Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Quan điểm của Đảng và nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.84 KB, 28 trang )

CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ SỞ
1. Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành
lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện
mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và
nghóa vụ dân sự, tự chòu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số
vốn doanh nghiệp quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên
lãnh thổ Việt Nam.
Doanh nghiệp nhà nước có các đặc điểm sau :
- DNNN do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra quyết đònh thành lập,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước quy đònh.
- Tài sản DNNN thuộc sở hữu nhà nước, nhà nước là chủ sở hữu tài sản của doanh
nghiệp và thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp. Sự tách biệt giữa chủ
sở hữu doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh là đặc điểm cơ bản của DNNN.
- DNNN do Nhà nước thành lập, tổ chức quản lý do đó DNNN là đối tượng chòu sự
quản lý trực tiếp của nhà nước. Nhà nước tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, bổ
nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy hoạch phát triển.
- DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghóa vụ quân sự, tự chòu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trên cơ sở vốn điều lệ của doanh nghiệp.

1
2. Thực trạng về tình hình hoạt động của DNNN ở Việt Nam và sự cần thiết phải tổ
chức sắp xếp lại các DNNN
* Thực trạng về tình hình hoạt động của DNNN ở Việt Nam :
Các DNNN ở nước ta được thành lập kể từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp. Trong 9 năm kháng chiến, thực hiện chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc,
nhiều DNNN đã được xây dựng ở các ngành như : cơ khí, hóa chất, dệt … sau 1954 hòa
bình lập lại, khu vực DNNN phát triển nhanh chóng trong tất cả các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, dòch vụ. Giai đoạn 1961 - 1975 thực hiện đường lối công nghiệp hóa, khu
vực DNNN tiếp tục tăng cường và mở rộng.


Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước bằng việc cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh và đầu tư mới của ngân sách, số lượng các DNNN ngày
càng tăng nhanh, DNNN đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế, quốc phòng phục vụ
cho kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất
tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đònh hướng xã hội chủ nghóa (XHCN).
Các DNNN đã đóng vai trò chủ yếu trong việc sản xuất và cung ứng cho xã hội các tư
liệu sản xuất, sản phẩm tiêu dùng, dòch vụ và là lực lượng chủ đạo trong sản xuất hàng
xuất khẩu.
Song trước yêu cầu của giai đoạn mới, khi nền kinh tế chuyển sang phát triển theo
cơ chế thò trường, những mặt yếu kém của DNNN cũng bộc lộ rõ nét, nhất là tình trạng
hoạt động kém hiệu quả, thể hiện ở :
- Hiệu quả sử dụng thiết bò của DNNN còn rất thấp, theo Bộ khoa học công nghệ
và môi trường, hệ số sử dụng công suất máy móc thiết bò chỉ vào khoảng 30-50%, về thời
2
gian khoảng 80% tổng số máy móc thiết bò của nước ta chỉ được sử dụng 1 ca/ngày, 79%
thiết bò có hệ số sử dụng thời gian từ 0,2 trở lên.
- Mức tiêu hao năng lượng và nguyên liệu của hầu hết các DNNN là rất lớn, từ
50% trở lên, thậm chí quá cao so với mức bình quân của các nước đang phát triển, tiêu
hao vật chất lớn dẫn đến tỷ lệ chất thải cao, tác động tiêu cực không nhỏ đến tình trạng ô
nhiễm môi trường.
- Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp rất thấp và khả năng cạnh tranh
yếu, hàng hóa ứ đọng nhiều.
- Nhiều DNNN có hiệu quả kinh doanh rất thấp, có năm tỷ suất lợi nhuận còn
thấp hơn so với tỷ lệ lạm phát.
- Tình trạng mất và thất thoát lớn về vốn diễn ra hết sức nghiêm trọng :
Mặc dù cả nước hiện có hơn 5.600 DNNN với tổng số vốn khoảng 126.030 tỷ
đồng (không tính giá trò quyền sử dụng đất), nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của
khối doanh nghiệp này chưa mấy khả quan. Theo đánh giá chung của các cơ quan chức
năng, năm 2001 số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả chiếm 40%, DNNN kinh doanh
ở bậc trung là 31%, như vậy vẫn còn đến 29% DNNN liên tục thua lỗ tính đến cuối tháng

5 năm 2002, hoạt động sản xuất kinh doanh tại 258 DNNN do Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn quản lý gặp rất nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì tỷ
suất lợi nhuận trên vốn mới đạt 2%, số doanh nghiệp thua lỗ chiếm 34%, nhiều doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải thể.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là nhiều DNNN không gắn kế hoạch
sản xuất kinh doanh với đònh hướng của toàn ngành, việc lên kế hoạch không phù hợp
với mục tiêu, nhiệm vụ được giao và chưa xuất phát từ nhu cầu thò trường. Nhiều dự án
3
đầu tư không khả thi, hiệu quả đầu tư thấp, lãng phí tiền vốn, phát sinh tiêu cực, tham
nhũng. Nguyên nhân thứ hai là số vốn hiện có bình quân mỗi DNNN còn quá nhỏ.
3. Khái niệm, quan điểm của Đảng, Nhà nước về cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam
3.1. Khái niệm về cổ phần hóa :
Cổ phần hóa là việc chuyển hình thức sở hữu của một doanh nghiệp thành một
hình thức sở hữu mới. Quyền sở hữu của doanh nghiệp không còn tập trung vào tay một
người mà được chia ra cho nhiều người gọi là cổ đông. Các cổ đông chòu trách nhiệm với
doanh nghiệp về phần vốn góp của mình. Một doanh nghiệp có quá trình biến đổi như
vậy gọi là cổ phần hóa.
3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước :
Cổ phần hóa DNNN là một trong các nội dung cơ bản của quá trình đổi mới và
sắp xếp DNNN. Quá trình này là đòi hỏi khách quan để thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, trong đó có phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thò trường có sự quản lý của nhà nước, theo đònh hướng XHCN do Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra năm 1986. Chủ trương của Đại hội đối với kinh
tế quốc doanh là “phải đổi mới cơ chế quản lý, đảm bảo cho các đơn vò kinh tế quốc
doanh có quyền tự chủ, thật sự chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, lập lại trật tự,
kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ
thuật và đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả. Trên cơ sở đó, ổn đònh và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân
viên chức, tăng tích lũy cho xí nghiệp và cho nhà nước.
Quá trình đổi mới và sắp xếp DNNN bắt đầu thực hiện từ năm 1990, đã trải qua

