Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

hoa mai Nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.53 KB, 14 trang )

Tính giao thời trong văn học Việt Nam giai đoạn 1900 - 1930
Huỳnh Thị Lan Phương
1. “Giao thời là khoảng thời gian chuyển tiếp từ thời kì này sang thời kì khác, cái mới cái cũ
đan xen lẫn nhau, thường có mâu thuẫn xung đột, chưa ổn định.” (3,378). Nói đến tính giao
thời trong văn học là đề cập đến những biến chuyển hết sức phức tạp của văn học trong một
khoảng thời gian nhất định để đưa nền văn học bước sang một thời kì mới. Giai đoạn này đã
diễn ra một quá trình đấu tranh quyết liệt giữa hai nền văn hóa cũ và mới, cuộc đấu tranh đó
chưa phân thắng bại. Đây cũng là một giai đoạn hết sức phức tạp, nội dung và hình thức sáng
tác cũ, mới đan xen nhau. Nền văn học cũ khắc phục dần những hạn chế, từng bước canh tân.
Nền văn học mới vừa phát huy những nhân tố hiện đại vừa kế thừa những thành tựu của nền
văn học cũ. Vì vậy, văn học giai đoạn này có một diện mạo đặc biệt, tạo nên những đặc điểm
riêng không thể tìm thấy ở các giai đoạn trước và sau đó.
Trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam, giai đoạn 1900- 1930 là giai đoạn văn
học có tính chất giao thời. Văn học ở thời kì chuyển hóa, tập hợp để chuẩn bị cho nền văn học
hiện đại ra đời: “ Văn học của cả giai đoạn 1900 - 1930 có tính chất giao thời. Tính chất giao
thời đó được biểu hiện ở sự tồn tại song song hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng
tác, hai công chúng với hai quan niệm văn học, hai ngôn ngữ văn học ở hai địa bàn khác nhau,
ở xu thế thắng lợi của nền văn học mới đang tiến tới thay thế nền văn học cũ đang suy yếu
dần. Ở giai đoạn giao thời này, nền văn học cũ tuy đã ở trên đà suy tàn nhưng vẫn còn giữ
một vị trí đáng kể, vẫn còn một tác dụng tích cực nhất định trong sự phát triển của văn học
dân tộc.” (2,29)
Nguyễn Đình Chú cũng đã viết: “Lịch sử văn học, xét cho cùng là lịch sử cách tân văn
học” (1,15). Và, theo quan niệm của ông thì có hai mức độ cách tân: Cách tân trong nội bộ
một phạm trù văn học và cách tân có ý nghĩa chuyển từ phạm trù văn học này sang phạm trù
văn học khác. Sự thay đổi phạm trù văn học là sự cách tân có tính chất đồng bộ, toàn diện về
lực lượng sáng tác, về công chúng văn học, về phương diện văn học, về phương thức tồn tại
của văn học, về quan niệm nghệ thuật, về đề tài, về ngôn ngữ, về thể loại, thể tài cùng với hệ
thống thi pháp. Thực hiện những điều đó không thể trong một thời gian một sớm một chiều mà
đòi hỏi phải qua một quá trình khá gay go và phức tạp. Chúng ta có thể xem 30 năm đầu thế
kỉ là chặng đường đầu của sự cách tân văn học. Tính giao thời thể hiện rõ nhất trong giai đoạn
này.


2. Nghiên cứu văn học giai đoạn 1900 - 1930, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra các biểu hiện
của tính giao thời: Sự tồn tại hai lực lượng sáng tác, hai phương pháp thể hiện, hai quan niệm
sáng tác, hai loại công chúng. Nhưng đó chỉ là những yếu tố có tính chất bề nổi.Cần phải bóc
tách lớp vỏ bề ngoài để khai thác mọi vấn đề đang ẩn trong đó mới có thể phát hiện ra được
những cái cốt lõi, nội dung của tính giao thời.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, đây là giai đoạn duy nhất có hiện tượng đan xen hai yếu
tố cũ và mới trong sáng tác của một tác giả, có khi trong cùng một tác phẩm. Hai yếu tố cũ và
mới ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật được kết hợp nhuần nhuyễn và phổ biến trên
khắp các thể loại, tạo ra những giá trị đặc biệt, không thể xếp vào kho tàng văn học trung đại
mà cũng chưa thể công nhận là một tác phẩm văn học hiện đại.
2.1. Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu trường hợp nội dung mới thể hiện trong những
hình thức cũ. Đây là trường hợp phổ biến ở dòng văn học yêu nước và cách mạng. Để đạt mục
đích phục vụ cho hoạt động chính trị, các tác giả của dòng văn học này đã tập trung thể hiện
những nội dung mới trong những hình thức nghệ thuật chưa có gì thay đổi. Người ta bắt đầu
nói tới những tư tưởng yêu nước mới. Yêu nước và trung quân không còn đi đôi với nhau, yêu
nước gắn liền với hoạt động đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo tồn “nòi giống” và phát triển xã
hội theo con đường cách mạng dân chủ tư sản. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tư
tưởng dân chủ, dân quyền được đưa ra, được khẳng định, được xem là mục tiêu của phong trào
cách mạng. Vấn đề xây dựng nền học thuật mới, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng là
nội dung hoàn toàn mới mẻ. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng được
xác lập phổ biến rộng rãi như giai đoạn này Tất cả những nội dung trên đều được thể hiện
trong những thể loại văn học của nhà nho trước kia. Chữ Hán là phương tiện phổ biến để
chuyển tải các nội dung nói trên. Văn xuôi nặng tính chất biền ngẫu hãy còn thông dụng đối
với các nhà chí sĩ cách mạng thời này. Người sáng tác có ý thức đưa vấn đề mới vào văn học
với mục đích tuyên truyền vận động cách mạng. Nói cách khác, họ rất chú ý việc đổi mới nội
dung nhưng chưa hề quan tâm vào việc đổi mới nghệ thuật.
Phan Bội Châu là một tác gia tiêu biểu cho dòng văn học yêu nước và cách mạng giai
đoạn này. Sáng tác của ông biểu hiện vai trò là dấu nối của hai thời đại, hai nền văn học cũ và
mới. Ông xuất thân từ một nhà nho, thông thạo lối văn cử tử, từng được mệnh danh “hay chữ
nhất nước Nam”. Ông lại là người có vốn kiến thức về văn học dân gian. Nói như thế để thấy

