng theo nhóm và bồi dưỡng ngay tại lớp bình
thường để hạn chế các nhược điểm, phát huy các ưu điểm của mỗi hình thức.


2. Một số giải pháp bồi dưỡng học sinh giỏi.
Muốn phân tích được tình huống, lựa chọn phép tính thích hợp, các em
cần nhận thức được: Cái gì đã cho, cái gì cần tìm, mối quan hệ với cái đã cho và
cái phải tìm. Trong bước đầu giải toán việc nhận thức và việc lựa chọn phép tính
với các em là một việc khó. Để giúp các em khắc phục khó khăn này, cần dựa
vào hoạt động cụ thể của các em với vật thật, với mô hình, dựa vào hình vẽ, các
sơ đồ toán học Nhằm làm cho các em hiểu khái niệm “gấp” với phép nhân,
khái niệm “một phần ” với phép chia trong tương quan giũa các mối quan hệ
với bài toán.
Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn
phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu
hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể dặt các câu hỏi khác nhau, do đó việc
lựa chọn phép tính cũng khác nhau. Việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều
kiện căn bản để giải đúng các bài toán đó. Những trẻ em trong giai đoạn đầu khi
mới giải toán chưa nhận thức được đầy đủ chức năng của câu hỏi trong bài toán.
Để rèn luyện cho các em suy luận đúng, cần giúp các em nhận thức được chức
năng quan trọng của câu hỏi trong bài toán. Câu hỏi của bài toán, đôi khi nêu
cho các em bài toán vui không giải được. Chẳng hạn: “Trên cành cây có 10 con
chim. Người thợ săn bắn rơi 2 con chim. Hỏi trong lồng còn mấy con chim?”.
Có em sẽ nhầm và trả lời là 8 con chim. Lúc đó giáo viên sẽ giải thích để học
sinh nhận ra cái sai trong câu hỏi của bài toán.
Đối với bài toán có lời văn ở lớp 5, chủ yếu là các bài toán hợp.Giải các
bài toán hợp cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác các dạng

toán đều đã được học ở các lớp trước bao gồm hai nhóm chính như sau:
a) Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương
pháp thống nhất cho các bài toán đó.
b) Nhóm 2: Các bài toán điển hình là các bài toán mà trong quá trình giải
có phương pháp riêng cho từng dạng bài toán. Trong chương trình toán lớp 5 có
những dạng toán điển hình sau:
-Tìm số trung bình cộng.
-Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đo.
-Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó.
-Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó.
-Bài toán liên quan đến đại lượng tỉ lệ thuận, tỉ lệ nghịch.
Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán để có cách giải phù hợp.
Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. hình thành kĩ năng
giải toán khó hơn nhiều so với hình thành kĩ năng tính. Vì bài toán là sự kết hợp
đa dạng nhiều khái niệm, quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu để
rồi áp dụng, mà đòi hỏi phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm ý nghĩa


của phép tính, đòi hỏi khả năng suy nghĩ độc lập của học sinh, đòi hỏi phải biết
tính đúng.
Các bước để giải một bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói
riêng đã được đề cập ở một số cách về phương pháp giải toán ở bậc tiểu học. Ở
đây tôi rút ra một số kinh nghiệm hướng dẫn: Phần đạt toán có lời văn ở lớp 5.
Ở lớp 5, việc học phân số, học số thập phân, học về các đơn vị đo đại
lượng Cũng được kết hợp học các phép tính, học giải toán được kết hợp một
cách hữu cơ để có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Việc dạy cho học sinh nắm được
các phương pháp chung để giải toán được chú trọng ngay từ khi các em giải bài
toán đầu tiên ở bậc tiểu học và sau này vẫn được thường xuyên quan tâm. Các
em luôn được rèn luyện trong việc tìm hiểu đề toán, trong việc phân tích cái gì
đã cho, cái gì phải tìm trong việc suy nghĩ tìm ra cách giải và trong việc thực

hiện cách giải. Đặc biệt các em thường xuyên sử dụng việc tóm tắt bài toán bằng
sơ đồ hình vẽ.
Sau đây là một số ví dụ về các dạng toán có lời văn ở lớp 5:
Ví dụ 1: Bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận.
Một ô tô cứ một 100 km thì hết 12,5 l xăng. Hỏi ô tô đi quãng đường dài
120 km thì cần bao nhiêu lít xăng?
Bài giải
Số lít xăng cần để đi 1 km là:
12,5 : 100 = 0,125 (l)
Số lít ô tô cần để đi quãng đường 60 km là:
0,125 x 120 = 15 (l)
Đáp số : 15 lít xăng
Ví dụ 2: Toán chuyển động đều.
Một người đi hết quãng đường dài 11,52 km với vận tốc 4,5 km/giờ. Hỏi
người đó đã đi hết bao nhiêu giờ và bao nhiêu phút?
Bài giải
Thời gian ô tô đi hết quãng đường là:
11,52 : 4,5 = 2,5 (giờ)
= 2 giờ 30 phút.
Đáp số: 2 giờ 30 phút.