nhiều giai đoạn và nhằm thực hiện bốn nội dung :
4
+ Đổi mới cơ chế chính sách.
+ Sắp xếp doanh nghiệp nhà nước.
+ Tổ chức lại công ty.
+ Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Chủ trương cổ phần hóa được chính thức đề cập đến trong hội nghò lần thứ hai Ban
chấp hành trung ương khóa VII, Nghò quyết của hội nghò xác đònh rõ: “chuyển một xí
nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc
doanh cổ phần mới. Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước
khi mở rộng phạm vi thích hợp”.
* Cổ phần hóa DNNN trong giai đoạn thí điểm
Thực hiện chủ trương của Đảng và Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã cụ thể hóa
các nghò quyết của Đảng và Quốc hội thành các văn bản pháp quy về vấn đề cổ phần
hóa. Trong giai đoạn thí điểm cổ phần hóa, văn bản pháp quy đầu tiên, quyết đònh số
143/HĐBT ngày 10/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng đã cụ thể hóa chủ trương của Đảng
và Quốc hội, xác đònh mục đích của cổ phần hóa xí nghiệp quốc doanh và quy đònh trình
tự chuyển đổi xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần. Việc cổ phần hóa trong giai
đoạn này chỉ dừng lại ở mức độ “tiến hành làm thử việc tổ chức lại bộ máy quản lý xí
nghiệp, chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần… trước mắt chỉ giới hạn một
số ít các xí nghiệp có đủ điều kiện và tiểu biểu”.
Trong giai đoạn này đã có một loạt các quyết đònh chỉ thò nhằm xúc tiến việc thực
hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và các vấn đề liên quan đến việc tiến
hành cổ phần hóa DNNN như : quyết đònh số 143/HĐBT ngày 10/5/1990, quyết đònh số
202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tòch Hội đồng Bộ trưởng.
5
* Cổ phần hóa DNNN trong giai đoạn chính thức
Giai đoạn cổ phần hóa DNNN chính thức bắt đầu sau khi Thủ tướng Chính phủ
thành lập Ban chỉ đạo trung ương đổi mới doanh nghiệp trực thuộc Thủ tướng chính phủ
(theo quyết đònh số 83/TTg ngày 04/03/1993). Luật doanh nghiệp nhà nước được quốc

hội thông qua ngày 20/4/1995. Đây là những cơ sở để tiến đến xây dựng các quy đònh về
cổ phần hóa DNNN một cách chi tiết và đẩy mạnh tiến trình này.
Ngày 7/5/1996, Chính phủ đã ra nghò đònh số 28/NĐ-CP về chuyển một số DNNN
thành công ty cổ phần. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên quy đònh tương đối đồng bộ và
chi tiết về vấn đề cổ phần hóa DNNN.
Trong quá trình thực hiện một số điểm của nghò đònh này đã được sửa đổi theo
nghò đònh số 25/NĐ-CP ngày 26/3/1997.
Để tiếp tục tiến hành việc cổ phần hóa DNNN, ngày 29/6/1998, Chính phủ đã ra
nghò đònh số 44/1998/NĐ-CP về chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Nghò đònh này ra
đời thay thế nghò đònh số 28/CP ngày 07/05/1996 và Nghò đònh số 25/CP ngày 26/3/1997
của Chính phủ. Đây là văn bản quy đònh cụ thể hơn về vấn đề cổ phần hóa trong tình
hình mới. Theo Nghò đònh này, mục tiêu cổ phần hóa được xác đònh rõ hơn. Tiếp đó,
Chính phủ ban hành nghò đònh số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển DNNN
thành công ty cổ phần. Nghò đònh này ra đời thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong
việc thúc đẩy cải cách DNNN nói chung và cổ phần hóa DNNN nói riêng. Ngoài ra còn
có một loạt các nghò đònh quyết đònh, thông tư của Nhà nước và các bộ, ngành được ban
6
hành nhằm quy đònh, hướng dẫn những vấn đề có liên quan đến việc tiến hành cổ phần
hóa DNNN.
4. Mục tiêu của cổ phần hóa và quy trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần
4.1. Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN
Mục tiêu thứ nhất là phải chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước
thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Như đã phân tích ở trên, hiện nay DNNN làm ăn rất kém hiệu quả. Đó vừa là
gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vừa là nguy cơ đối với nền tài chính quốc gia. Trong
nền kinh tế thò trường làm ăn kém hiệu quả dẫn đến nguy cơ phá sản, vì vậy mục tiêu
cao nhất cuối cùng của cổ phần hóa là phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, muốn vậy phải giải quyết vấn đề quyền sở hữu, tức là phải đa dạng hóa
quyền sở hữu, bán một bộ phận tài sản nhà nước cho các cổ đông.
Mục tiêu thứ hai là phải huy động được một khối lượng vốn nhất đònh ở trong và