rằng ảnh hưởng của văn học cũ đối với ông rất sâu đậm. Khi bước vào hoạt động chính trị, ông
đã sáng tác văn chương để phục vụ cho phong trào cách mạng. Đó là những sáng tác có nội
dung mới mẻ. Ông cũng là người sáng tác nhiều, lâu dài và liên tục, hiệu quả tuyên truyền
cũng cao. Nhưng Phan Bội Châu chỉ dừng lại ở sự cách tân nghệ thuật sáng tác cũ. Ông là
người rất nhiệt tình trong việc lên án văn chương cử tử, cố gắng tìm mọi cách để tạo sự lôi
cuốn, hấp dẫn đối với quần chúng. Ông đã thể nghiệm ngòi bút trên khắp các thể loại, từ văn
chương phú lục của nhà nho đến tiểu thuyết, truyện ngắn của nền văn học hiện đại. Ông có ý
thức hướng đến nền văn học hiện đại nhưng vì chưa hiểu đầy đủ về nó nên ông không thể tiến
xa hơn nữa. Văn chương của Phan Bội Châu tiêu biểu cho thời kì chuyển biến của văn học, có
tính chất giao thời. Sáng tác của Phan Bội Châu là sự từ giã cái cũ, tìm đường đến cái mới.
Phan Bội Châu chưa vượt qua được truyền thống nghệ thuật của phương Đông. Lí tưởng thẩm
mĩ của ông, ngôn ngữ văn học của ông rất dân tộc, rất hợp với công chúng đương thời nhưng
cũng sớm trở thành lạc hậu trước sự ra đời và phát triển của nền văn học mới. Phan Bội Châu
đã thể hiện những tư tưởng mới trong các hình thức nghệ thuật cũ. Thơ văn ông còn ở tình
trạng “bình cũ rượu mới”.
Không chỉ ở văn học cách mạng mà cả văn học hợp pháp, các hình thức nghệ thuật cũ
vẫn được sử dụng trong sáng tác. Đông Hồ, Tương Phố, Hoàng Ngọc Phách đã thổ lộ tình cảm
riêng tư, thầm kín của mình bằng những hình ảnh cũ kĩ, thông qua các bài thơ Đường cổ kính,
xen giữa những câu văn xuôi, những câu văn biền ngẫu. Họ đã thổi vào văn chương hợp pháp
bấy giờ một nỗi buồn mênh mông, da diết. Nó mới so với những nỗi buồn trong thơ trước đây
nhưng cũng chưa phải là nỗi buồn của các nhà thơ lãng mạn ở giai đoạn 30- 45. Chất sầu thảm
bi thương được gợi lên ở đây và sự tấn công vào thế giới bên trong của con người, trong sáng
tác của họ đã chuẩn bị cho sự ra đời của Thơ mới về sau.
2.2. Ở giai đoạn đầu thế kỉ XX, có nhiều tác giả do tiếp thu ảnh hưởng của văn học
phương Tây, từ công tác dịch thuật họ đã chuyển dần sang phỏng tác theo các tác phẩm văn
học Pháp. Họ đi đến viết tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch. Đó là những thể loại mới- thể loại văn
học hiện đại. Họ đã từ bỏ văn chương chữ Hán, tránh dùng những điển cố, điển tích, đưa lời ăn
tiếng nói của nhân dân vào trong sáng tác văn học. Họ cố gắng vượt khỏi những ước lệ khắt
khe khi xây dựng thế giới nhân vật. Có thể nói rằng, về mặt nghệ thuật, họ đã có những đổi
mới đáng kể, mặc dù không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Điều muốn nói ở đây là trong

lớp vỏ có phần mới mẻ ấy, họ vẫn tiếp tục thể hiện những nội dung cũ kĩ, thậm chí bị xem là
lạc hậu lỗi thời. Trong ba mươi năm đầu thế kỉ, có nhiều nhà tiểu thuyết Nam bộ, có cả những
nhà viết kịch ở Bắc bộ tiếp tục thể hiện những vấn đề đạo lí trong sáng tác của mình. Tuy
nhiên, đạo lí đó có phần nào vượt ra ngoài quan niệm của Nho giáo và tiến gần đến đạo lí bình
dân của người lao động.
Khi viết tiểu thuyết, các tác giả Nam bộ như Trần Thiên Trung (Hoàng Tố Anh hàm oan),
Nguyễn Chánh Sắt (Nghĩa hiệp kì duyên), Tân Dân Tử (Giọt máu chung tình), đặc biệt là Hồ
Biểu Chánh , đều bị chi phối bởi khuynh hướng đạo lí. Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh sở dĩ
chiếm lĩnh được đông đảo độc giả là vì đạo lí được ông nói đến là đạo lí ở đời, đạo lí bình dân,
truyền thống, vừa tầm. Hơn nữa, vấn đề đạo lí đó lại được thể hiện trong thể loại tiểu thuyết
viết bằng chữ quốc ngữ, có cốt truyện khác hẳn tiểu thuyết cổ điển, lấy đề tài từ trong cuộc
sống người lao động. Thế giới nhân vật xuất hiện trong tác phẩm là những con người chân lấm
tay bùn, chất phác, hiền lành như Trần Văn Sửu (Cha con nghĩa nặng); có thể là những thầy
thông, thầy kí hách dịch ham tiền như thầy thông Phong (Thầy thông ngôn); cũng có thể là
những tên địa chủ gian ác, những hương chức hội tề xấu xa ở địa phương như Vĩnh Thái (Khóc
thầm) hay hương quản Sum (Cha con nghĩa nặng) Không chỉ có con người ở nông thôn mà
còn bao gồm cả nhân vật thành thị. Có thể nói rằng, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của
ông rất đa dạng và phong phú. Đó là một đổi mới đáng kể và cũng là một thành công lớn của
Hồ Biểu Chánh.
Hồ Biểu Chánh đã đưa vào trong tác phẩm của mình những chi tiết đời thường và đã sử
dụng ngôn ngữ bình dân, giản dị trong sáng tác. Đó là những yếu tố chưa từng xuất hiện trong
văn chương trung đại. Mặc dù Hồ Biểu Chánh còn nhiều hạn chế trong nghệ thuật nhưng vẫn
có thể khẳng định ông là “cây bút sáng giá” của giai đọan 1912- 1932 bởi ông đã đạt được
những tiến bộ về nghệ thuật. Chính ông là người xây nền, tạo móng cho tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là sự kết hợp những yếu tố cũ (nội dung) với những
đổi mới đáng kể (nghệ thuật). Chính vì sự kết hợp này đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới của
công chúng đương thời. Bởi vì nó chỉ là hiện tượng của thời kì chuyển tiếp cho nên chỉ sau 20
năm, nó đã trở nên lạc hậu trước sự ra đời của tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, tiểu thuyết của
dòng văn học hiện thực phê phán 1930- 1945.
Kịch là một loại hình nghệ thuật sân khấu rất mới, có giá trị văn học, chỉ xuất hiện từ khi

