Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chủ chốt part5 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.55 KB, 8 trang )


Trang 33
với DNNN: có một bước đổi mới lớn dựa trên cơ sở phân
công, phân cấp giữa chính phủ và các cấp quản lý với đại
diện chủ sở hữu ở Doanh nghiệp.
Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách đã hình thành
được khung pháp lý tương đối rõ ràng và cơ bản để DNNN
sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, xác lập dân quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã được sử dụng hiệu
qủ hơn tiền vốn và tài sản, nâng cao chất lượng sản phẩm,
sức cạnh tranh và ổn định việc làm cho người lao động.
Kết quả hoạt động của các DNNN sau các chính sách đổi
mới đó được thể hiện qua những con số sau: thời kỳ 1991 –
1995, tốc độ tăng trưởng của các DNNN bình quân theo
GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung của
nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
ngoài quốc doanh. Từ 1990 đến nay do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới cùng những thiên
tai liên tiếp xảy ra thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
giảm dần, DNNN cũng nằm trong tình trạng đó, tỷ trọng
tổng sản phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991
lên 40,07% năm 1996 và 41,23% năm 1998. Tỷ lệ nộp vốn

Trang 34
ngân sách trên vốn nhà nước năm 1993 là 6,8% và năm
1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2%
GDP trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đóng góp 39,25%
ngân sách Nhà nước. Từ 1995 đến nay, hằng năm DNNN
đóng góp từ 26 – 28% nguồn thu thuế nội địa.
Từ thập niên 90 trở lại đây, Nhà nước đã sắp xếp, tổ


chức, củng cố và phát triển các DNNN, các tổng công ty
Nhà nước: Chính phủ đã liên tục chỉ đạo và thực hiện sắp
xếp lớn các DNNN đó là đợt 2 (1990 – 1993), đợt 2 (1994 –
1997), đợt 3 (1998 – 1999), qua mỗi đợt sắp xếp đó là các
DNNN đã có sự đổi mới về quy mô, về cơ cấu tổ chức quản
lý bằng cách sát nhập, giải thể phá sản các doanh nghiệp yếu
kém, làm ăn thua lỗ kéo dài, chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành các công ty cổ phần hoặc giao, bán, khoán, cho thuê
DNNN có quy mô nhỏ. Kết quả sau 3 đợt sắp xếp đổi mới
đó là hiệu quả hoạt động của các DNNN tăng lên, mặc dù số
DN giảm xuống rất nhiều từ 12000 doanh nghiệp (năm
1990) xuống còn 5280 doanh nghiệp (năm 2000).
Hiện nay có 17 tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90
đang hoạt động, các tổng công ty này được tập trung xây
dựng hầu hết trong tất cả các lĩnh vực kinh tế của đất nước.

Trang 35
Các tổng công ty nhà nước có 1605 DN thành viên, chiếm
28,4% tổng số doanh nghiệp nhà nước, 65% vốn nhà nước
và 61% lao động. Năm 2000, các tổng công ty đã cung cấp
cho nền kinh tế quốc dân 98% sản lượng điện, 97% sản
lượng than, 54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng thép,
các ngân hàng thương mại giữ 70% thị phần vốn vay.
Một bộ phận DNNN đã được cổ phần hoá mà Nhà nước
không cần nắm giữ 100% vốn và DNNN đầu tư một phần
vốn để thành lập mới công ty cổ phần. Tính đến năm 2001,
cả nước đã cổ phần hoá được 529 DN và 102 bộ phận DN
bằng 11% tổng số doanh nghiệp hiện có so với tổng số vốn
Nhà nước khi đánh giá lại khi cổ phần hoá các doanh nghiệp
là 2714 tỷ đồng bằng 1,97% tổng số vốn Nhà nước trong các

DNNN. Sau một thời gian hoạt động, phần vốn nhà nước ở
các công ty cổ phần đã tăng được giá trị tuyệt đối, theo báo
cáo của 202 DN đã cổ phần hoá được trên 1 năm, phần vốn
Nhà nước không những được bảo toàn mà còn tăng thêm
65.420 tỷ đồng bằng nguồn lợi nhuận để lại; doanh thu tăng
1,4 lần, lợi nhuận tăng gấp 2 lần, nộp ngân sách tăng 1,2
lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng công
nhân viên tăng 5,1% và không có doanh nghiệp cổ phần nào
lâm vào tình trạng phá sản. Những kết quả đạt được đó đã

Trang 36
chứng tỏ rằng chính sách cổ phần hoá các DNNN là một
chính sách đúng đắn và đã phát huy được những tính tích
cực của DNNN, tạo cơ hội cho DNNN thực sự hoạt động
trong cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với mọi DN
khác.
Thực hiện chính sách giao, bán, khoán kinh doanh, cho
thuê những DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài – Đó là
những doanh nghiệp nhỏ có vốn dưới 1 tỷ đồng, kinh doanh
thua lỗ kéo dài mà không cần thiết duy trì sở hữu Nhà nước,
cần áp dụng các hình thức xử lý thích hợp như: sát nhập, đấu
thầu công khai, cho thuê, khoán kinh doanh hoặc bán, giao
cho tập thể cán bộ, công nhân với điều kiện đảm bảo công
ăn việc làm cho người lao động và thực hiện luật pháp của
nhà nước. Theo nghị quyết hội nghị TW lần thứ tư (Khoá
VIII) đã nêu trên, đến thực hiện, tình hình sản xuất kinh
doanh của các DN này khá lên rõ rệt: so với trước khi
chuyển đổi vốn kinh doanh tăng 67,3% , doanh thu tăng
42,5%, nộp ngân sách nhà nước tăng 44,5% lao động tăng
12,8%, thu nhập bình quân đầu người bằng 38,7%, một số

còn tích luỹ thêm và đã mở rộng được sản xuất. Đó là thành
quả rất đáng mừng đối với sự phát triển của kinh tế nhà
nước.

