Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Phần 1: Bài giảng thân mềm ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.99 KB, 24 trang )


1


Phần 1: Bài giảng thân mềm
1. VAI TRÒ CỦA ĐỘNG VẬT THÂN MỀM ĐỐI VỚI
CON NGƯỜI VÀ THỦY VỰC
1.1. Vai trò làm thực phẩm
Động vật thân mềm là một ngành có số lượng loài rất
lớn (khoảng 130.000 loài -Thái Trần Bái, 2001; 104.000
loài - Hà Quang Hiến, 1980) chiếm khoảng 10% tổng số
các loài động vật trên trái đất, đứng thứ hai sau ngành giáp
xác (với 800.000 loài).
Ngay từ thời cổ đại, khi loài người chưa biết săn bắn thú
rừng thì đã biết bắt động vật thân mềm về ăn. Những di tích
còn lại hiện nay của người Mút - tê - riêng (Mousteriens) ở
Gibraltar (eo biển giữa Tây Ban Nha và Ma Rốc) chứng tỏ
họ đã biết đập vỡ vỏ của các loài động vật thên mềm để lấy
thịt ăn. Đến thời đại đồ đá, động vật thân mềm là nguồn
thực phẩm quan trọng và phổ biến của cư dân các vùng ven
biển do chúng sống cố định hoặc di chuyển chậm nên việc
khai thác chúng cũng dễ dàng. Ngày nay rất nhiều loài
động vật thân mềm vẫn là thức ăn ưa thích của con người,

2

có loài còn là thức ăn quý hiếm. Các loài phổ biến được
dùng là thực phẩm gồm có: Điệp, Sò, Trai, Vẹm, Mực,
Ngao Nghêu, Bàn Mai, Tu Hài, Bào Ngư, . . .Trong đó, ở
nước ta hiện nay đối tượng động vật thân mềm xuất khẩu
chính là mực, Ngao, Nghêu Bến Tre, Sò Huyết, Ốc Hương,


. . .(chiếm 5 - 7% sản lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu), thị
trường chính là Nhật, Italia, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung
Quốc, với các mặt hàng là Bạch Tuộc đông lạnh; Mực
khô; Sò, Nghêu đông lạnh; thịt Nghêu, Ốc chế biến, . . .
So sánh thành phần dinh dưỡng của thịt động vật thân mềm
với thịt một số động vật khác người ta thấy rằng, hàm
lượng prôtêin và gluxit trong thịt động vật thân mềm khá
cao, trong khi đó hàm lượng lipit lại rất thấp. Chính vì thế
mà khi chúng ta ăn thịt của chúng không ngán.

3

Bảng 1. Thành phần dinh dưỡng của thịt động vật thân
mềm và một số động vật khác
[Nguồn: Hà Quang Hiến, 1980]
Tên ĐV Protit
(%)
Lipit
(%)
Glucid
(%)
Tro (%) Canxi
(%)
Thịt lợn
Thịt bò
Thịt vịt
Thịt gà
Cua
biển
Cá chép

Thịt rùa
Mực
Ốc
ruộng
Ngao
Móng
35,2
64,8
66,0
89,6
48,6
86,1
72,5
83,0
55,1
54,0
66,0

60,8
30,6
30,0
4,6
20,0
7,6
5,0
8,5
6,3
9,0
9,1
2,1

-
0,4
-
24,1
1,0
10,0
1,5
14
20,5
13
1,9
4,5
3,6
4,2
6,2
5,2
4,5
4,5
17,4
15,0
10,8

0,02
0,02
0,04
0,05
0,04
0,13
0,50
2,40

7,14
1,55
1,10

4

tay


Nhiều nhà khoa học đã phát hiện được rằng thành phần
prôtêin ở động vật thân mềm rất phong phú, từ những phân
tử protêin có trọng lượng phân tử cao đến protêin có trọng
lượng phân tử thấp. Trong các prôtêin có trọng lượng phân
tử thấp, các peptid có hoạt tính sinh học làm giảm huyết áp
trong cơ thể.