có sự du nhập của nền văn hóa phương Tây. Một số tác giả tiêu biểu thời này như Vũ Đình
Long, Nam Xương đã dùng thể loại hoàn toàn mới mẻ này để phản ánh hiện thực xã hội đương
thời. Đời sống của các gia đình phong kiến bị phá sản, sự hư hỏng của con người trong xã hội
tư sản, hiện tượng lai căng mất gốc Tuy nhiên, mọi vấn đề được các ông đưa lên sân khấu để
bóc trần sự thật, để phê phán hay đả kích đều xuất phát từ lập trường đạo lí, nhằm củng cố
nền luân lí cổ truyền của dân tộc. Cho nên, chưa thể xem nội dung đó là hoàn toàn mới lạ.
Khán giả đương thời hưởng ứng nồng nhiệt bởi những vấn đề hãy còn xưa cũ ấy được thể hiện
trong một hình thức rất mới.
2.3. Sự kết hợp hai yếu tố cũ và mới trong cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật là
hiện tượng phổ biến nhất trong văn học giai đoạn đầu thế kỉ XX. “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc
Phách là một tác phẩm tiêu biểu mang nhiều yếu tố pha tạp hai giá trị truyền thống và hiện
đại. Hoàng Ngọc Phách đã để cho hai nhân vật Tố Tâm và Đạm Thuỷ giằng co giữa hai con
đường: chạy theo tình yêu tự do hay chấp nhận lễ giáo phong kiến. Đạm Thuỷ khuyên Tố Tâm
đi lấy chồng để nàng được vẹn chữ hiếu và chàng được giữ chữ tín nhưng lòng thì không muốn
rời xa Tố Tâm. Còn Tố Tâm thường khẳng định về tình yêu của mình: “Em đã yêu anh thì
không thể yêu ai được nữa, mà cũng không muốn yêu ai. Đã không yêu thì không lấy” (Tố
Tâm, trang 51). Nhưng rồi nàng cũng phải đem tình yêu mà đặt trước chữ hiếu để cân nhắc,
lựa chọn. Cả hai đều có những giấc mơ yêu đương, đầy chất lãng mạn. Họ từng nghĩ đến
chuyện đem nhau đi trốn ở một nơi “thâm sơn cùng cốc, hay góc bể chân trời nào không ai
biết để cùng nhau hưởng cuộc ái ân trăm năm” (Tố Tâm, trang 52). Thế mà cuối cùng cũng
chính họ để cho “tình gia quyến” “đánh đổ được những ảnh hưởng mới”, mà giữ họ lại. Tác
phẩm “Tố Tâm” khép lại trong kết thúc bi thảm. Tố Tâm chết, Đạm Thuỷ sống trong đau khổ,
bị dằn vặt vì nỗi nhớ thương người xưa, mặc dù tác giả đã cố tình tạo cho chàng một cơ hội
mới (lập nghiệp), nhằm giúp chàng thoát khỏi “bể sầu, núi thảm”. Nhưng hạnh phúc vẫn không
thể đến được. Với “Tố Tâm”, người tuân thủ đạo đức truyền thống đã không có hạnh phúc
trong chế độ đại gia đình phong kiến, mà người muốn sống hết mình cho tình yêu tự do cũng
không thể đón nhận hạnh phúc trong tình yêu. Cả đôi đường đều không thể trọn vẹn, con
người bị lâm vào thế bế tắc. Nguyên nhân bắt nguồn từ trạng thái lưỡng phân, giao thời của xã
hội. Hoàng Ngọc Phách đã đem cái tôi tư sản đặt bên cạnh lễ giáo phong kiến và ông chỉ nói
đến cái tôi trong thế cạnh tranh với đạo đức phong kiến. Trường hợp của Hoàng Ngọc Phách là

trường hợp tiêu biểu và phổ biến ở giai đoạn đầu thế kỉ XX. “Tố Tâm” là tác phẩm được sáng
tác bằng phương pháp lắp ghép nghệ thuật viết văn của nhà nho (văn biền ngẫu, văn xuôi xen
kẽ với văn vần, ngôn ngữ bóng bẩy ) với nghệ thuật sáng tác của người nghệ sĩ hiện đại (văn
tiểu thuyết, kết cấu mới, kết thúc không có hậu, khai thác yếu tố đời tư của nhân vật). Chính
sự lắp ghép và pha tạp các yếu tố cũ, mới đã làm cho “Tố Tâm” vừa thể hiện chất hiện đại
nhưng vẫn mang dáng dấp truyền thống. Đó chính là “tính giao thời” của tác phẩm.
3. Nhìn chung, văn học giai đoạn này còn rất nhiều tác phẩm, tác giả có sự kết hợp như trên,
tạo nên những giá trị văn học có tính chất trung gian giữa truyền thống và hiện đại. Truyện
ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, thơ văn Tản Đà, Trần Tuấn Khải
Người viết chỉ nêu một số trường hợp tiêu biểu để chứng mình văn học giai đoạn đầu thế kỉ XX
là dấu nối giữa hai nền văn học cũ và mới. Dấu nối đó được tạo nên bằng sự lắp ghép, pha tạp
các yếu tố cũ và mới trong nghệ thuật lẫn nội dung.
Có thể khẳng định rằng trong lịch sử văn học Việt Nam, đây là giai đoạn duy nhất có sự
tồn tại đan xen hai nội dung văn học của nhà nho và người sáng tác mới. Các giá trị truyền
thống được đặt cạnh một số thành tựu hiện đại và luôn trong thế cạnh tranh nhau. Tính giao
thời của văn học thể hiện ở sự lắp ghép, pha tạp các yếu tố cũ và mới ở văn học trung đại và
hiện đại, phải có yếu tố xúc tác là ảnh hưởng của văn học phương Tây mới có thể tạo ra kết
quả như trên. Đối với văn học của các nước khác, tính giao thời thuộc về thế kỉ trước. Riêng ở
Việt Nam, đó là vấn đề của thế kỉ XX. Tuy nhiên, hiện tượng trung gian trong văn học chỉ xảy
ra trong một thời gian ngắn.
Văn học giai đọan 1900 - 1930 có xu hướng tiến gần đến hiện đại. Đối với người cầm bút
thời này, văn học hiện đại là khu vườn quyến rũ đầy những hoa thơm cỏ lạ. Phát hiện ra nó là
một chuyện, nhưng đến với nó là một chuyện khác. Bởi vì họ “không có đủ độ sâu và độ đúng
của lí luận, không đủ học vấn để kế thừa truyền thống và tiếp thu ảnh hưởng của văn học nước
ngoài một cách hợp lí và sáng tạo” (2, 337). Đối với các nhà văn, nhà thơ thời này, quan niệm
thẩm mĩ có thay đổi, thế giới quan và nhân sinh quan đã khác trước nhưng họ chưa được trang
bị chu đáo về mặt lí luận. Họ đã đến với văn học hiện đại trong sự nhận thức chưa được trọn
vẹn về mọi phương diện. Điều này đã làm hạn chế khả năng sáng tác của họ. Họ không thể bỏ
qua sự dung hoà truyền thống và hiện đại. Thói quen cũ và ý thức mới tạo nên những biến
dạng trong nghệ thuật sáng tác của rất nhiều tác giả thời này. Nhìn chung, trong 30 năm đầu

thế kỉ XX, do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, các tác giả đã “lắp
ghép một cách máy móc cái truyền thống và hiện đại” khi sáng tác. Hạn chế đó mang tính tất
yếu của một giai đoạn chuyển biến trong lịch sử văn học từ phạm trù văn học trung đại sang
phạm trù văn học hiện đại.
Tài liệu tham khảo:
1- Nguyễn Đình Chú- Tài liệu bồi dưỡng giảng dạy sách giáo khoa lớp 11 CCGD môn Văn học-
Hà Nội- 1991.
2- Trần Đình Hượu- Lê Chí Dũng- Văn học Việt nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930 - NXB ĐH
và THCN- 1980.
3- Hoàng Phê (chủ biên)- Từ điển tiếng Việt- NXB Đà Nẵng- Trung tâm Từ điển học- Hà Nội-
Đà Nẵng- 1995.
Nguồn: Kỷ yếu “Hội nghị khoa học và cải tiến phương pháp giảng dạy” - Khoa Sư phạm-
Trường Đại học Cần Thơ- Năm 2001- Tr 127- 131
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
Hoàn cảnh sáng tác
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm
1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò
Công v.v
Ngày 14 tháng 12 năm 1861, tức ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông
dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân
của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ
mình
[1]
. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.
Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,
để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
Nghệ thuật thể hiện
Xem toàn văn ở Wikisource tiếng Việt.
Bài văn tế bằng chữ Nôm, gồm 30 liên, tức 60 vế đối biền ngẫu, làm theo thể phú luật Đường luật, có vần, có
đối.