Trang 37
Như vậy trong suốt quá trình đổi mới từ 1986 đến nay,
nhờ những chính sách đổi mới, sắp xếp tổ chức lại các
DNNN của chính phủ mà các DNNN đã có những chuyển
biến tích cực: việc tách quyền sở hữu đã tác động tích cực
đến quyền tự chủ của các doanh nghiệp và do đó hoạt động
có hiệu quả hơn trước, trình độ công nghệ và quản lý có
nhiều tiến bộ, vốn được bảo toàn và tăng thêm, bước đầu đa
dạng các nguồn vốn để phát triển, vốn tích luỹ tự bổ sung
tăng lên 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh
của DNNN đang từng bước được nâng lên, giúp KTNN thực
hiện được vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chi phối
được các ngành lĩnh vực then chốt, là lực lượng nòng cốt
trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho
ngân sách Nhà nước, bảo đảm cân đối vốn và góp phần quan
trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, là lực lượng rất quan
trọng trong việc bảo đảm các sản phẩm chủ yếu của nền
kinh tế.

1.2 Kết quả bước đầu phát huy vai trò chủ đạo của KTNN
từ những bước đổi mới:

Trang 38
Thứ nhất, hệ thống kinh tế Nhà nước các thể chế thống
nhất đang làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc
độ khá.

Thứ hai, trong những năm lại đây, hoà chung vào xu thế
toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, kinh tế hợp tác, liên doanh
với nước ngoài rất được phát triển mà chủ yếu là với thành
phần KTNN. Điều đó khẳng định là thành phần kinh tế đi
đầu trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở
đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo
xu hướng chung của nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế
giới.
Thứ ba, KTNN phát triển ổn định là một nhân tố cơ bản,
quan trọng giúp Nhà nước giải quyết được một số vấn đề
kinh tế vĩ mô và vấn đề xã hội như giảm thất nghiệp, bảo
hiểm cho người lao động, trợ cấp mất việc hay thôi việc, góp
phần xóa đói giảm nghèo, cân bằng kinh tế, phát triển văn
hoá, giáo dục…
Thứ tư, KTNN đang tạo ra lực lượng vật chất tối thiểu
cần thiết để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản
lý vĩ mô, ổn định xã hội, hạn chế khuyết tật của kinh tế thị
trường.

Trang 39
Thứ năm, KTNN phát triển, vừa tạo ra động lực thúc đẩy
sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, vừa là tấm
gương để các thành phần kinh tế khác đi theo trong việc
quản lý, tuân thủ pháp luật, bảo vệ môi trường… Nhờ đó tạo
nên sự phát triển đồng bộ, ổn định cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ sáu, KTNN đã góp phần tạo nên con người mới
XHCN với những phẩm chất, trình độ cần có để xây dựng
chế độ xã hội mới. Điều đó được thể hiện qua đội ngũ cán
bộ lao động trong các DNNN đang ngày càng có trình độ
cao, phẩm chất tốt, năng lực quản lý tiến bộ… từ đó tạo điều

kiện phát huy vai trò giai cấp công nhân trong xây dựng xã
hội mới – XHCN.

1.3 Nguyên nhân những thành quả đạt được:
Thứ nhất, xuất phát điểm đầu tiên cho sự đổi mới nền
kinh tế nước ta đó là nhờ chủ trương đường lối đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương xây dựng một nền
Kinh tế mở của Đảng đã rất phù hợp với thực tế tình hình
đất nước ta do đó đã mở ra một thời kỳ kinh tế mới năng
động, sáng tạo, nhanh chóng đưa đến hiệu quả phát triển của

Trang 40
nền kinh tế, - xã hội đất nước, xuyên suốt thời kỳ đổi mới
(1986 đến nay), giã các văn kiện đại hội lần thứ VI đến đại
hội lần thứ IX luôn đặt KTNN lên nắm vai trò chủ đạo:
“Làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn
đề xã hội, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác
phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế
độ XHCN” (Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII)
Thư hai, nhà nước XHCN VN đang từng bước hoàn thiện
dần hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô, của mình đối với
thành phần KTNN đặc biệt là đối với các DNNN.Bằng các
văn bản pháp quy các chính sách kinh tế mà nhà nước đã thể
chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trò chủ
đạo của KTNN, DNNN; một loạt các văn bản được thực thi
như quyết định về hạch toán kinh doanh trong DNNN, quy
chế quản lý tài chính đối với DNNN. Luật DNNN, luật
thương mại, chỉ thị về đẩy mạnh và sắp xếp, đổi mới các
DNNN, nghị quyết về giao, bán, khoán, đó là những công cụ

điều tiết, quản lý kinh tế của nhà nước, thể hiện sự chỉ đạo
hết sức kiên trì của chính phủ các cấp, các ngành.

×