1.2. Vai trò làm sạch môi trường
Động vật thân mềm có khả năng làm sạch môi trường, đặc
biệt là nhóm động vật thân mềm hai mảnh vỏ. Thức ăn của
chúng bao gồm thực vật phù du và cỏc hỗn hợp gồm nhiều
loại khác như mảnh vụn các chất hữu cơ, khoáng, bùn, vi

5

khuẩn, chất keo (theo Gilbert Barnale, 1991). Tammes &
Dral (1956) đã chỉ ra rằng những vật được Bivalvia giữ lại
trong quá trình lọc không lớn hơn 10 mm. Khả năng lọc
của động vật hai mảnh vỏ rất lớn. Một con Vẹm (Mytilus)
lọc 3 - 5L nước/ngày, một con Trai sông (Anadonta
pincinalis) lọc 12L nước/ngày, hay số Hầu sống dày đặc

trên 1m
2
có thể lọc 280 m
3
nước/ngày. Như vậy, bằng
phương thức dinh dưỡng ăn lọc với tỷ lệ lọc rất lớn động
vật thân mềm 2 vỏ có khả năng làm sạch môi trường và
chúng được coi là những đối tượng chính trong việc làm
cân bằng sinh thái môi trường, đặc biệt ở những vùng bị ô
nhiễm. Tuy nhiên, ở những vùng bị ô nhiễm bởi các độc tố
do sự nở hoa của tảo, động vật thân mềm ăn tảo sẽ bị nhiễm
độc tố và là nguồn gây bệnh cho con người. Các bệnh
thường gặp khi ăn phải động vật thân mềm hai vỏ là PSP -
Paralytic Shellfish Poisoning, DSP - Diarrhetic Shellfish
Poisoning, ASP - Amnesis Shellfish poisoning đã làm
nhiễm độc gần 2000 trường hợp trên toàn cầu hàng năm
(Gusafa M. Hallegraeff, 1991).
Hiện nay, trong nuôi trồng thuỷ sản để tạo thế cân bằng
sinh thái và ổn định bền vững vùng nuôi người ta nuôi kết

6

hợp các đối tượng ăn động vật như cá, tôm với các đối
tượng ăn lọc mùn bã hữu cơ như động vật thân mềm, hải
sâm. Mô hình này được gọi là “mô hình sinh thái” và hiện
nay đang được nhân rộng ở nhiều nước trên thế giới.

Nước sạch





Nước thải


Hình1. Mô hình nuôi kết hợp tôm (cá) –- bivalvia - rong
biển



Tôm (cá)

Bivalvia (Hầu,
V
ẹm)


Rong biển

7

Phytoplankton
Mùn bã hu cơ
Oỏc hửụng
Rong, caự
Veùm, hau

Hỡnh 2. Mụ hỡnh nuụi kt hp nhiu i tng trờn bin

1.3. Vai trũ trong y hc

Mt s loi ng vt thõn mm c dựng lm thuc cha
bnh nh: c bu (Pila polita) dựng tr bnh d dy, ngc
Trai tr bnh st, nang Mc cú kh nng cm mỏu. Bo
Ng va l mún n c sn va l v thuc quý cha bnh
quỏng g, c ci xo vi Bo Ng cha bnh tiu ng,
ch phm sinh hc c ch to t Bo Ng Haliotis varia
cú tỏc dng tng cng trớ nh (Nguyn Th Thỏi Võn,
2004). Ngoi ra do cú hm lng protein cao, cú cha
vitamin (c bit l vitamin B
12
) nờn nú c dựng trong
sn xut thuc b, thuc tng lc.
1.4. Vai trũ l sinh vt ch th cho mụi trng

8

Hầu hết sự có mặt của các loài động vật thân mềm là chỉ số
cho điều kiện môi trường. Vẹm được dùng để kiểm tra mức
độ ô nhiễm của hàm lượng kim loại nặng trong môi trường
biển. Biến động thành phần và số lượng quần thể là chỉ số
đánh giá cho mức độ thay đổi của môi trường sống. Một
trong các hợp chất hoá học gây ảnh hưởng nhiều lên đời
sống của động vật thân mềm đã được nghiên cứu sâu là
chất sơn trên thành tàu thuỷ (Tributyltin - TBT). Các chất
này làm ảnh hưởng lên quá trình phát triển của các loài
sống bám lên thành các con tàu như Vẹm, Giun, Sun và đặc
biệt là các loài Ốc. Các cá thể Ốc gai cái khi tiếp xúc với
chất này sẽ phát sinh cơ quan giao cấu đực có kích thước
chiêù dài tỷ lệ thuận với hàm lượng chất này trong môi
trường gọi là hiện tượng imposex. Hiện tượng này làm gây