ngoài nước để phát triển sản xuất kinh doanh : các DNNN đang thiếu vốn nghiêm trọng
để đầu tư phát triển, nhưng Nhà nước không thể liên tục cấp vốn cho một khu vực làm ăn
kém hiệu quả. Dân chúng không muốn cho DNNN vay nếu DNNN không cải tổ và có
phương pháp làm ăn tốt có sức thuyết phục. Còn nước ngoài chỉ có thể làm ăn với DNNN
thông qua các hình thức mua, thuê, liên doanh, mua cổ phần … Chính vì vậy muốn có vốn
để đầu tư cho phát triển, DNNN chỉ có thể huy động được thông qua hình thức bán cổ
phần.
7
Mục tiêu thứ ba của cổ phần hóa các DNNN là tạo điều kiện để người lao động
thực sự làm chủ doanh nghiệp : khi có vốn để mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành
viên trong hội đồng quản trò thì lúc đó người lao động mới có quyền thực sự. Hơn nữa,
với quyền mua cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông và hưởng lãi trên
vốn, thay vì thu nhập thông thường. Điều này làm cho nhân viên của công ty làm việc có
hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình.
4.2. Quy trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần
DNNN chuyển đổi thành công ty cổ phần được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1 : Chuẩn bò cổ phần hóa
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ (gọi tắt là các bộ), các ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các tổng công ty 91 lập danh sách DNNN
cổ phần hóa từng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và gửi cho các doanh nghiệp để
thực hiện. Các DNNN trong danh sách cổ phần hóa báo cáo dự kiến danh sách các thành
viên trong Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp lên bộ, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh,
Tổng công ty 91 để quyết đònh. Các bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Tổng công ty 91 quyết
đònh thành lập Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp thuộc quyền quản lý và quyết đònh
từng doanh nghiệp cổ phần hóa trong từng năm. Thành phần Ban quản lý tại doanh
nghiệp gồm : Giám đốc (hoặc Phó Giám đốc) làm trưởng ban, kế toán trưởng là ủy viên
thường trực và các thành viên khác. Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp có trách
nhiệm tuyên truyền, giải thích cho người lao động trong doanh nghiệp mình những chủ
trương chính sách của chính phủ để tổ chức thực hiện.
Bước 2 : Xây dựng phương án cổ phần hóa

8
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp tổ chức và kiểm kê tài sản, vật tư, tiền vốn,
công nợ của doanh nghiệp và dự kiến giá trò thực tế của doanh nghiệp, làm văn bản thỏa
thuận với Bộ tài chính. Bộ tài chính quyết đònh giá trò doanh nghiệp có mức vốn nhà
nước ghi trên sổ sách, kế toán đến thời điểm cổ phần hóa trên 10 tỷ đồng, nếu từ 10 tỷ
đồng trở xuống thì sẽ do Bộ, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, Tổng Công ty 91 quyết đònh.
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp lập phương án dự kiến cổ phần hóa doanh nghiệp
và dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty cổ phần.
Bước 3 : Phê duyệt và triển khai phương án cổ phần hóa
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án quyết đònh chuyển DNNN thành Công
ty cổ phần đối với DNNN có giá trò thuộc vốn nhà nước do cơ quan có thẩm quyền đã
quyết đònh là trên 10 tỷ đồng. Các Bộ, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quyết đònh chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước đã được quyết đònh
từ 10 tỷ đồng trở xuống. Tổng Công ty 91 báo cáo Bộ quản lý chuyên ngành kinh tế kỹ
thuật phê duyệt phương án cổ phần hóa và quyết đònh chuyển DNNN thành Công ty cổ
phần đối với các doanh nghiệp thành viên của Tổng Công ty 91 có vốn nhà nước đã được
quyết đònh từ 10 tỷ đồng trở xuống.
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp có trách nhiệm bán cổ phần của doanh
nghiệp cho các cổ đông, triệu tập đại hội cổ đông để thông qua điều lệ tổ chức và hoạt
động của công ty cổ phần.
Bước 4 : Ra mắt công ty cổ phần và đăng ký kinh doanh
Giám đốc, Kế toán trưởng DNNN bàn giao cho Hội đồng quản trò công ty cổ
phần : lao động, tiền vốn, tài sản, danh sách hồ sơ cổ đông và toàn bộ các hồ sơ tài liệu,
sổ sách của doanh nghiệp (trước sự chứng kiến của Ban đổi mới quản lý tại doanh
9
nghiệp và đại diện cơ quan quản lý vốn, tài sản nhà nước). Hội đồng quản trò công ty cổ
phần hoàn tất các công việc còn lại, đăng ký kinh doanh theo quy đònh hiện hành.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
NỀN TẢNG PHÁP LÝ CHO CỔ PHẦN HÓA

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
A. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM
I. Thực trạng của cổ phần hóa DNNN thời gian qua
1. Việc thực hiện chủ trương này qua các giai đoạn
Trong thời gian qua, số DNNN được cổ phần hóa qua từng năm có biến động và
tăng không nhiều, trung bình đạt khoảng 60% so với kế hoạch đặt ra. Tổng số DNNN đã
được cổ phần hóa chiếm gần 5% tổng số DNNN hiện có.
Để phân tích những thành công cũng như hạn chế của quá trình thực hiện cổ phần
hóa DNNN ở Việt Nam, chúng ta sẽ xem xét việc thực hiện chủ trương này qua các giai
đoạn như sau :
10
 Từ năm 1992 đến 6/1998 (trước khi có nghò đònh 44/1998/NĐ-CP).
Trong giai đoạn này cả nước đã cổ phần hóa được 30 DNNN, trong đó, 5 doanh
nghiệp được cổ phần hóa theo cơ chế, chính sách thí điểm quy đònh tại quyết đònh số
202/CT của Chủ tòch Hội đồng Bộ trưởng, 25 doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế
chính sách quy đònh tại nghò đònh 28/CP của Chính phủ.
Các DNNN cổ phần hóa trong giai đoạn này nhìn chung đều có những tiến bộ với
mức độ khác nhau về năng suất, chất lượng, hiệu quả. Việc thực hiện cổ phần hóa giúp
doanh nghiệp thu hút được một nguồn vốn nhất đònh trong cán bộ công nhân viên tại
doanh nghiệp và ngoài xã hội, tạo được động lực trong quản lý và phát huy tốt tính tích
cực, sáng tạo của người lao động. Doanh thu, lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách, tích
lũy vốn của doanh nghiệp và thu nhập của người lao động đều tăng. Việc làm của người
lao động được bảo đảm tốt hơn, đồng thời các biểu hiện tiêu cực trong doanh nghiệp
cũng giảm bớt.
Giai đoạn từ khi Chính phủ ban hành nghò đònh số 44/1998/NĐ-CP ngày 2/6/1998
đến ngày 31/12/1999. Trong giai đoạn này đã có thêm 340 DNNN và bộ phận DNNN được
chuyển thành công ty cổ phần. Riêng năm 1999 đã có 249 doanh nghiệp, gấp 8 lần so với 7
năm trước cộng lại. Như vậy về mặt số lượng, tốc độ cổ phần hóa sau khi có nghò đònh số
44/1998/NĐ-CP được đẩy mạnh, nhiều bộ, ngành, đòa phương, tổng công ty nhà nước đã
tích cực thực hiện và có những kết quả rất đáng khích lệ. Điển hình là tại Hà Nội, thành