Ví dụ 3: Bài toán về tỉ lệ nghịch.
Một đơn vị bộ đội có 45 người đã chuẩn gạo đủ ăn trong 15 ngày. Nhưng
sau 5 ngày đơn vị đó nhận tiếp thêm 5 người nữa. Hãy tính xem số gạo còn lại
đủ cho đơn vị ăn bao nhiêu ngày nữa, biết rằng các suất ăn đều như nhau.
Bài giải


Số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong số ngày là:
15 – 5 = 10 (ngày)

Số người của đơn vị sau khi tăng là:
45 + 5 = 50 (người)
Vì số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong 10 ngày, nên nếu 1 người ăn số gạo
đó thì sẽ đủ ăn trong số ngày là:
10 x 45 = 450 (ngày)
Vậy 50 người ăn số gạo còn lại trong số ngày là:
450 : 50 = 9 (ngày)
Đáp số: 9 ngày
Ví dụ 4: Bài toán về nhân số thập phân với số thập phân.
Một khu vườn hình chữ nhật có chiều dài 27,18 m, chiều rộng 9,4 m. Tính
chu vi và diện tích khu vườn đó?
Tóm tắt:
Chiều dài: 27,18 m
Chiều rộng: 9,4 m
Chu vi: ? m; diện tích: ? m
2

Bài giải
Chu vi của khu vườn là:
(27,18 + 9,4) x 2 = 72,96 (m)
Diện tích khu vườn là:
27,18 x 9,4 = 255,492 (m
2
)
Đáp số: Chu vi: 72,96 m
Diện tích: 255,492 m
2

Ví dụ 5: Bài toán về tỉ số phần trăm.
Ngày thường mua 5 quả bóng bay hết 10.000 đồng . Cũng với số tiền đó

trong ngày lễ chỉ mua được 4 quả bóng bay như thế. Hỏi so với ngày thường thì
giá bóng bay trong ngày lễ tăng hay giảm bao nhiêu phần trăm?
Bài giải
Giá tiền 1 quả bóng bay ngày thường là:
10000 : 5 = 2000 (đồng)
Giá tiền 1 quả bóng bay trong ngày lễ là:
10000 : 4 = 2500 (đồng)
Tỉ số phần trăm của giá bóng bay trong ngày lễ so với ngày thường là:
2500 : 2000 = 1,25 = 125%
Coi giá bóng bay trong ngày thường là 100% thì giá bóng bay trong ngày
lễ hơn ngày thường là:


125% – 100% = 25%
Đáp số: 25%
Đối với các bài toán có lời văn như trên, giáo viên nên khuyến khích học
sinh tự nêu ra các giả thiết đã biết, cái cần phải tìm cách tóm tắt bài toán và tìm
cách giải. Các phép tính giải chỉ là khâu thứ yếu mang tính kĩ thuật.
Một số bài nâng cao dành cho học sinh khá giỏi:
Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải thành thạo các bài
toán đơn cơ bản, thì việc đưa ra hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và
cần thiết để cho học sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt
xa khỏi tư duy cụ thể mang tính chất ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc
trong công thức.
Dưới đây là một số dạng bài nâng cao mà tôi đã thực hiện trong các tiết để
nâng cao tính hiểu biết, đồng thời bồi dưỡng học sinh giỏi.
Ví dụ 1: Nếu Kiên và Hiền cùng làm một công việc thì hoàn thành công
việc trong 10 ngày. Sau 7 ngày cùng làm thì Kiên nghỉ việc , còn Hiền phải làm
nốt phần việc còn lại trong 9 ngày nữa . Hãy tính xem nếu mỗi người làm riêng
thì sau bao nhiêu ngày sẽ hoàn thành công việc đó?