tắc nghẽn khả năng đẻ trứng của con cái. Vì vậy, có khả
năng sử dụng loài ốc này làm chỉ thị cho mức độ ô nhiễm
chất sơn trên thành tàu thuỷ trong môi trường biển.
1.5. Tác hại của một số loài động vật thân mềm độc hại
Bên cạnh những mặt có lợi, nhiều loài động vật thân
mềm là sinh vật gây hại. Một số loài Ốc ăn chồi non thực

9

vật gây tác hại đến mùa màng như ốc Sên (Achatina
fulica); Ốc bươu vàng (Pomacea sp.), một số loài sống đục
khoét thường gây hại cho các công trình thủy, thuyền bè
như Teredo, Pholas, Bankia hay một số loài sống bám làm
tàu thuyền hư vỏ, vận tốc và tải trọng giảm như hà, sun,
một số bám vào các đảo ngầm làm cản trở giao thông
đường biển.
Đã có một số người đã chết sau khi ăn thịt ĐVTM.
Độc tố trong thịt ĐVTM có thể gây chết ngay sau khi ăn
hoặc tồn tại và gây độc mãn tính trong thời gian dài. Các
nạn nhân ăn phải độc tố thường có triệu chứng nôn mửa
hoặc tiêu chảy. Các độc tố này thường được sản sinh ra từ
các loài tảo phù du gọi là các loài tảo độc thuộc nhóm
dinoflagellate: Gonyaulax, Protogonyaulax, Gymnodinium,
Pyrodinium, Nocticula, Ceratium, Protoperidinium .v.v
(M. Mohan Joseph, 1998). Điệp, Hầu, Vẹm, Ngao có thể
tiêu thụ các loài tảo này. Tuy nhiên chỉ một vài loài tảo
thuộc nhóm này có khả năng sinh độc tố. Khả năng sinh
độc tố tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường. Vấn đề này
đang được nghiên cứu. Trong trường hợp tảo phát triển


10

nhanh – tảo nở hoa – thịt ĐVTM tiêu thụ một lượng lớn tảo
nở hoa này sẽ rất dễ gây độc.
Loài Ốc có nọc độc cần được biết đến như nhóm họ
Ốc nón. Nọc càng độc hơn khi các loài này sử dụng cá làm
thức ăn. Bản chất của nọc độc là các loại protein, các loại
protein này có tác dụng làm tê liệt hệ thần kinh. Tất cả các
loài ốc nón đã biết có khả năng sản sinh ra các loại peptid
có tên chung là conotoxin. Nhiều nghiên cứu trên
conotoxin về trật tự sắp xếp, cơ chế tổng hợp, cấu trúc
gen đã xác định conotoxin cản trở hoạt động của protein
trên màng tế bào, ngăn chặn việc truyền xung động thần
kinh. Thuộc tính này làm cho conotoxin được sử dụng rộng
rãi trong ngành hoá sinh học. Đã có khoảng 200 bài báo đề
cập đến conotoxin. Mặc dù đã có khoảng 100 người đã bị
Conus tấn công và 35 người đã chết nhưng có ít nhất 3 loại
conotoxin có thể được sử dụng làm giảm đau và chữa trị
vết thương. Số lượng các giải thưởng được công nhận về
Conotoxin đã đạt đến con số 50 (Alan Kohn, 2003). Gần
đây người ta đã phát hiện ra loài mực tuộc đốm xanh có thể
gây chết người tại Bình Thuận.