Toàn bài mang tính chất trầm hùng, bi thiết, có sức cổ vũ lớn. Cái đặc sắc, kỳ thú ở bài văn là dùng nhiều
ngôn ngữ và chi tiết bình thường, quen thuộc trong đời sống hàng ngày mà dựng lên được hình ảnh rất sống
của thế hệ những người chống Pháp tiêu biểu buổi ấy
Nói khác hơn, bài văn là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần
nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực. Ngôn ngữ thì bình dị, mộc mạc, giàu lời ăn tiếng nói thân thuộc của
nhân dân, đặc biệt là bản sắc địa phương Nam Bộ
[2]
.
Trích vài nhận xét
Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả thật là sinh động và não nùng, cảm
tình của dân tộc đối với người chiến sĩ, vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở
thành người anh hùng cứu nước Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca của người anh hùng thất thế,
nhưng vẫn hiên ngang
Trong văn chương chưa hề có một cái nhìn yêu thương và kính phục như vậy đối với người nông dân: Nhớ
linh xưa: cui cút làm ăn - toan lo nghèo khó”, và ông viết: "Bao nhiêu yêu thương trong hai từ cui cút ấy”! Bởi
"Nhà nho nghèo ấy đã sống cuộc sống của quần chúng, thông cảm sâu sắc với quần chúng, và đã cùng quần
chúng phấn đấu gian nan. Chính quần chúng cần cù, dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho trí
tuệ, cho tình cảm, cho lòng tin và cả cho nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu".
Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, nhân dân được ca ngợi như những người anh hùng.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là đỉnh cao nhất về nội dung và nghệ thuật trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn
đình Chiểu
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, là tác phẩm xúc động nhất về người anh hùng nông dân Nam Bộ. Đó là những
người quanh năm nghèo khó, chưa từng cầm vũ khí, nhưng khi giặc đến thì xông lên chiến đấu quên mình,
biểu thị tinh thần dũng mãnh bất khuất, tiêu biểu cho ý chí độc lập, tự do của dân tộc. Bài văn không chỉ là
một thiên anh hùng ca đặc sắc, mà còn là lời bộc bạch gan ruột của những người dân không chịu làm nô lệ,
thề đánh giặc đến cùng, là lời trách móc thâm trầm đối với thái độ đầu hàng
Bởi vậy, khi bài văn tế này lan truyền đến Huế, chính vua Tự Đức đã ra lệnh phổ biến trong nhiều địa phương
khác. Nhà thơ Miên Thẩm Tùng Thiện Vương và Mai Am nữ sĩ đã có thơ ca ngợi, là: “thư sinh giết giặc bằng
ngòi bút” (Tùng Thiện Vương), là “Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi” (Mai Am)
Tác giả

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là ngôi sao sáng của nền văn nghệ đất nước ta trong nửa sau thế kỷ 18. Bị
mù, vừa dạy học, làm thuốc và viết văn thơ. Sống vào thời kỳ đen tối của đất nước: giặc Pháp xâm lăng, đất Nam
Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc. Tinh thần nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc Pháp xâm lược là
những tư tưởng, tình cảm sâu sắc, mãnh liệt trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Tác phẩm:
- Truyện thơ: Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp.
- Văn tế: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế Nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh.
- Thơ: Nhiều bài thơ Đường luật – cảm hứng yêu nước.
Xuất xứ, chủ đề
- Cần Giuộc thuộc Long An. Trận Cần Giuộc là một trận đánh lớn của quân ta, diễn ra đêm 14/12 âm lịch (1861).
Hơn 20 nghĩa quân đã anh dũng hy sinh. Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Đồ Chiểu viết bài văn tế
này. Ngay sau đó, vua Tự Đức ra lệnh phổ biến bài văn tế trong các địa phương khác.
- Bài văn tế ca ngợi những nghĩa sĩ – nông dân sống anh dũng, chết vẻ vang trong sự nghiệp đánh Pháp để cứu
dân, cứu nước.
Hình ảnh người nghĩa sĩ
1. Nguồn gốc: Nông dân nghèo khổ “cui cút làm ăn”, cần cù lao động “chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”. Chất
phác hiền lành:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó:
2. Tâm hồn: Yêu, ghét dứt khoát, rõ ràng: “ghét thói mọi như nhà ông ghét cỏ” “đâu dung lũ treo dê bán chó”.
Căm thù quyết không đội trời chung với giặc Pháp:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,
Ngày xem ống khói chạy đen sĩ, muốn ra cắt cổ”
Yêu nước, yêu xóm làng quê hương, tự nguyện đứng lên đánh giặc: “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, “phen này
xin ra sức đoạn kình”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ”
3. Trang bị
- Không phải là lính chính quy của Triều đình, “chẳng phải quân cơ, quân vệ”, chẳng có “bao tấu, bầu ngòi”. Họ
chỉ là “dân ấp dân lân”, vì “bát cơm manh áo” mà đánh giặc. Trang bị thô sơ, áo mặt chỉ là “một manh áo vải”, vũ
khí là một ngọn tầm vông, một lưỡi gao phay, hoặc “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi” …
Kẻ thù của họ là mã tà, ma ní, là thằng Tây “bắn đạn nhỏ đạn to”, có “tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.

4. Chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh:
- Dũng mãnh tiến công như vũ bão, “đạp rào lướt tới”, “kẻ đâm ngang, người chém ngược”, “bọn hè trước lũ ó
sau”.
- Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lẫm liệt hiên ngang: “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào,
liều mình như chẳng có”, “trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
- Chiến công oanh liệt: “đốt xong nhà dạy đạo kia”, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”, “làm cho mã tà, ma ní hồng
kinh”
- Hy sinh đột ngột trên chiến địa: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”.
Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu đã ngợi ca, khâm phục và biết ơn các nghĩa sĩ. Ông đã dựng lên một tượng đài bi
tráng về người nông dân đánh giặc cứu nước trong buổi đầu giặc Pháp xâm lăng đất nước ta.
Tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hàm chứa những tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
- Ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần tự nguyện đánh giặc để cứu nước của các nghĩa sĩ. Khẳng
định vị trí và vai trò của người nông dân trong lịch sử chống xâm lăng vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
- Tiếc thương những nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh (câu 18, 25)
- Khẳng định một quan niệm về sống và chết: chết vinh còn hơn sống nhục. Không thể “theo quân tà đạo”, “ở lính
mã tà” đánh thuê, làm bia đỡ đạn, sống cuộc đời bán nước cầu vinh “chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng
thêm hổ”. Trái lại, phải sống anh dũng, chết vẻ vang: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ
binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.
- Tự hào về các nghĩa sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc. Tên tuổi họ, tinh thần họ bất tử: “danh thơm đồn sáu tỉnh chúng
đều khen…”, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”… Tóm lại, lần đầu tiên
trong nền văn học dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc hoạ và ca ngợi người nông dân Nam Bộ và những anh
hùng thời đại đã sống, chiến đấu và hy sinh vì đại nghĩa.
Nghệ thuật
1. Ngôn ngữ bình dị như cách nói, cách nghĩ và cách cảm của nhân dân miền nam. Các kiểu câu tứ tự, song
quang, cách cú, gối hạc, câu nào cũng đặc sắc, khô ứng, đối chọi cân xứng đẹp.
2. Chất chữ tình kết hợp với chất anh hùng ca tạo nên màu sắc bi tráng.
3. Hình tượng người chiến sĩ nghĩa quân được khắc họa tuyệt đẹp trong tư thế lẫm liệt hiên ngang.
Có thể nói, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một bài ca yêu nước chống xâm lăng, là kiệt tác trong kho tàng văn tế
cổ kim của dân tộc.