phố Hồ Chí Minh, các tỉnh: Nam Đònh, Thanh Hóa, Bình Đònh, Lâm Đồng, Phú Thọ,
Tuyên Quang, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, các Bộ xây dựng, Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn, các tổng công ty hàng hải …
11
Một số bộ, đòa phương và Tổng công ty 91 đã có những chỉ đạo nhưng kết quả đạt
được trong công tác cổ phần hóa còn rất hạn chế. Bộ công nghiệp, Bộ thủy sản, các tỉnh
Cần Thơ, Khánh Hòa, Quảng Bình, Vónh Phúc, Tổng công ty hóa chất, Tổng công ty thép
là những ngành, đòa phương có tốc độ cổ phần hóa chậm.
Đến hết năm 1999 vẫn còn 6/13 bộ, 7/17 Tổng công ty 91 và 21/61 tỉnh chưa có
DNNN nào được chuyển đổi sang công ty cổ phần. Đó là các bộ : y tế, giáo dục và đào
tạo, khoa học, công nghệ và môi trường, văn hóa - thông tin, ngân hàng nhà nước Việt
Nam, trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia, các tỉnh Lạng Sơn, Lai Châu,
Sơn La, Yên Bái, Bắc Cạn, Hưng Yên, Thái Bình …
Nhìn chung, sau khi có nghò đònh số 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ, cổ phần hóa
DNNN đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Nhận thức và hành động của các Bộ, ngành,
đòa phương có chuyển biến hơn. Nghò đònh số 44/1998/NĐ-CP đã quy đònh các chính sách
khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa
một cách rõ ràng, cụ thể hơn, có sự quan tâm hơn đến quyền lợi của người lao động, đặc
biệt chú ý tới người lao động nghèo theo tinh thần thông báo số 63/TB-TW ngày
4/9/1999 của Bộ chính trò. Điều đó khiến chủ trương cổ phần hóa trở nên hấp dẫn hơn đối
với doanh nghiệp cũng như đối với người lao động trong doanh nghiệp và các đối tượng
trong xã hội.
 Giai đoạn từ tháng 01/2000 đến cuối tháng 11/2002.
Trong hai năm 2000 – 2002, cả nước đã cổ phần hóa được 523 doanh nghiệp, đưa
tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa lên 907 đơn vò, chỉ riêng năm 2002 có 427
DNNN được sắp xếp lại, trong đó có 164 DNNN được cổ phần hóa, giao 34 doanh
nghiệp, bán 17 doanh nghiệp, khoán kinh doanh và cho thuê 8 doanh nghiệp, sát nhập 83
12
doanh nghiệp, hợp nhất 44 doanh nghiệp, giải thể 27 và phá sản 2 doanh nghiệp. Có 48
DNNN được sắp xếp theo các hình thức khác.

Năm 2003 có 766 doanh nghiệp được sắp xếp lại (bằng 48% so với kế hoạch).
Trong đó có 425 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hóa, giao 48
doanh nghiệp, bán 20 doanh nghiệp, khoán kinh doanh 7 doanh nghiệp, sát nhập 116
doanh nghiệp, hợp nhất 46 doanh nghiệp, giải thể 44 doanh nghiệp, phá sản 5 doanh
nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác là 55 doanh nghiệp.
Như vậy có thể thấy càng về sau, tốc độ cổ phần hóa các DNNN càng được đẩy
mạnh. Hơn nữa, càng về sau quy mô của các DNNN được cổ phần hóa hoặc chuyển đổi
dưới hình thức khác càng lớn hơn. Trước năm 2003, số DNNN cổ phần hóa có vốn trên
10 tỷ chỉ chiếm 7,9% thì năm 2003 là 15%. Điều này càng chứng tỏ sự kiên quyết cũng
như tính nhất quán trong việc thực hiện chủ trương sắp xếp lại các DNNN của Đảng và
Nhà nước.
2. Tác động của cổ phần hóa đối với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp cổ phần hóa
Bên cạnh những kết quả về mặt số lượng như đã đề cập ở trên, việc thực hiện chủ
trương cổ phần hóa DNNN còn đem lại hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế, xã hội.
Những kết quả này được thể hiện trong một số đánh giá tổng quát sau: báo cáo của 500
doanh nghiệp cổ phần hóa, hiệu quả sản xuất kinh doanh chuyển biến tích cực. Xét trên
tổng thể, các chỉ tiêu chủ yếu tăng, cụ thể, vốn điều lệ tăng 5-100%, doanh thu tăng
60%, lợi nhuận trước thuế tăng 13%, cổ tức trung bình đạt 15,5%.
- Về hiệu quả sản xuất :
13
Phần lớn các DNNN sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu
quả hơn trước. Xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích lũy
vốn. Qua báo cáo hoạt động của các doanh nghiệp có thời gian hoạt động trên 1 năm, kể
cả những doanh nghiệp trước đó bò thua lỗ, thì doanh thu bình quân của doanh nghiệp
tăng gấp hai lần so với trước khi thực hiện cổ phần hóa, điển hình là Công ty cổ phần cơ
điện lạnh. Năm 1999, công ty này đạt 178 tỷ đồng, tăng gần gấp 4 lần so với doanh thu
trước khi thực hiện cổ phần hóa là 46 tỷ đồng. Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết năm
1999 đạt 86 tỷ đồng gấp 1,5 lần so với doanh thu trước khi thực hiện cổ phần hóa là 55 tỷ
đồng năm 1998. Lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng bình quân hơn 2 lần, cổ tức bình