11

2. HIỆN TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHỀ
NUÔI ĐỘNG VẬT THÂN MỀM
2.1. Trên thế giới
Động vật thân mềm được xem là đối tượng thích hợp
cho phát triển nuôi biển, một trong những xu thế của Nuôi

trồng Thủy sản (NTTS) thế kỷ 21. Trong sản lượng NTTS
trên thế giới thu được, ĐVTM chiếm tỷ trọng khá lớn. Theo
thống kê của FAO năm 2008, ĐVTM chiếm 27% về sản
lượng, 15% về giá trị tổng sản lượng.
Các nước có nghề nuôi động vật thân mềm phát triển
là Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, CHDCND Triều Tiên, Tây
Ban Nha, Pháp và Italia. Các đối tượng nuôi chính là Hầu,
Vẹm, Sò, Điệp, Ngao, Bào Ngư, ốc…
Nghiên cứu về động vật thân mềm đang đi theo chiều
hướng chuyên sâu kể cả về lý thuyết cơ bản và nghiên cứu
ứng dụng.Việc đi sâu nghiên cứu các cơ quan và tổ chức
cấu tạo cơ thể từng nhóm loài bằng các kỹ thuật hiện đại
đang được thực hiện phổ biến ở các nước phát triển. Bằng
các đặc trưng cơ bản người ta đang chuẩn hoá việc phân
loại bằng việc xây dựng các phần mềm để sử dụng trong

12

phân loại. Công việc này đòi hỏi rất nhiều kỹ năng trong đó
việc kết hợp giữa kiến thức phân loại truyền thống và kỹ
thuật sử dụng máy tính, lập trình, được xem là không thể
thiếu. Việc sử dụng kỹ thuật phân tử trong việc nghiên cứu
cấu trúc quần thể được xem là phù hợp nhất cho cả nghiên
cứu lý thuyết (cơ sở tiến hoá) và thực hành (quản lý và bảo
vệ nguồn lợi tự nhiên). Các tác giả Crawford, 1984; Daly,
1981; Richardson, 1983 đã sử dụng phương pháp này để
xác định quần thể phụ (subpopulation) hoặc quần thể có
liên quan (neighbour hood) với quần thể chính để đánh giá
trữ lượng quần thể hoặc nghiên cứu tạo quần thể. Nghiên
cứu quần thể sẽ giúp cho việc nghiên cứu về sinh học và

quản lý nguồn lợi một cách có hiệu quả hơn. So với
phương pháp nghiên cứu quần thể truyền thống (đánh dấu
cá thể, thả ra tự nhiên và đánh bắt lại), phương pháp này có
thể nghiên cứu được ở cả những quần thể có số lượng cá
thể rất nhỏ (động vật quý hiếm) hoặc quần thể có mật độ
quá cao (khả năng bắt lại các cá thể đánh dấu thấp), chi phí
nghiên cứu thấp, thời gian nghiên cứu ngắn, độ chính xác
cao hơn.

13

Nghiên cứu tạo đột biến trên động vật thân mềm hai vỏ để
tạo ra thế hệ mới có tính di truyền ưu thế như tăng trưởng
nhanh, sức sống cao, kích thước lớn, chất lượng cao cũng
đang là xu thế nghiên cứu của nhiều nước đặc biệt là Nhật
Bản, Trung Quốc.
Công nghệ sinh học đang được xem là thế mạnh cạnh tranh
của nhiều quốc gia, đặc biệt các công nghệ tạo giống và di
truyền chọn giống. Các nước có nghề nuôi động vật thân
mềm phát triển như Trung Quốc, Pháp, Tây Ban Nha, Mỹ,
Nhật, Hàn Quốc, đều là những nước đạt được trình độ
công nghệ cao trong lĩnh vực sinh học. Vì vậy, chú trọng
nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học cần phải được
ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển nuôi ĐVTM ở
nước ta.
2.2. Ở Việt Nam
2.2.1. Tiềm năng và hiện trạng
Việt Nam là một quốc gia có 3.260 km bờ biển chạy dọc
theo hướng Bắc-Nam, từ Móng Cái đến mũi Cà Mau. Với
tổng diện tích vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km