Bài giải
Cách 1:
Kiên và Hiền cùng làm trong 1 ngày được
10
1
công việc.
Kiên và Hiền cùng làm sau 7 ngày được:
10
7
7
10
1
=x (công việc)
Phần việc còn lại do Hiền làm là:
10
3
10
7
1 =- (công việc)
Mỗi ngày Hiền làm được là:
30
1
9:
10
3
= (công việc)
Số ngày Hiền làm một mình để xong công việc là:
30
30
1

:1 = (ngày)
Mỗi ngày Kiên làm được là:
15
1
30
1
10
1
=- (công việc)
Số ngày Kiên làm một mình hết công việc là:
15
15
1
:1 = (ngày)
Đáp số: Hiền: 30 ngày


Kiên: 15 ngày

Cách 2:
Coi công việc là 10 phần bằng nhau thì Kiên và Hiền cùng làm được 7
phần , nên còn lại 3 phần đó (10-7=3) là do Hiền làm tiếp trong 9 ngày nữa.
3 phần làm trong 9 ngày.
1 phần làm trong: 9 : 3 = 3 (ngày)
10 phần làm trong: 3 x 10 = 30 (ngày)
Vậy Hiền làm riêng thì sẽ xong công việc:
Giả sử Hiền chỉ làm tiếp trong 3 ngày nữa thì mới thực hiện thêm 1 phần
việc, còn 2 phần việc lẽ ra Kiên phải làm trong 3 ngày. Như thế Kiên phải làm
nhanh gấp đôi Hiền. Vì vậy số ngày Kiên làm riêng để làm xong công việc là:
30 : 2 = 15 (ngày)

Đáp số: Hiền: 30 ngày
Kiên: 15 ngày
Ví dụ 2: Có một số lít dầu và một số can. Nếu mỗi can chứa 5 l dầu thì
còn thừa 5 l. Nếu mỗi can chứa 6 l dầu thì có 1 can không chứa dầu. Hỏi có bao
nhiêu can, bao nhiêu lít dầu?
Bài giải
Nếu mỗi can chứa 5 l dầu thì còn thừa 5 l. Nếu mỗi can chứa 6 l dầu thì có
một can không chứa dầu, Nghĩa là thêm 6 l dầu nữa thì không còn thừa một can
nào nữa. Do đó số dầu để chứa đủ mỗi can 6 l sẽ nhiều hơn số dầu để chứa mỗi
can 5 l là:
5 + 6 = 11 (l)
6 l dầu nhiều hơn 5 l dầu là:
6 – 5 = 1 (l)
Số can có là:
11 : 1 = 11 (can)
Có 11 can, mỗi can chứa 5 l còn thừa 5 thì số dầu có là:
5 x 11 + 5 = 60 (l)
Đáp số: 11 can
60 l dầu
Ví dụ 3: Lớp 5A tham gia học may, ngày thứ nhất có 1/6 số học sinh của
lớp và 2 em, ngày thứ hai có 1/4 số học sinh còn lại và 1 em tham gia, ngày thứ
ba có 2/5 số học sinh còn lại sau hai ngày và 3 em, ngày thứ tư có 1/3 số còn lại
và 1 em tham gia. Cuối cùng còn lại 5 em chưa tham gia. Hỏi lớp 5A có bao
nhiêu học sinh?
Tóm tắt: ? em


Số học sinh:

Ngày 1:

6
1
số HS và 1 em

Ngày 2:
4
1
số HS còn lại và 1 em

Ngày 3:
5
2
số HS còn lại và 3 em

Ngày 4:
3
1
số HS còn lại và 1 em
5 em
Bài giải
Số học sinh còn lại sau khi tham gia ngày thứ ba là:
(5 + 1) : 2 x 3 = 9 (em)
Số học sinh còn lại sau ngày thứ hai là:
(9 + 3 ) : 3 x 5 = 20 (em)
Số học sinh còn lại sau ngày thứ nhất là:
(20 + 1) :3 x 4 = 28 (em)
Số học sinh lớp 5A là:
(28 +2 ) : 5 x 6 = 36 (em)
Đáp số: 36 em


CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
Khi áp dụng biện pháp này thu được kết quả khả quan:
· Khi chưa áp dụng học sinh gặp nhiều khó khăn khi giải các bài tập về các
bài toán có lời văn, nhất là các bài tập tính toán phức tạp. Do đó, trong
một số bài tập học sinh mắc những sai lầm rất đáng tiếc.
· Khi áp dụng biện pháp: Học sinh dễ dàng nhận dạng được các kiểu bài tập
riêng của các bài toán có lời văn. Từ đó học sinh vận dụng phương pháp
để giải các bài tập này một cách dễ dàng và khoa học nhất.
Cụ thể:
Năm học Giải cấp huyện Giải cấp tỉnh Ghi chú
2010 - 2011 - 0 giải nhất - 01 giải nhất


