Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chúng ta buộc phải sắc sảo trong tư vấn doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.12 KB, 7 trang )


Chúng ta buộc phải sắc sảo
trong tư vấn
Trước hết là phải định nghĩa nghề tư vấn, có rất nhiều loại hình, tư vấn như
chúng tôi là tư vấn kinh doanh, tư vấn đầu tư, tư vấn luật pháp. Còn có
những loại hình tư vấn khác. Bạn biết rằng vào cuối những năm 90 Chính
phủ đã đồng loạt đổi tên tất cả các Viện thiết kế của các bộ thành các Công
ty tư vấn thiết kế và trong hầu hết các công trình có chất lượng quốc tế
trước đây và kể cả chất lượng Việt Nam bây giờ thì người ta cũng đã sử
dụng tư vấn. Vậy thì tư vấn kỹ thuật là một nhánh rất quan trọng của nghề
tư vấn. Trước đây các doanh nghiệp hoạt động một cách tương đối địa
phương. Nhưng bây giờ khi hội nhập, doanh nghiệp cảm thấy rằng các hoạt
động đầu tư, các hoạt động mở rộng. các hoạt động kế toán, kiểm toán
của mình rất cần thiết thì các loại hình tư vấn cũng tách ra, chuyên nghiệp
hóa để phục vụ các đòi hỏi, nhu cầu của nền kinh tế. Phải nói rộng về khái
niệm tư vấn như vậy để hiểu rằng đây là một nghề góp phần nâng cao chất
lượng nền kinh tế. Tức là xã hội đã phát triển tới mức đòi hỏi cần phải nâng
cao chất lượng của tất cả các công đoạn của một đầu tư cho nên tư vấn có
mặt trong tất cả mọi công đoạn đó.
Anh lo lắng rằng khi chúng ta tham gia vào WTO thì liệu chúng ta sẽ đi về
đâu? Tôi xin khẳng định chúng ta sẽ chẳng đi về đâu cả mà chúng ta vẫn


đứng ở đây để cạnh tranh. Chúng ta buộc phải sắc sảo hơn người ta, học
người ta để có thể thích hợp với người ta. Chúng ta sẽ làm cho họ hiểu Việt
Nam hơn, hiểu môi trường pháp lý, hiểu hệ thống chính sách, thậm chí hiểu
tâm tính của Chính phủ. Cho nên đôi khi, chúng tôi trở thành các
subcontractor - nhà thầu phụ của các đại gia phương Tây. Trong rất nhiều
dự án chúng tôi đấu thầu ngang ngửa với các Tập đoàn tư vấn lớn trên thế
giới và có những lúc chúng tôi đã thắng. Tôi nghĩ chúng ta phải phấn đấu.
Chúng ta không phấn đấu to bằng họ được đâu, nhưng chúng ta phấn đấu


cung cấp các dịch vụ cụ thể và trong nhiều trường hợp sắc sảo hơn họ. Trên
thực tế chúng tôi đã làm được.
PV: Theo cách dùng từ của ông chúng ta đang trong giai đoạn phát triển
“bản năng” theo ông quá trình đó tồn tại trong bao lâu và sẽ dẫn đến xu
thế nào?
NTB: Anh có dùng chữ của tôi là nền kinh tế của chúgn ta đang “phát triển
bản năng” và liệu chúng ta sẽ phát triển tiếp như thế nào, thì tôi phải nói
rằng phát triển bao giờ cũng là quá trình bản năng và nhiệm vụ của chúng ta
biến quá trình bản năng ấy trở thành quá trình bản năng tương đối chuyên
nghiệp. Cuộc sống tự phát triển, mà cuộc sống là bản năng. Chúng ta chỉ có
thể mài sắc kinh nghiệm để đưa trạng thái bản năng trở thành trạng thái bản
năng chuyên nghiệp chứ chúng ta không tiêu diệt hoặc là không thay thế vì
nếu không có giai đoạn ấy thì bản chất cuộc sống không phát triển. Ví dụ
như nghề PR. PR là gì? PR là quảng bá, là xây dựng quan hệ xã hội, quan