2
,
trong đó có khoảng 710.000 ha diện tích tiềm năng phát

14

triển nuôi trồng thuỷ sản vùng triều. Bên cạnh đó có trên
3.000 hòn đảo lớn nhỏ, địa hình phức tạp chạy dọc ven biển
và 112 cửa sông chính đổ trục tiếp ra biển. Điều này đã tạo
ra nhiều đầm, phá, cửa sông, vũng, vịnh, các ao đầm thuộc
vùng triều. Đây là tiềm năng rất lớn cho việc phát triển nuôi
trồng thuỷ sản ở vùng ven biển Việt Nam nói chung và
nghề nuôi động vật thân mềm nói riêng.
Việt nam là một nước nhiệt đới có thành phần loài các đối
tượng thuỷ sản nói chung và động vật thân mềm nói riêng
rất phong phú và đa dạng. Theo Jorgen Hyllenberg (2003),
có khoảng 2200 loài động vật thân mềm thuộc 700 giống
của 200 họ với trên 80 loài có giá trị kinh tế cao, chủ yếu
tập trung ở các họ Sò (Arcidae), Ngao (Vereridae), Phi
(Psammobiidae), Bào ngư Halitidae), Hầu (Ostreidae)
Vẹm, Tu hài…Trong đó, hiện nay có khoảng hơn 25 loài
khác nhau có thể đưa vào nuôi ở các vùng ven biển; chúng
phân bố ở hầu hết các tỉnh ven biển. Tuy nhiên, mỗi vùng
có nhưng loài đặc thù riêng.
Với tổng diện tích tiềm năng có thể nuôi động vật thân
mềm trong cả nước ước tính là 56.000 ha. Cho đến nay,

15

diện tích đã nuôi và năng suất, sản lượng nuôi đạt được qua

các năm chưa ổn định. Có sự phát triển mạnh vào những
năm 2002, sau đó có phần chững lại. Đến năm 2008 tổng
diện tích nuôi cả nước (thống kê chưa đầy đủ) là 20.222 ha
với sản lượng đạt 93.943 tấn.
Bảng 2. Diễn biến diện tích, năng suất và sản lượng ĐVTM
nuôi qua các năm
Năm 2000 2002 2007 2008 Chỉ
tiêu
2010
Diện tích nuôi
(ha)
18.340 24.205 - 20.22
2
20.000
Sản lượng
(tấn)
76.290 124.768

230.0
00
93.94
3
380.00
0
Năng suất
(tấn/ha)
4,2 5,2 - - 17
(Nguồn: Bộ Thủy sản 2000-2002, Cục Nuôi trồng thủy sản
2008)


16

Bảng 3. Các tỉnh và diện tích, sản lượng ĐVTM nuôi năm
2008
Địa phương Diện tích (ha)
Sản lượng
(tấn)
Hải phòng 298 1.981
Nam Định 1410 15.000
Ninh Binh 47 800
Thái Bình - -
Thanh Hoá 500 3.700
Nghệ An
Hà Tĩnh 200
TT Huế 100 203
Phú Yên - 20
Khánh Hòa 445 2.500
Ninh Thuận 17 85

17

Vũng Tàu 295 1.093
Bến Tre 9.600 7.150
Trà Vinh 2.801 3.384
Bạc Liêu 1.309 7.700
Cà Mau 2.500 10.412
Kiên Giang 10.300 39.915
Cả nước 20.222 93.943
(Nguồn: Cục NTTS, tính toán theo số liệu báo cáo của các
tỉnh)


* Đối tượng nuôi mang tính đặc thù của từng vùng. Trong
đó:
- Ngao, nghêu được tập trung nuôi ở các tỉnh Thái
Bình, Nam Định, Thanh Hoá, các tỉnh thuộc Đồng bằng
châu thổ sông Cửu Long như Tiền Giang, Bến Tre, Trà
Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và vùng cửa sông
Đồng Nai như Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh).