- 01 giải nhì
- 03 giải ba
- 06 giải khuyến khích
- 05 giải nhì
- 04 giải ba
- 02 giải khuyến khích
2011 - 2012 - 0 giải nhất
- 02 giải nhì
- 05 giải ba
- 04 giải khuyến khích
- 01 giải nhất
- 06 giải nhì
- 05 giải ba
- 06 giải khuyến khích

2012- 2013 - 02 giải nhì

- 06 giải ba
- 03 giải khuyến khích
- 01 giải nhất
- 02 giải nhì
- 06 giải ba
- 03 giải khuyến khích


Phần III. Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận.
Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát
triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa,
rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgic. Bên cạnh đó, đây là là một dạng toán
rất gần gũi với đời sống thực tế với học sinh.
Do vậy, có thể nói đây là một nhiệm vụ của mỗi người giáo viên đứng
lớp. Việc giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở thành
những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc
sống thực tế hằng ngày.
Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu
không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bạc tiểu học song
lại là cái mới đối với bản thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã phát hiện
và rút ra nhiều điều lý thú về nội dung và phương pháp dạy học giải toán có lời
văn ở bậc tiểu học. Tôi tự cảm thấy mình được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì ,
nhẫn nại, sự ham muốn, lòng say sưa với nghiên cứu tìm tòi trong công việc dạy
học, nhằm đem lại sự tươi sáng cho học sinh và niềm đam mê cho chính bản
thân. Tuy nhiên, đề tài này của tôi đang trong giai đoạn đầu nghiên cứu và áp
dụng trong lĩnh vực khoa học nên không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi
mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo Hội đồng khoa
học các cấp , các bạn đồng nghiệp và những ai quan quan tâm đến vấn đề: “Giải
toán có lời văn” cho học sinh ở bậc tiểu học nói chung, và “Giải toán có lời văn”

ở lớp 5 nói riêng.
2. Kiến nghị.


Qua thực tế giảng dạy môn toán ở trường tiểu học nói chung và lớp 5 nói
riêng. Tôi thấy người giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi, trau rồi kinh
nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Đối với giáo viên ở mỗi dạng toán cần hướng dẫn học sinh nhận dạng
bằng nhiều cách: đọc, nghiên cứu đề, phân tích bằng nhiều phương pháp (mô
hình, sơ đồ đoạn thẳng, suy luận ) để học sinh dễ hiểu, dễ nắm bắt bài hơn.
Không dừng lại ở kết quả ban đầu ( giải đúng bài toán ) mà nên có yêu cầu cao
hơn đối với học sinh.
Ví dụ: Như yêu cầu học sinh ra một đề toán tương tự hoặc tìm hiểu nhiều
lời giải khác nhau
Giáo viên phải luôn luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức
như: trò chơi, đố vui phù hợp với đối tượng học sinh của mình: “Lấy học sinh
để hướng vào hoạt động học, người thầy là người hướng dẫn tổ chức, học sinh
nhận thức chủ động trong việc giải toán”
Trong giảng dạy giáo viên cần chú ý phát triển tư duy, khả năng phân
tích, tổng hợp, khả năng suy luận logic, giúp các em nắm chắc kiến thức cụ
thể.Với bài toán có lời văn, đó là cách giải và cách trình bày lời giải, sử dụng tốt
các phương pháp đã nêu ở trên.
Không dừng lại ở kết quả ban đầu (giải đúng bài toán) mà nên có yêu cầu
cao hơn với học sinh. Ví dụ: yêu cầu một học sinh ra một đề toán tương tự hoặc
tìm nhiều lời giải khác nhau
Trong khi giải phải yêu cầu học sinh đặt câu hỏi: “Làm phép tính đó để
làm gì?” Từ đó có hướng giải đúng, chính xác.
Đối với nhà trường cần tổ chức cho giáo viên tham gia học tập ngoại
khoá ở các đơn vị điển hình tiên tiến.







Thị trấn, ngày 20 tháng 4 năm 2013
Người viết sáng kiến kinh nghiệm



Nguyễn Thị Thủy

×