quân đạt từ 1 - 2%/ tháng. Vốn của các doanh nghiệp tăng gần 2,5 lần so với trước khi cổ
phần hóa (bao gồm cả tích lũy từ lợi nhuận và thu hút thêm vốn đầu tư từ bên ngoài).
Nổi bật nhất là Công ty Cổ phần Chế biến hàng xuất khẩu Long An có số vốn tăng 5 lần,
Công ty Cổ phần Việt Phong (VIFOCO) có số vốn tăng 2,4 lần. Các doanh nghiệp nộp
ngân sách bình quân, tăng 2 lần so với trước khi cổ phần hóa, điển hình là Công ty Cổ
phần cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh tăng gần 3 lần, Công ty Cổ phần bông Bạch
Tuyết Thành phố Hồ Chí Minh tăng 2,7 lần. Nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa là những Công ty cổ phần đầu tiên được
niêm yết trên thò trường chứng khoán ở Việt Nam. Điều này không ngừng nâng cao uy
tín và vò thế của các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa trên thương trường, mà
còn chứng minh tính đúng đắn của chủ trương cổ phần hóa DNNN như một biện pháp
quan trọng để thực hiện sắp xếp lại các DNNN ở nước ta.
- Việc làm và thu nhập cho người lao động :
Hầu hết trong các DNNN được cổ phần hóa, việc làm và thu nhập của người lao
động đều được đảm bảo ổn đònh và có chiều hướng tăng lên. Số lao động của doanh
14
nghiệp trở thành cổ đông khá đông. Trong đó DNNN cổ phần hóa trong năm 2003, 58%
cổ phần do những người lao động trong DNNN trước cổ phần hóa nắm giữ. Chế độ của
người lao động được quan tâm giải quyết thỏa đáng. Tính đến 30/10/2003 quỹ hỗ trợ lao
động dôi dư đã cấp 409,63 tỷ đồng, hỗ trợ cho 387 doanh nghiệp, giải quyết 14.597 lao
động dôi dư.
Do mở rộng sản xuất, số lao động ở các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hóa
tăng bình quân 12%. Riêng công ty cổ phần cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh tăng từ
334 người lên 731 người, Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng từ 900
người lên 1.280 người.
Thu nhập bình quân của người lao động làm việc trong các công ty cổ phần bình
quân hàng năm gần 20% (chưa kể thu nhập có được từ cổ tức), điển hình là công ty cổ
phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp này
đã đạt 4 triệu đồng/người/tháng trong năm 1999, bằng gần 3 lần so với 1,4 triệu đồng
trước khi cổ phần hóa.

Với cơ chế quản lý mới, người lao động được coi là chủ nhân thực sự trong công ty
cổ phần. Nhờ đó, họ đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết
kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho công ty, cho nhà nước
và xã hội.
- Về huy động vốn :
Việc thực hiện cổ phần hóa DNNN đã cho phép các doanh nghiệp thu hút được
một lượng lớn nguồn vốn trong xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất. Chỉ tính riêng 370
DNNN được cổ phần hóa tính đến hết ngày 31/12/1999, tại thời điểm cổ phần hóa, giá trò
15
phần vốn nhà nước của các doanh nghiệp này là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện cổ phần
hóa đã thu hút thêm 1.432 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế khác đầu tư vào các công ty cổ phần. Đồng thời nhà nước cũng thu lại được 714
tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách đối với DNNN
thực hiện cổ phần hóa.
Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa khi xác đònh lại nhìn chung
đều tăng lên từ 10 - 15% so với vấn đề ghi trên sổ sách. Chỉ tính riêng 30 doanh nghiệp
đã cổ phần hóa của Hà Nội cuối năm 1998, giá trò phần vốn Nhà nước là 80,8 tỷ đồng,
tăng thêm 1,5 tỷ đồng so với giá trò ghi trên sổ sách kế toán, thành phố Hồ Chí Minh sau
khi đánh giá lại 10 doanh nghiệp cổ phần hóa, giá trò lên tới 80 tỷ đồng, tăng thêm 34 tỷ
đồng. Tỉnh Nam Đònh sau khi đánh giá lại giá trò của 22 doanh nghiệp để cổ phần hóa
cũng đã tăng thêm 1,7 tỷ đồng. Như vậy khi thực hiện cổ phần hóa, vốn nhà nước không
những không mất đi mà ngược lại được bảo toàn và tăng thêm, vốn nhàn rỗi ngoài xã hội
được huy động thêm vào doanh nghiệp, góp phần đổi mới công nghệ của từng doanh
nghiệp cổ phần hóa.
Các DNNN ở Bình Đònh cũng đã làm ăn có hiệu quả hơn sau khi cổ phần hóa,
trong số 65 DNNN ở Bình Đònh được cơ cấu lại và chuyển đổi có 15 công ty cổ phần,
doanh thu bình quân của các doanh nghiệp cổ phần hóa này tăng 65%, nộp ngân sách
tăng 2,41 lần, thu nhập bình quân của người lao động tăng 6,76 lần, vốn của các doanh
nghiệp cổ phần hóa và sắp xếp lại tăng so với trước cổ phần hóa.