18

- Nuôi sò huyết tại Quảng Ninh, Kiên Giang và Ninh
Thuận.
- Nuôi trai lấy ngọc tập trung ở Quảng Ninh, Khánh
Hoà, Phú Yên và huyện đảo Phú Quốc.
- Nuôi ốc hương tập trung ở Bình Thuận, Khánh Hoà,
Phú Yên.
- Nuôi hàu tập trung ở Quảng Ninh, Hải Phòng,
Khánh Hoà, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Cần Giờ, Bà Rịa
Vũng Tàu, Nghệ An.
- Nuôi vẹm xanh tại Đầm Năng Cô (Thừa Thiên
Huế), Khánh Hoà, Quảng Ninh, Bình Định.
* Hình thức sử dụng mặt nước rất phong phú từ nuôi bãi
triều, nuôi cửa sông, lạch triều, đầm phá, vùng biển mở,
vùng biển kín, eo vịnh, các đảo và các ao đầm, Loại hình
nuôi cũng phong phú như: nuôi bãi, nuôi đá, nuôi cọc, nuôi
giàn cố định, nuôi giàn nổi, nuôi lồng, nuôI ao, nuôi khay,
nuôi bằng tấm procement, lốp xe,
Nhìn chung, nuôi động vật thân mềm ở Việt Nam
đang có xu hướng phát triển mạnh, đặc biệt là nuôi Nghêu,

Ngao, Sò Huyết, ốc Hương, Vẹm xanh. Chiến lược ngành

19

thuỷ sản đến 2010 là phát triển nuôi động vật thân mềm với
diện tích 20.000 ha, năng suất 17 tấn/ha đạt sản lượng
380.000 tấn, đạt giá trị xuất khẩu 350 triệu USD và tạo việc
làm cho 15.000 người. Động vật thân mềm đang được xem
là đối tượng ưu thế trong chiến lược phát triển nuôi biển
của nước ta hiện nay.
2.2.2. Một số hướng ngiên cứu và phát triển nghề nuôi
động vật thân mềm
- Hướng nghiên cứu trong thời gian tới cần cân đối tỷ
lệ giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Trong
nghiên cứu cơ bản cần tập trung những vấn đề sau:
+ Về đa dạng sinh học ĐVTM biển Việt Nam: Nghiên cứu
đa dạng sinh học đã có nhiều kết quả nhưng cũng chưa
được quan tâm đúng mức, quá trình nghiên cứu còn gián
đoạn, nhiều mẫu vật thu thập, lưu giữ chưa được phân loại
theo tiêu chuẩn quốc tế. Trong những năm tới, cần phát
hiện và cập nhật thêm các loài ĐVTM có ở biển Việt Nam
nhất là các lòai có kích thước nhỏ. Nghiên cứu thành phần
các loài ĐVTM có trong lớp trầm tích để làm chỉ thị cho
việc khai thác dầu mỏ là hướng quan tâm mới của nhà nước

20

nói chung và Trung tâm nghiên cứu phát triển du lịch an
toàn và môi trường dầu khí nói riêng. Nhiệm vụ này được
giao cho các nhà khoa học ở các Viện, Trường như Viện

Hải Dương học Nha Trang, Viện tài nguyên và môi trường
biển, Viện Hải sản Hải Phòng. Các Viện, Trường và các cá
nhân khác có thể nghiên cứu bổ sung nếu có chuyên gia về
lĩnh vực này.
+Về nghiên cứu thành phần sinh hoá: ứng dụng kết quả
nghiên cứu trong việc khai thác nguồn lợi ĐVTM theo
hướng công nghệ cao, đó là tách chiết các chất có hoạt tính
sinh học phục vụ cho các ngành y, dược, thực phẩm chức
năng, từ nguồn nguyên liệu ĐVM nuôi. Trong lĩnh vực này
cần phối hợp chặt chẽ giữa các nhà khoa học ở các Viện
ngoài ngành như Viện CNSH, Viện hoá học các hợp chất
thiên nhiên, Viện Hải Dương học Nha Trang, Viện Khoa
học thể dục thể thao, Viện y học Dân tộc cổ truyền với các
Viện trong ngành như Viện NCNTTS I, II, III, Viện Hải
sản Hải Phòng. Phát triển hướng đi này sẽ thúc đây nghề
nuôi các đối tượng làm nguyên liệu chế xuất các chất có
hoạt tính sinh học, nâng cao giá trị sử dụng của các lòai