Bai2:
A. GỢI Ý CHUNG
Vẻ đẹp hiếm có của hình tượng người nông dân yêu nước, chống Pháp đựơc dựng lên trong Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu) như một tượng đài mang tính bi tráng.
B. GỢI Ý CỤ THỂ
Dàn bài sơ lược
Bài văn tế khóc thương người nông đân Cần Giuộc vì nghĩa mà đứng lên đánh giặc Pháp và đã hy sinh. Đó là
đỉnh cao sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, rất bình dị mà đã dựng lên tượng đài nghệ thuật rất đẹp, mang tính bị
tráng.
1) Người nông dân Nam Bộ nghèo khó, “côi cút làm ăn” sống đời thầm lặng, cơ cực ở thôn ấp. Họ chỉ biết ruộng
trâu, đã biết gì đến võ nghê, võ khí, chiến trận. Nhưng tấm lòng của họ rất đẹp: yêu nước cao độ, không đội trời
chung với bọn xâm lăng và đã cầm gậy, cầm dao tự nguyện đứng lên đánh giặc trong thời đại “ vĩ đại và khổ
nhục” của dân tộc.
2) Tượng đài đẹp hùng tráng:
a) Về trang bị: không có áo giáp mà với “manh áo vải thô sơ” với “ngọn tầm vông” quen thuộc của quê hương.
Lần đầu tiên “ngọn tầm vông” đã đi vào văn học với ý nghĩa cao đẹp và nét tạo hình giàu giá trị thẩm mĩ.
b)Về tinh thần, hành động : Với trang bị thô sơ, thiếu thốn, người dân ấp dân lân dùng “rơm con cúi, lưỡi dao
phay”, nhưng vật dùng của quê hương, gia định – mà chống lại súng đạn, tàu thiếc tàu đồng của Tây. Đến đây,
đoạn văn ngắt nhịp ngắn, khẩn trương cùng với hàng loạt từ ngữ đầy sức mạnh chiến đấu quật cường “đạp rào
lướt tới, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược.Bọn hè trước, lũ ó sau…”.
Tất cả làm hiện ra quần thể tượng đài người nông dân yêu nước trong tư thế tấn công mạnh mẽ hào sảng.
Những người nông dân chất phác đã tự dựng cho mình tượng đài anh hùng, cao cả, đầy nghĩa khí và nhà thơ mù
đã xây dựng họ thành hình tượng nghệ thuật, thành quần thể tượng đài hào hùng cao đẹp trong áng văn tế bất
hủ của mình.
c) Kết quả chiến đấu: Đốt đồn giặc, chém rớt đầu tên quan chỉ huy.
d) Tuợng đài vừa tráng vùa bi: a) Đây là những người anh hùng thất thế: Những người nông dân đã lấy gan đồng
chọi với đạn sắt, lất cái yếu chống cái mạnh, lấy vũ khí thô sơ chống phương tiện hiện đại.
b) Tuy đã chiến đấy ngoan cường, đánh một trận oanh liệt tưng bừng nhưng họ đã ngã xuống hi sinh trong chiến
bại.
c) Giọt nước mắt của sông nước cỏ cây, của nhân dân và đặc biệt nỗi đau của mẹ già, vợ yếu.

3) Ý thức yêu nước mãnh liệt, lòng khâm phục và xót đau với người nghĩa sĩ trong trận Cần Giuộc đã tạo ra kiệt
tác cho nhà thơ mù Đồ Chiểu.
Vẻ đẹp của quần tượng này vừa mới lạ xưa nay chỉ có các chủ soái mới được đề cao như thế) vừa rất đẹp, rất
hào hùng, rất bi tráng, rất đáng tự hào. Đây là nước mắt của nhà thi sĩ anh hùng lao chẳng ráo, khóc thưiưng
những anh hùng ngã xuống nhưng bất tử.
- Bài thơ của Miên Thẩm khi đọc xong bài văn tế:
Lại giởbài văn điếu chiến trường
Tưởng nghe mồn một chuyện văn chương
Chép ghi chân thật lời Mạnh Tả
Ca ngợi hùng bi giọng Khuất Bường
Gươm gỗ cờ lau gương vạn cổ
Vượn sầu hạc oán mấy tinh sương
Thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút
Báo nước từng này biết mấy thương.
( Bản dịch của Dư Lê)
Hiện tượng “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” trong quá trình dân chủ hoá của văn học Việt Nam thời trung đại
Phần II
Về mặt nghệ thuật, Văn tế sử dụng một thứ ngôn ngữ bình dị như chính đời sống, cách nói, cách nghĩ và
cách cảm của nhân dân miền Nam.
Trong văn chương trung đại chưa bao giờ, những công việc làm, vật dụng thô sơ , mộc mạc của nhà
nông lại đi vài thơ văn ồ ạt trở thành những chi tiết đắt, những điểm nhấn nghệ thuật trong khắc hoạ nhân
vật như thế: “cuốc, cày , bừa , cấy, ruộng , trâu, manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,
tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo, ”
Cũng chưa bao giờ cách cảm , cách nghĩ của nông dân được thể hiện một cách trực tiếp mà giàu dư
vị như thế: ‘ danh nổi tợ phao, tiếng vang như mõ; trời hạn trông mưa, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ;
muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ, treo dê bán chó; mắc mớ chi ông cha nó, chia rượu lạt , gặm bánh mì,…”
Chính nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trực tiếp từ đời sống và cách cảm , cách nghĩ quen thuộc , bình dị
của người nông dân Nam Bộ ở nửa sau thế kỉ XIX như thế, bài văn tế , nhất là phần thích thực,đã thoát khỏi
khuôn sáo ước lệ để từng mảng hiện thực của đời sống và nội tâm nhân vật trực tiếp đi vào trang văn với
tất cả vẻ chân phác của nó. Đây cũng là con đường tăng cường tính nhân dân , tính hiện thực cho văn