hệ công chúng. Vậy thì lúc nào chẳng phải xây dựng, nhưng có một giai
đoạn công chúng ta không chuyên nghiệp. PR giai đoạn công chúng ta
không chuyên nghiệp khác với giai đoạn công chúng chuyên nghiệp.
PV: Như diễn tiến đang thấy người làm nghề tư vấn đang trong xu thế
“tách”. Vậy có quy luật tách và sáp nhập trong nghề tư vấn hay đó chỉ là
các cơ hội kinh doanh có tính ngẫu hứng?
NTB: Tôi không nhần lẫn giữa tách nhập doanh nghiệp với trạng thái li
khai của các cán bộ sáng lập ra các Công ty ban đầu. Cùng với sự trưởng
thành thì các cán bộ bắt đầu có sự làm chủ công việc thậm chí làm chủ thị
trường, làm chủ kinh nghiệm tổ chức. Họ li khai để lập ra doanh nghiệp
riêng. Nhân viên Công ty của tôi đã tách ra để thành lập doanh nghiệp riêng
chiếm khoảng 30% các Công ty tư vấn tại Việt Nam.
Sau đó tôi đã lý thuyết hóa hiện tượng đó là “sự tách bầy lành mạnh”.
Bây giờ, giả sử một tình huống ngược lại, tất cả mọi người làm nghề tư vấn

đều chạy về Công ty tôi thì có lẽ với tư cách cá nhân tôi có thể thích.
Nhưng với tư cách một người kinh doanh tỉnh táo thì tôi phải thấy rằng đấy
là tôi trở thành một thùng rác của sự tan rã một loại nghề nghiệp.
PV: Ông có nghĩ tới việc Việt Nam trở thành một “trường đào tạo” tư vấn
để chúng ta có thể xuất khẩu các chuyên gia tư vấn tới các quốc gia khác?


NTB: Đấy là một ý tưởng đẹp, nhưng chắc chắn là không thực hiện được.
Đẹp vì nó xuất phát từ việc yêu dân tộc, yêu con người Việt Nam và tin vào
khả năng của người Việt Nam. Nhưng không thể thành hiện thực vì thứ
nhất là liệu người Việt có đủ khả năng để tư vấn cho các dân tộc khác.
Trong rất nhiều nghiên cứu của tôi cũng đã nói “Bản chất của toàn cầu hóa
là sự dịch chuyển tự do các nguồn năng lực trong đó có năng lực con người.
Ở chỗ nào các nguồn năng lực của con người và các nguồn năng lực thuộc
về con người được bán một cách hợp lý và được sử dụng một cách có lợi
thì nó tự dịch chuyển”.
Thứ hai, phải nhớ rằng thị trường lao động có những thước đó riêng của nó.
Trong lần giao lưu với SV Luật có bạn trẻ nói với tôi rằng “Tôi sẽ không
làm việc tại Việt Nam, tôi sẽ du học và làm việc tại Mỹ” thì tôi trả lời với
bạn đó rằng “Đó là bạn nghĩ thế, bạn tưởng rằng nếu bạn học tại Trường
Havard thì họ sẽ nhận bạn vào làm, bạn tưởng họ sẽ mua những gì bạn đã
học được. Bạn nhầm, ngay cả những kiến thức bạn học ở trường nó có đáng
mua đi chăng nữa thì người ta cũng không mua vì bạn thiếu đủ thứ: thiếu
thói quen sống tại New York, thiếu hiểu biết về văn hóa Hoa Kỳ, thiếu hiểu
biết về nền tài chính Hoa Kỳ…”. Sự không tương thích về văn hóa và các
kinh nghiệm sống khác đôi lúc ngăn cản tính hiệu quả của các nguồn năng
lực.
PV: Liệu sắp tới sẽ có việc các đại gia nước ngoài mua lại thương hiệu các
Công ty tư vấn Việt Nam?