Công ty Sacom trong năm 2003 bất chấp khó khăn do thuế nhập khẩu giảm và
doanh nghiệp phải cạnh tranh khốc liệt nhưng doanh thu vẫn đạt 325 tỷ đồng, lợi nhuận
sau thuế là 60 tỷ vượt 14% so với kế hoạch.
16
Tóm lại, cổ phần hóa đã đem lại lợi ích cho nhà nước, cho doanh nghiệp, người
lao động trong doanh nghiệp và cả trong các cổ đông khác của doanh nghiệp. Thực tế đó
đã chứng minh rằng, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hóa DNNN hoàn
toàn đúng đắn.
Tiến trình cổ phần hóa đã tạo ra một số lượng khá lớn công ty cổ phần. Đến thời
điểm hiện nay đã có gần 1000 công ty cổ phần được hình thành trên nền của các DNNN
cổ phần hóa. Những công ty cổ phần này có tiềm lực lớn hơn các công ty cổ phần được
các thành phần kinh tế lập ra. Phần lớn các công ty cổ phần này là doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Sự xuất hiện của các công ty cổ phần có tiềm lực kinh tế lớn sẽ làm thay đổi ảnh
hưởng của thò trường chứng khoán đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự tăng trưởng
nhanh của các chứng khoán niêm yết tại trung tâm giao dòch chứng khoán TP.HCM trong
gần hai năm qua cho thấy tác động của cổ phần hóa DNNN đối với sự phát triển của thò
trường chứng khoán.
Việc cổ phần hóa có hiệu ứng khá rõ nét đối với việc thành lập mới DNNN, tình
trạng thành lập DNNN tràn lan đã được chấm dứt. Trong ba năm từ 2001 - 2003, cả nước
chỉ thành lập mới 59 DNNN, hầu hết tập trung vào lónh vực dầu khí, năng lượng nguyên
tử, sản xuất cơ khí hoặc hoạt động công ích.
Trong số DNNN đã cổ phần hóa trong giai đoạn này thì bình quân nhà nước sở
hữu 38% vốn điều lệ, cán bộ công nhân viên chức của các doanh nghiệp này mua 51%,
còn 8% là cổ đông bên ngoài. Số DNNN có cổ phần chi phối của nhà nước chỉ chiếm
26% tổng số DNNN đã cổ phần hóa. Nhiều DNNN cổ phần hóa đã đổi mới được công
nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tính cạnh tranh.
II. Những hạn chế của cổ phần hóa DNNN và nguyên nhân
17
Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần
hóa DNNN ở nước ta cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế.

- Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa là tiến bộ cổ phần
hóa còn chậm. Những số liệu đã được đề cập cho thấy việc thực hiện cổ phần hóa luôn
thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Theo dự kiến, trong 3 năm từ 2000 - 2002 sẽ tiến hành cổ phần
hóa 1.056 DNNN, tuy nhiên đến tháng 12/2002, chúng ta mới chỉ thực hiện cổ phần hóa
được 523 doanh nghiệp, tức là chỉ bằng gần 50% so với dự kiến. Trong năm 2002 chỉ
thực hiện cổ phần hóa được 120 doanh nghiệp, trong khi con số đề ra là 374 doanh
nghiệp. Trong ngành thương mại, năm 1998 Bộ thương mại đặt kế hoạch cổ phần hóa 7
doanh nghiệp, kết quả chỉ cổ phần hóa được 1 doanh nghiệp. Kế hoạch năm 1999 là cổ
phần hóa 12 doanh nghiệp, song thực tế chỉ đạt được 5 doanh nghiệp, năm 2000 cổ phần
hóa 8 doanh nghiệp trong khi kế hoạch cổ phần hóa là 19 doanh nghiệp. Năm 2001 cổ
phần hóa được 5 doanh nghiệp so với kế hoạch đề ra là 19. Trong năm 2002 thậm chí chỉ
có 4 doanh nghiệp cổ phần hóa thành công.
- Xét về cơ cấu các doanh nghiệp được cổ phần hóa, việc cổ phần hóa chưa được
thực hiện đều khắp trong tất cả các lónh vực. Cụ thể là các doanh nghiệp được cổ phần
hóa chủ yếu là thuộc ngành công nghiệp, thương mại và xây dựng, số lượng doanh
nghiệp cổ phần trong các lónh vực khác rất ít. Do số lượng doanh nghiệp được cổ phần
hóa không cao, hơn nữa các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên
90% Công ty cổ phần có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng, trong đó khoảng trên 75% có
vốn dưới 5 tỷ đồng. Mặt khác Nhà nước vẫn còn giữ lại một tỷ lệ đáng kể cổ phần của
mình trong các Công ty cổ phần, nên việc cổ phần hóa nhìn chung chưa có tác dụng đáng
kể đến việc cơ cấu lại vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp. Về cơ bản, chỉ có những
DNNN vừa và nhỏ được cổ phần hóa. Các DNNN quy mô lớn và các tổng Công ty hầu
18
như chưa được đề cập. Chính vì vậy, các Công ty cổ phần hình thành trên nên DNNN cổ
phần hóa chủ yếu là Công ty cổ phần quy mô nhỏ.

Năm 1999 2000 2001 2002 2003
Tổng số doanh nghiệp
đã cổ phần hóa
370 250 288 242 213