chương trong một giai đoạn có tính chất giáp ranh giữa hai phạm trù văn học trung đại và hiện đại. Giáo sư
Trần Văn Giàu thật chí lí khi viết: “ Một hoạ sĩ thời nay đọc Nguyễn Đình Chiểu vừa có đủ sự kích thích về
tinh thần vừa có đủ chi tiết tiêu biểu để vẽ thành bức tranh công đồn rất hiện thực của nghĩa binh Cần
Giuộc” [7, 234]
Nhìn ở một tầm độ sâu hơn, nhằm cắt nghĩa lí giải sức chinh phục của hình tượng nghĩa sĩ nông dân,
ta không thể không nói đến nghệ thuật điển hình hoá của tác giả nhằm tạo ra một sức mạnh nhận thức tổng
hợp, trực cảm thẩm mĩ mạnh mẽ
Bài Văn tế thật sự đã đặt nhân vật trong tình huống có vấn đề. Đó là quan hệ giữa sống và chết, giữa
người dân và dân tộc, giữa tình thương, những mối ràng buộc nhân sinh và yêu cầu phải xả thân, giữa
truyền thống anh hùng và truyền thống nhân đạo. Bài Văn tế đã giải quyết xuất sắc bài toán nghệ thuật đó,
đã bằng nghệ thuật ngôn từ mà chinh phục được độc giả trước một vấn đề phức tạp của tâm hồn.
Sự kiện 21 ( có sách nói là 15) nghĩa quân hy sinh trong trận đánh úp đồn Pháp ở Cần Giuộc trên đất
Gia Định vào đêm 14 tháng 12 năm 1861 là một sự thật lịch sử quật cường. Nhưng hình tượng trong bài
Văn tế có sức tác động sâu hơn một sự thật lịch sử. Đó là do cái tài và cái tâm của tác giả. Hình tượng nghệ
thuật của Đồ Chiểu có khả năng nhắn nhủ người ta, đánh thức tâm hồn người ta về những điều rộng hơn và
sâu sắc hơn bản thân sự thật lịch sử vì ông đã đúc kết được một hệ thống rất có sức gợi cảm những chi tiết
về số phận , hành động của người dân cày trong lịch sử ở hai cực biến động của nó: khi làm ăn côi cút vô
danh; lúc tự nhận trách nhiệm lớn lao trên vũ đài lịch sử dân tộc. Cái mới lạ , cái tầm mở rộng nhận thức đột
ngột đó đối với hiện thực chính là ở chỗ nhà thơ đã chỉ ra sự thống nhất hai chiều tồn tại kia của nhân vật
thành một thực thể điển hình: cái tâm sự băn khoăn hàng giờ , hàng khắc “ trông tin quan như trời hạn trông
mưa” cùng với cái thân phận “ côi cút làm ăn” hai sương một nắng đã hoà với nhau làm một, từ tâm lí ghét
cỏ dại luôn thường trực để rồi khi kẻ thù ló dạng họ liền có cái để so sánh “ghét thói mọi như nhà nông ghét
cỏ”. Lòng yêu nước âm thầm ấy đã nhập vào cái âm thầm của cuộc đời lao động cần cù , nghèo khó kéo dài
bất tận trong lịch sử phong kiến để rồi thỉnh thoảng lại bùng lên “ kết thành những làn sóng vô cùng mạnh
mẽ” khi Tổ quốc lâm nguy. Đó chính là đóng góp lớn của Đồ Chiểu, là cái gốc tạo nên sức rung động, cảm
kích sâu xa ở người đọc trước hình tượng nghệ thuật do ông xây dựng.
Bằng hình tượng nghĩa binh Cần Giuộc, Đồ Chiểu đã phát hiện được cái chân lí về sức mạnh cơ bản
hằng tồn, đầy tính sáng tạo về đặc thù của dân tộc Việt Nam. Lôgich nghệ thuật của Văn tế…là đã tạo ra cái
độ căng quyết liệt giữa thử thách lớn của tình huống và sự “trắng tay” của con người về những tiền đề vật
chất cần thiết cho cuộc chiến đấu. Bảo bối của họ không gì khác hơn là một ý chí không gì lay chuyển nổi để

vượt tình thế. Họ tự trang bị, vũ trang cho họ bằng bất cứ cái gì họ có trên cơ sở một truyền thống tự lực tự
cường đã ăn sâu vào máu thịt và tâm khảm của họ từ bao đời cha truyền con nối trên đất nước đầy thiên
tai , địch hoạ này. Bằng cách đó , Nguyễn Đình Chiểu đã đặt chân vào con đường lớn để đi về hiện đại trên
lập trường nhân dân , dân chủ .
Cuối cùng là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và bút pháp trữ tình nhằm nêu bật cái gan
chịu trách nhiệm, cái đạo thuỷ chung sâu thẳm vào người dân như một sức năng động nối liền nghĩa vụ hào
hiệp với tình thương, nối cái mất mát tổn thất với cái trường tồn đã dẫn đến một quy mô cảm xúc, một tầm
thước biểu cảm rất rộng trong không gian và thời gian lịch sử, trong số phận và tâm khảm con người:
‘ Tấc đất , ngọn rau ơn Chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời mắc mớ chi ông cha nó”
“Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm…”
“ Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc linh hồn theo giúp cơ binh,muôn kiếp nguyện được trả thù kia ”
Hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một phát hiện mới mẻ và có
giá trị nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Đó thật ra là những con người vốn có từ lâu đời, nhưng cũng chỉ thật
sự nổi bật lên vào giai đoạn lịch sử này, khi người anh hùng phong kiến đang tự nó rút khỏi vũ đài chính trị.
Dưới ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu, đó là những con người rất xưa nhưng cũng rất mới. Họ như những vỉa
trầm tích ngàn đời và vụt “vươn vai Phù Đổng” trong bước ngoặt lịch sử đặc biệt của dân tộc ta. Nhà thơ mù
yêu nước xứ Đồng Nai đã dốc trọn cả cuộc đời phấn đấu cho lí tưởng của mình để đi tìm, dựng tượng đài
cho con người ấy. Và trong lịch sử văn học nửa cuối thế kỉ XIX cũng chỉ có một mình ông tìm được, dựng
được. Phát hiện của ông không trái với nhãn giới của Nho gia nhưng ông đã di xa hơn điểm dừng lại của tất
cả các tác giả Nho gia truyền thống. Hơn ai hết, Nguyễn Đình Chiểu xúc động sâu sắc trước thân phận
những con người bình thường, trướng những phẩm chất cao đẹp của họ trong một giai đoạn lịch sử “nước
sôi lửa bỏng”. Chính ở điểm đó ông đã tạo được bước đột biến trong sự phát triển văn học dân tộc.