NTB: Ở nước ta bây giờ chưa có một Công ty nào đủ trình độ chuyên
nghiệp để họ mua cả. Cho nên tôi nghĩ chúng ta khoan hãy nghĩ đến điều đó
ở giai đoạn này.
PV: Đây là thời gian trong xã hội ngành nào cũng nói tới đạo đức vậy có
đạo đức nghề nghiệp của nghề tư vấn? Và nó được tính theo chuẩn mực
nào?
NTB: Tôi nghĩ rằng đạo đức là khái niệm hết sức mập mờ. Đôi khi chúng
ta nhầm lẫn đạo đức của một con người với với đạo đức nghề nghiệp của
người đó. Tôi xin lấy ví dụ: Rất nhiều luật sư bị lên án là "chạy án", tức là
không có đạo đức nghề nghiệp nhưng chỉ có điều anh "chạy" nhưng không
bắt chẹt. Anh giúp khách hàng xây dựng được các mối quan hệ để tìm được
sự cảm thông của các cơ quan chức năng đối với cảnh ngộ của từng người
một trong từng hoàn cảnh một. Như thế có vẻ có đạo đức trong một quốc
gia đang phát triển thì thay vì giữ gìn đạo đức nghề nghiệp thì chúng ta giữ
gìn đạo đức cá nhân, mặc dù không chuẩn xác nhưng điều đó Vẫn được
xem là dấu hiệu lành mạnh của một người làm nghề.
PV: Số liệu là một trong những thông tin quan trọng để hoạch định dự án.
Tuy nhiên, ở nước ta các số liệu rất thiếu chính xác, thiếu cập nhật. Vậy
tính chính xác của các dự án tư vấn sẽ như thế nào và nó có để lại các hậu
quả?


NTB: Những người tư vấn chưa có kinh nghiệm khi có số liệu thường hay
tuyệt đối hóa các kết luận của mình. Điều đó là sai, bởi vì khi bạn nói tới số
liệu là bạn nói tới khái niệm cực kỳ quan trọng về cả xã hội chứ không
riêng gì nghề tư vấn. Vậy thì ai có số liệu? Tính chính xác của số liệu ở đất
nước chúng ta như thế nào? Cho nên một người không hiểu rõ các quy luật
nội tại của các sự việc mà lại chứng minh các kết luận của mình bằng các
số liệu thì nhiều khi chết khách hàng. Phân tích dựa trên số liệu của một

nền kinh tế không chuyên nghiệp, một xã hội không chuyên nghiệp là một
việc làm vừa ngốc, vừa nguy hiểm. Tôi chỉ sử dụng số liệu như những điểm
thực nghiệm để "vẽ” ra một đường cong trên đồ thị Đường cong dạng fx ấy
đi qua các điểm này nhưng cái fx đó không phải là đường cong tự nhiên mà
là đường cong "sáng tạo” của tôi. Câu hỏi của bạn đã chạm tới một khái
niệm quan trọng tôi đã từng trả lời Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình
Việt Nam - đó là tính minh bạch. Minh bạch là một năng lực sống, là một
tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu để điều hành một xã hội, một nền kinh tế,
nhưng minh bạch chỉ dừng lại ở trạng thái mong muốn, ở trạng thái cho
phép thì chúng ta cũng không có xã hội minh bạch. Nó vừa là ý chí, vừa là
khát vọng và vừa là năng lực. Một nền kinh tế hay là một xã hội để minh
bạch còn là một vấn đề về năng lực.
PV: Hoạt động tư vấn luôn gắn với hoạt động lobby, ông có thể nói về
quan hệ giữa tư vấn và lobby như thế nào?


NTB: Lobby ở Việt Nam được hiểu gần giống như "chạy án". Thực tế,
lobby là cần thiết, rất nhiều người trong chúng ta đã nhầm lẫn giữa một
nghề với một hiện tượng vi phạm đạo đức hay một khía cạnh của đời sống
pháp lý. Cách đây 17 năm tôi đã đến gặp Thủ tướng Võ Văn Kiệt để nói với
Thủ tướng là "Thưa Thủ tướng, chúng ta nói là mở cửa nhưng nếu không
cho các văn phòng luật sư nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam, không
cho các Công ty kiểm toán đến Việt Nam, không cho các ngân hàng, cho
các Hãng bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam thì tức là chúng ta không mở
cửa". Đó là lobby, tôi trình bày các điều ấy với Thủ tướng đã vận động ủng
hộ cho các tư tưởng của tôi thì đó là lobby. Nhưng tôi không đút lót Thủ
tướng. Chính vì vậy tôi vẫn giữ được sự kính trọng đối với ông cho đến tận
bây giờ.




×