Quy mô dưới 10 tỷ 327 224 244 181 172
89% 90% 86% 78% 81%
Quy mô trên 10 tỷ 43 26 44 55 41
11% 10% 14% 22% 19%
Các phương án cải cách chỉ mới tập trung vào việc thu gọn đầu mối, khi cổ phần
hóa những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, nhiều doanh nghiệp 100% vốn
của Nhà nước vẫn hoạt động trong những đòa bàn không thật sự cần thiết, trong lúc đó,
nhiều Tổng công ty quy mô còn nhỏ, mức nộp ngân sách thấp, vai trò mờ nhạt.
Một số doanh nghiệp cổ phần hóa mới chỉ tập trung vào tiết kiệm chi phí, giảm
giá thành để tăng lợi nhuận, chia cổ tức trong khi chưa chú trọng đến những vấn đề có
ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của doanh nghiệp là thực hiện đổi mới công nghệ đầu
tư vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh.
Việc thực hiện chính sách đối với người lao động có những bất cập thực tế là
nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao động,
không lo việc làm cho họ. Ngược lại, ở một số đơn vò làm ăn có hiệu quả, có phúc lợi để
giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì người lao động không muốn
nghỉ theo chế độ. Chính vì vậy, tỷ lệ người lao động được giải quyết nghỉ theo chế độ sau
khi DNNN chuyển sang Công ty cổ phần vẫn còn rất thấp so với số lượng cần phải giải
quyết. Trong số doanh nghiệp đã cổ phần hóa, đặc biệt là những doanh nghiệp có những
19
lợi thế về vò trí đòa lý đã xuất hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách mua lại
những cổ phần mà những người lao động trong các doanh nghiệp đã được mua với giá ưu
đãi. Người lao động do chưa có ý thức được ý nghóa của việc sở hữu cổ phần trong doanh
nghiệp, đồng thời cũng không nắm được giá trò thực của cổ phần mà mình sở hữu, nên đã
bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch. Điều này không những
gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân những người lao động, mà còn ảnh hưởng đến
một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hóa là tạo động lực quản lý cho doanh
nghiệp khi người lao động trong doanh nghiệp thực sự là người chủ.
Công tác tuyên truyền, vận động vẫn còn bò xem nhẹ nên chưa tạo ra được sự
quan tâm, hưởng ứng tích cực của xã hội đối với chủ trương cổ phần hóa. Tỷ lệ bán cổ

phần ra xã hội còn rất thấp và chưa thành quy đònh bắt buộc. Ngược lại, pháp luật còn
khống chế tỷ lệ tối đa được mua cổ phần. Các đối tượng là cán bộ quản lý chỉ được mua
cổ phiếu ưu đãi ở mức bình quân cổ phần ưu đãi trong doanh nghiệp cổ phần hóa.
Thủ tục xác đònh giá trò của doanh nghiệp nói chung còn rườm rà, thường là phải
kéo dài, đặc biệt đối với các doanh nghiệp thuộc các Bộ và Tổng Công ty 91.
Với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu DNNN chủ yếu, việc cổ phần hóa
chậm đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lại DNNN ở nước ta. Tiến độ cổ phần
hóa chậm so với kế hoạch đặt ra.
B. NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TRONG THỜI GIAN TỚI:
1. Phải đảm bảo tính chính xác trong việc xác đònh giá trò còn lại của các DNNN
Cho đến nay, việc xác đònh chính xác giá trò còn lại của các DNNN trong quá trình
cổ phần hóa vẫn hết sức phức tạp và khó khăn không chỉ đối với các doanh nghiệp trong
20
nước mà ngay cả với các nước phát triển. Nhiều trường hợp đã chứng minh rằng, vì
không xác đònh chính xác những yếu tố cấu thành giá trò của doanh nghiệp, đặc biệt
thường bỏ qua yếu tố quan trọng là giá trò quyền sử dụng đất nên Nhà nước đã phát hành
cổ phiếu lần đầu với giá không hợp lý hoặc xác đònh giá trò quá cao làm mất tính hấp
dẫn của doanh nghiệp hoặc xác đònh quá thấp dẫn đến Nhà nước phải thua thiệt.
Do vậy giá trò còn lại của doanh nghiệp phải được xác đònh chính xác bằng các
phương pháp khoa học và phải phù hợp với tình hình thực tế, gắn với quy luật của kinh tế
thò trường thông qua hình thức đấu thầu theo lô trên thò trường chứng khoán.
Hiện nay các kỹ thuật đònh giá tài sản vẫn còn lạc hậu, chưa phù hợp với sự đa
dạng của các loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cơ chế đònh giá vẫn còn nhiều bất
cập, mang nhiều cảm tình, chủ yếu chỉ sử dụng phương pháp kiểm kê và từ đó tính giá trò
tài sản ròng bằng công thức:
Tổng tài sản = (nợ phải thu + vốn) – (nợ phải trả + quỹ khen thưởng, phúc lợi)
Thực tế, giá còn lại của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào tài sản cố đònh của
doanh nghiệp đó, mà còn phụ thuộc vào một số yếu tố vô hình khác như: vò trí, uy tín,
thương hiệu, doanh thu

2. Đảm bảo không làm thất thoát tài sản, gây ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh
doanh và làm giảm thu nhập của người lao động
Đònh hướng này có vai trò đặc biệt quan trọng đối với DNNN khi tiến hành cổ
phần hóa, bởi trong DNNN mọi tài sản đều thuộc sở hữu toàn dân, trừ quỹ phúc lợi là
khoản thu nhập không chia mà được để lại dành cho người lao động trong doanh nghiệp.
Trong thực tế, vốn tự có của DNNN tạo ra từ 2 nguồn: một phần từ lợi nhuận thu được
của doanh nghiệp và một phần đã trích khấu hao cơ bản tài sản cố đònh của doanh
21
nghiệp được Nhà nước cho phép giữ lại để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Do đó, số vốn
này thuộc về Nhà nước và nó trở thành vốn cổ phần khi DNNN chuyển sang hình thái
Công ty cổ phần.
3. Xác lập cơ chế pháp lý hấp dẫn đối với người lao động
Thực tế cho thấy, người lao động là một trong những nhân tố quyết đònh sự thành
công của quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta. Do đó, cần có một cơ chế đủ sức hấp
dẫn đối với người lao động để họ không có sự lo ngại về việc làm, thu nhập, quyền lợi
của họ. Theo Nghò đònh số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ, tại
các điều 13, 14 quy đònh rõ quyền lợi của người lao động như: cứ mỗi năm làm việc,
người lao động được quyền mua 10 cổ phần thấp hơn 30% mệnh giá, ngoài ra còn được
chia quỹ phúc lợi để mua cổ phần. Người lao động không có sẵn tiền thì được mua khống
(được tài trợ với ân hạn 3 năm) số cổ phần giá thấp theo tiêu chuẩn, được hưởng cổ tức,
và trả nợ trong vòng 10 năm kể từ năm thứ 4 trở đi với lãi suất = 0
4. Đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo và thực hiện cổ phần hóa
Quá trình cổ phần hóa phải được thực hiện theo sự chỉ đạo chung, thống nhất,
tránh tình trạng không công bằng giữa các DNNN cũng như gây ra các tổn thất lãng phí
cho Nhà nước và doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hóa trong thời gian qua cho thấy, bộ
máy chỉ đạo công tác cổ phần hóa hiện nay chưa đủ mạnh, nhiều cán bộ còn thiếu hiểu
biết về nền kinh tế thò trường nói chung và cổ phần hóa nói riêng. Trong quá trình thực
hiện, các bộ, ngành và đòa phương cũng chưa quan tâm đúng mức đến công tác cổ phần
hóa, chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện nên gây ảnh hưởng
không nhỏ đến tiến trình cổ phần hóa.