Tóm lại, với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong nền văn học dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu đã
khắc hoạ và ca ngợi người nông dân Nam Bộ như những anh hùng thời đại đã tự giác sống, chiến đấu và
hy sinh vì đại nghĩa dân tộc, là người gánh vác sự nghiệp cứu nước trên đôi vai trong khi triều đình phong
kiến bạc nhược luôn chủ hoà , chủ bại, vận mệnh dân tộc bị đặt trong thế “ nghìn cân treo sợi tóc”. Giáo sư
Trần Văn Giàu, người đã từng nhiều năm sống , chiến đấu trên mảnh đất Nam bộ, nhiều năm nghiền ngẫm
văn chương, tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định: “ Cụ là văn sĩ đầu tiên ca ngợi lòng yêu nước,
chí quật cường của bần nông, một trình độ và tính chất yêu nước quật cường đặc biệt cao quý của những

người dân lân , dân ấp (…) Thật suốt hàng ngàn năm sáng tác cho đến đấy và còn lâu về sau nữa, chưa có
một thi nhân nào rung cảm chân thành và sâu sắc với dân cày như thầy Nguyễn Đình Chiểu của chúng ta,
chưa có ai như Nguyễn Đình Chiểu đắp nên tượng lộng lẫy của người nông dân anh hùng cứu nước” [7,
234]. Nhìn rộng ra trong bối cảnh toàn cầu cũng như trong khu vực, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương nhận
xét: “ Trong tương lai khi bộ phận văn học đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc trên
phạm vi toàn thế giới được khảo sát một cách khoa học, Nguyễn Đình Chiểu chắc chắn sẽ dược ghi nhận
như một trong những tên tuổi có cống hiến nổi bật” [3 ; 311 ]
Với những gì đã đề cập bên trên chúng ta có thể dễ dàng đồng ý với của GS Nguyễn Đình Chú- trong
bài viết Những khuynh hướng lớn trong tiến trình vận động của lich sử văn học Việt Nam- khi ông nhận định:
“ Riêng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu thì đáng được xem là một hiện tượng đột khởi
mới lạ về quan điểm nhân dân” [2; 8], là tác phẩm tiêu biểu bậc nhất cho khuynh hướng dân chủ hoá trong
chủ đề yêu nước chống xâm lăng xuyên suốt 10 thế kỉ văn học trung đại Việt Nam./.
1. Phân tích tác phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyến Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc”, hai câu kết nói
lên mong ước thiết tha:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng / Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Và mấy năm sau, Nhà thơ viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” - đình cao nghệ thuật và tư tưởng trong sự
nghiệp thơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đối với những
nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ mù đất Đồng Nai đã dựng
lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm.
Sau khi chiếm đóng 3 tỉnh miền Đông, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền tây Nam Bộ. Năm 1861, vào đêm
14/12, nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An ngày nay.Trận đánh diễn ra vô
cùng ác liệt “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”, Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hi sinh. Nguyễn Đình
Chiểu đã viết bài văn tế này - bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tượng đài nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của
tượng đài nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến
đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên 1
thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quy mô, nó không chỉ khắc hoạ
về 1 nghĩa quân, 1 anh hùng mà đông đảo những người “dân ấp dân lân mến nghĩa quân làm quân chiêu
mộ” dưới ngọn cờ “bình tây” của Trương Công Định. Tính chất, quy mô hùng tráng, hoành tráng ấy lại gắn

liền với bi ai đau thương thống thiết. “Cái tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh Pháp giữa thế kỉ
XIX đã được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ, của nhân dân và cả của đất nước.
Trong toàn bài văn tế đặc biệt trong phân thích thực và ai vãn , ta cảm nhận sâu sắc tính chất bi tráng này.
Mở đầu bài văn tế là 1 lời than qua 2 câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là
tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ”
Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương sứ sở.
“Tan chợ vưà nghe tiếng súng Tây…” (“Chạy giặc”). Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng
lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân,
của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và ság ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư
tưởng chủ đạo của bài văn tế, nó được khắc trên đá hoa cương đặt ở phía trước, chính diện của “tượng đài
nghệ thuật” ấy.
Hình ảnh trung tâm của “tượng đài nghệ thuật” “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần
cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ
với “cung ngựa trường nhung”:
“Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống gần fũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề
ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa
từng ngó”.
Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những “dân ấp, dân lân” ấy đã đứng lên “mến
nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời” là cái nghĩa lớn
mà họ “mến” là đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất (giản dị mà chắc
nịch) ca ngợi long yêu nước, căm thù giặc của người nghĩa sĩ:
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có 1 chí hướng:
“phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nét vẽ, nét khắc hùng tráng nhất, hoành tráng nhất
trong “tượng đài nghệ thuật” bài văn tế. Bức tượng đài có 2 nét vẽ tương phản đối lập: đoàn dũng sĩ của
quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ,
đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô
sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một
súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia”
và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
“Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc
Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây
bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc,
tàu đồng súng nổ”.
Đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè
trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công
như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”,
“hè trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc và đặt đúng
chỗ… đã tô đậm tinh thần quả cảm, vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho
các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục, tự hào. Qua đó, ta thấy, trước
Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà thơ nào văn nào viết về người nông dân đánh giặc hay và sâu sắc như thế.
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có những giọt lệ, lời than khóc, một âm điệu thông thiết, bi ai
được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng:
“Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ” Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một
không gian rông lớn bùi ngùi, đau đớn:
“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.
Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vô cùng xúc động. “Hàng trăm
năm sau, chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn còn thấy ngòi bút của nhà thơ nức nở trên từng
trang giấy” (Hoài Thanh):
“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng,
cơn bòn xế dật dờ trước ngõ”.

Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là “tấm lòng son gửi
lại bóng trăng rằm”, đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Rất đáng tự hào:
“Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
Bài học lớn nhất của người nghĩa sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống hiên
ngang. Chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng cho “tượng đài nghệ thuật” về người nông dân
đánh giặc:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”.
Dám xả thân vì nghĩa lớn, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”, các chiến sĩ nghĩa quân trong “Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định văn chương lỗi lạc, tấm lòng yêu thương dân mãnh liệt,
thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Đúng là “người thư sinh dùng bút đánh giặc” (Miên Thẩm). Một giọng văn
vừa hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang
tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một
kiệt tác trong văn tế cổ kim của dân tộc. Nhà văn Hoài Thanh có viết: “Nhà nho nghèo ấy đã sống cuộc sống
của quần chúng, và đã đi cùng quần chúng phấn đấu gian nan. Chính quần chúng cũng cần cù, dũng cảm
đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho trí tuệ , cho tình cảm, cho lòng tin và cả cho nghệ thuật của
Nguyên Đình Chiểu”
PHÂN TÍCH BÀI “CHẠY GIẶC
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỷ 19. Mắt bị mù loà giữa thời trai trẻ, con
đường công danh sự nghiệp dở dang, nhưng ông đã không khoanh tay trước những bất hạnh cay đăng. Ông
đã mở trường dạy học, làm thầy thuốc chăm sóc sức khoẻ của nhân đân, viết văn làm thơ, tiếng tăm lừng
lẫy trở thành ngôi sao sáng trong bầu trời văn học Việt Nam cuối thế kỷ 19.

Tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với những truyện thơ đậm đà màu sắc cổ điển như “Lục Vân
Tiên”, truyện “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”… Đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu là
những bài văn tế, những bài thơ yêu nước như “Chạy giặc”,“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, v.v…

Bài thơ “Chạy giặc” là một bài ca yêu nước chống xâm lăng. Năm 1859, thực dân Pháp nổ súng tấn
công thành Gia Định. Đất nước rơi vào thảm hoạ - Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc” bằng thể thơ
thất ngôn bát cú Đường luật ghi lại sự kiện bi thảm này.


Hai câu đề nói lên thời cuộc và thế nước. Giặc Pháp tấn công thành Gia Định vào lúc “tan chợ”:

“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,

Một bàn cờ thế phút sa tay”.

Cảnh họp chợ, cảnh tan chợ là nhịp sống yên bình của nhân dân ta. Tiếng súng Tây bất ngờ nổ rền trời
đã làm cho nhịp sống ấy bị đảo lộn. Cảnh chiến tranh đã bắt đầu. “Một bàn cờ thế” là hình ảnh ẩn dụ nói về
thời cuộc, về cuộc chiến giằng co, ác liệt. Ba tiếng “phút sa tay” trong câu thơ “Một bàn cờ thế phút sa tay”
nói lên sự thất thủ của quân Triều đình tại thành Gia Định diễn ra quá nhanh chóng. Hai câu thơ đầu như
một thông báo về sự kiện lịch sử bi thảm diễn ra vào năm 1859. Đằng sau câu thơ là nỗi lo lắng và kinh
hoàng của nhà thơ trước thảm hoạ quê hương đất nước thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày
xéo.

Hai câu trong phần thực đối nhau, phép đảo ngữ vận dụng sắc sảo: Vị ngữ “bỏ nhà” và “mất ổ” được
đặt lên đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau thương tang tóc của nhân dân ta khi giặc Pháp tràn tới:

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,

Mất ổ, đàn chim dáo dát bay”.

Nếu viết “Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy” và “Đàn chim mất ổ dáo dát bay” thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm
sẽ không còn gì nữa! Cặp từ láy “lơ xơ” và “dáo dát” gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh
trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô
cùng thảm thương.

Hai câu luận, ý thơ được phát triển và mở rộng. Tác giả lên án tội ác của giặc Pháp càn quét, đốt nhà,
giết người, cướp của tàn phá quê hương. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng sáng tạo. Nhà thơ không viết:
“Của tiền Bến Nghé tan bọt nước” và “ Tranh ngói Đồng Nai nhuốm màu mây”, mà đã viết:


“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.

Câu thơ đã vẽ lên một vùng địa lý bao la và trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) phút chốc biến thành đống
tro tàn. Bến Nghé, Đồng Nai trong thế kỷ 19 vốn đã là vựa lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới
thuyền, thế mà chỉ trong khoảnh khắc đã bị giặc Pháp tàn phá tan hoang. Tiền của, tài sản của nhân dân ta
bị giặc cướp phá sạch “tan bọt nước”. Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút
“nhuốm màu mây”. Hai hình ảnh so sánh “tan bọt nước” và “nhuốm màu mây” là cách nói cụ thể của dân
gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra.

Ta càng xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:

“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,

Nỡ để dân đen mắc nạn nay?”

“Trang dẹp loạn” cũng là trang anh hùng hào kiệt. “Rày đâu vắng”: hôm nay, bữa nay đi đâu mà không
thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân Triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê
hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm
than. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quại
trong bom đạn giặc!

Bài thơ “Chạy giặc” được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam bộ. Phép
đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết
nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm. “Chạy giặc” là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện
đau thương của đất nước ta cuối thế kỷ 19. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc và cũng là khát vọng độc
lập, tự do.
TINH THẦN YÊU NƯỚC BÀI”CHẠY GIẶC”

Câu trả lời hay nhất - Do người đọc bình chọn
Theo tôi đối với dạng đề này ,trước hết Bạn cần xác định rõ thế nào là yêu nuớc rồi mới phân tích để thấy nội
dung yêu nước trong hai tác phẩm trên của Nguyễn Đình Chiểu .
Yêu nuớc là nhận thức rõ đất nước ta giàu đẹp, dân tộc ta , nhân dân ta anh hùng , chủ quyền của ta thiêng
liêng . Từ đó yêu quí và tự hào về đất nước, về dân tộc , về nhân dân ta , về chủ quyền của ta và căm thù sâu
sắc kẻ đã xâm lược nước ta , xâm phạm chủ quyền của ta, khiến cho dân tộc ta, nhân dân ta đau khổ .Nhân đó,
có thái độ tố cáo, lên án kẻ xâm lược , ca ngợi thái độ , hành vi bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta , của nhân dân
ta ,, động viên, khích lệ mọi người hãy hi sinh vì nước.
Nếu hiểu như trên , hẳn Bạn sẽ thấy ngay Nguyễn Đình Chiểu quả đã yêu nước.
Trong bài " Chạy giặc " , Nguyễn Đình Chiếu đã tố cáo tội ác của giặc . Cụ thể là sự xâm lược của thực dân
Pháp đã phá vỡ đời sống yên lành của nhân dân ta( câu 1 ) chủ quyền của nước ta bị đe doạ ( câu 2 ) nhân dân
phải chịu cảnh chia lìa, tan tác ( câu 3 ) môi trường thiên nhiên bị phá hoại ( câu 4 ) tài sản của nhân dân bị
tiêu tan ( câu 5 ) nhà cửa của kẻ nghèo người giàu đều bị đốt phá ( câu 6 ) trước sự bất lực của triều đình nhân
dân đã vô cùng thống khổ ( câu 7, câu 8 )
Trong bài " Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc " Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngơi phẩm chất của nghĩa quân , của nhân
dân ta chống thực dân Pháp .Cụ thể là trước khi trở thành nghĩa quân họ chỉ là là những nông dân cần cù lo
mưu sinh ( câu 3)sống nơi làng xóm, chưa hề biết đến việc chiến đấu( câu 4,5)nhưng khi giặc tới họ đã khinh
ghét ( câu 6) căm thù tột độ quân thù ( câu 7 ) với lòng yêu nước thiết tha , với lòng tự hào về truyền thống
cao đẹp của ông cha, phẩm chất trọng cương thường sẵn có, họ đã không thể chịu nổi trò bịp nợm của quân
thù nên đã tự nguyện xông vào nơi gian hiểm ( câu 8, 9) Họ đã vô cùng dũng cảm nên dù không phải là quân
đội chính quy của triều đình (câu 10 ) chưa từng được tập luyện võ nghệ , biết đến chiến lược, chiến thuật
( câu 11) thiếu cả quân trang, quân dụng ( câu 12 ) nhưng đã tự trang bị bằng những phương tiện thô sơ dùng
để mưu sinh trong đời sông thường nhật ( câu 11, 12 ) bất chấp vũ khí hiện đại của quân thù, hăng hái , dũng
cảm, chiến đấu gây kinh hoàng, tổn thất cho kẻ địch ( câu 14,15 )dù chí nguyện chưa trọn ( câu 16,17 ) nhưng
nhân dân cùng cả đất trời đã vô cùng xót thương ( câu 18) cảm thông tâm nguyện của nghĩa quân khi tự
nguyện chiến đấu ( câu 19 ) chỉ là vì muốn đền ơn đất nước ( câu 20 ) trả thù cho quan quân ( câu 21 ) không
thể sống nhục ( câu 22) sẵn sàng thác vinh ( câu 23 ) vì tấc lòng sắt son đối với Tổ quốc, chịu hy sinh ( câu
24) khiến tác giả vô cùng tự hào về phẩm chất của họ ( câu 26) nuối tiếc đất nước thiếu người cứu nước ,
khẳng định thanh danh nghiã quân lừng lẫy khắp nơi , mãi mãi được nhân dân tôn thờ ( câu 28) xứng đáng
đượcTổ quốc ghi nhớ công ơn, cháu con được hưởng phúc ấm của tổ tiên

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×