5. Xác đònh đối tượng cổ phần hóa và hình thức cổ phần hóa:
22
Việc xác đònh đối tượng cổ phần hóa và hình thức cổ phần hóa phải đảm bảo thực
hiện mục tiêu cổ phần hóa mà không làm ảnh hưởng đến chiến lược phát triển chung của
đất nùc cũng như doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra là lựa chọn doanh nghiệp nào, toàn bộ hay chỉ một hoặc một vài bộ
phận của doanh nghiệp để cổ phần hóa? Lựa chọn hình thức cổ phấn hóa như thế nào
cho phù hợp với mục tiêu đặt ra? Khi lựa chọn DNNN và hình thức cổ phần hóa phải tính
đến một số các yếu tố:
- Thứ nhất: Phải tính đến khả năng thực thi của phương án cổ phần hóa để tránh
những tổn phí không đáng có. Tức là xem xét khả năng tham gia của các cá nhân và tổ
chức vào Công ty cổ phần.
- Thứ hai: Tình hình sản xuất - kinh doanh của DNNN sau khi cổ phần hóa có khả
năng tiến triển hơn hay không.
- Thứ ba: Trong trườnghợp tách bộ phận DNNN để cổ phần hóa cần xem xẹt đến
chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước, của doanh nghiệp về các mặt: quy mô,
tổ chức, thò trường, sản phẩm và mối quan hệ giữa các doanh nghiệp cổ phần hóa với các
chiến lược phát triển đó.
6. Lành mạnh hóa tình hình tài chính của DNNN trước khi tiến hành cổ phần hóa
Hiện nay, theo ước tính, hàng năm, nợ phải trả trong các DNNN chiếm khoảng
45% nợ phải thu khoảng 352 so với tổng doanh thu của khối doanh nghiệp này. Song
việc xử lý nợ trong thực tế vẫn là vấn đề nhức nhối do những quy đònh về trách nhiệm
chưa thật cụ thể. Trong khi đó đối với các nhà đầu tư thì tình hình tài chính của DNNN
tiến hành cổ phần hóa luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu trước khi họ quyết đònh mua cổ
phần của doanh nghiệp đó. Do vậy, để thực hiện cổ phần hóa DNNN đạt kết quả cao,
23
trước khi cổ phần hóa phải xử lý dứt điểm những vướng mắc tài chính còn tồn đọng trong
doanh nghiệp.
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Hoàn thiện bộ máy và tổ chức chỉ đạo
Hoàn thiện bộ máy và tổ chức chỉ đạo, đồng thời tăng cường công tác tuyên
truyền giáo dục cho mọi người dân, nhất là người lao động trong các DNNN thuộc diện
chuyển đổi sở hữu về ý nghóa, mục đích, sự cần thiết của cổ phần hóa để họ quán triệt
sâu sắc chủ trương, chính sách và giải pháp đổi mới DNNN.
Trong thời gian tới không ngừng chấn chỉnh và hoàn thiện tổ chức bộ máy Ban đổi
mới quản lý doanh nghiệp từ trung ương đến các bộ, ngành tỉnh, thành phố. Nâng cao
trách nhiệm của bộ, ngành và đòa phương trong công tác sắp xếp và tiến hành cổ phần
24
hóa DNNN trong thời gian tới, có chương trình kế hoạch cụ thể và phải tập trung chỉ đạo
quyết liệt nhằm đảm bảo thực hiện theo đúng kế hoạch đề ra.
Song song với việc kiện toàn và tổ chức chỉ đạo, cần tăng cường, đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến đến từng người dân và cán bộ, công nhân viên ở các
DNNN nhằm cho mọi người hiểu rõ mục tiêu, ý nghóa, yêu cầu của việc sắp xếp lại
DNNN nói chung và cổ phần hóa nói riêng.
Có nhiều biện pháp tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến như :
- Trước hết cần phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng như: đài
phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí
- Bên cạnh đó mở rộng các hình thức tuyên truyền khác như: tổ chức hội thảo
khoa học giữa các nhà kinh tế với các nhà quản lý phát huy vai trò của các tổ chức
quần chúng.
Khi thực hiện công tác phổ biến tuyên truyền chủ trương cổ phần hóa cần chú ý tới
một số vấn đề cơ bản sau :
- Xác đònh những nội dung thiết thực của công tác cổ phần hóa DNNN.
- Thực hiện đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, xã hội hóa công tác tuyên
truyền.
- Công tác phổ biến, tuyên truyền về chủ trương cổ phần hóa cần được thực hiện
một cách thường xuyên trong suốt quá trình cổ phần hóa.
2. Áp dụng đồng bộ các giải pháp về tài chính, tín dụng, tích cực giải quyết các

khoản nợ của DNNN trước khi thực hiện cổ phần hóa
25

×