21

ĐVTM và phát triển công nghệ “high tech” trong lĩnh vực
NTTS.
+ Nghiên cứu cải thiện di truyền các đối tượng nuôi nhằm
tăng năng suất, rút ngắn thời gian nuôi và tăng khả năng
chống chịu với sự thay đổi của môi trường. Nghiên cứu tạo
giống tam bội thể cho các đối tượng như Điệp, Hầu, Bào
Ngư. Nhiệm vụ này cân có sự phối hợp giữa các nhà khoa
học của Viện CNSH, trường Đại học Quốc gia với Viện
NCNTTS I, II, III của Bộ Thuỷ Sản.
Trong nghiên cứu ứng dụng cần tập trung những vấn đề

sau:
+ Về nghiên cứu sinh học, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi
ĐVTM, cần chú trọng đến vấn đề sản xuất con giống cho
các đối tượng nuôi xuất khẩu như Nghêu, Ngao, Ốc hương,
Bào Ngư. Xác định quy mô và cách thức giải quyết con
giống cho thích hợp với từng đối tượng, đặc biệt là các đối
tượng cần sản lượng giống lớn. Cần phát triển các mô hình
bền vững và nhân rộng đến các hộ nông dân, doanh nghiệp.
Chuyển giao công nghệ những đối tượng đã nghiên cứu
thành công. Chú trọng việc đầu tư trang thiết bị và hệ thống

22

công trình hiện đại để tăng tỷ lệ sống và hiệu quả sản xuất
giống và nuôi. Kết hợp giữa các biện pháp nuôi truyền
thống và và nuôi thâm canh năng suất cao nhằm duy trì ổn
định và tăng hiệu quả nuôi ĐVTM. Nghiên cứu đặc điểm
sinh thái và quy hoạch các vùng nuôi bảo tồn, các bãi đẻ tự
nhiên để duy trì sản lượng giống tự nhiên nhất là đối với
các đối tượng có nhu cầu giống lớn và khả năng giải quyết
con giống nhân tạo chưa chủ động. Xây dựng kế hoạch và
giải pháp thực hiện việc phục hồi tái tạo quần đàn tự nhiên
các loài theo hình thức thả giống ra biển.
+ Về hướng nghiên cứu dinh dưỡng, thức ăn và bệnh
ĐVTM, cần tập trung nghiên cứu thành phần dinh dưỡng,
nhu cầu thức ăn, các tác nhân gây bệnh trên các đối tượng
ĐVTM nuôi như ốc hương, Bào Ngư, Vẹm, Hầu, Mực,
Nghêu, Ngao. Xây dựng qui trình sản xuất thức ăn công
nghiệp cho các loài nuôi có giá trị kinh tế cao như Ốc
hương, Bào Ngư nhằm phát triển nuôi công nghiệp các đối

tượng trên và hạn chế ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu các
biện pháp phòng và trị bệnh, các mối quan hệ giữa bệnh và
môi trường để hạn chế rủi ro trong sản xuất giống và nuôi
thương phẩm. Nghiên cứu độc tố trên ĐVTM cần chú trọng

23

hơn nữa để đảm bảo ATVS thực phẩm đặc biệt các đối
tượng có khả năng tích luỹ độc tố cao như Vẹm,
Hầu,…nhằm hạn chế các rủi ro do bị ngộ độc thức ăn là
ĐVTM. Chú trọng nghiên cứu sử dụng các loại thuốc đông
y trong việc phòng và trị bệnh cho ĐVTM. Các nhà khoa
học thuộc Viện CNSH, Viện HDH Nha Trang, Viện Y học
cổ truyền, Viện NCNTTS I, II, III và các trường Đại học
cần liên kết với nhau để thực hiện nhiệm vụ này.
- Mốt số định hướng phát triển động vật thân mềm
ở Việt Nam:
+ Cần phát triển nuôi các đối tượng ĐVTM tạo sản
phẩm xuất khẩu theo các phương thức nuôi quản canh cải
tiến và bán thâm canh, đồng thời phát triển nuôi quảng
canh nhằm sử dụng phù hợp nguồn lợi ĐVTM giống tự
nhiên nhằm cung cấp sản phẩm tiêu dùng trong nước.
+ Di giống, thuần giống các đối tượng giống mới có chất
lượng, giá trị cao vào cơ cấu nguồn giống ĐVTM ở nước ta
nhằm đa dạng hoá đối tượng nuôi và hình thức nuôi.
+ Phát triển công nghệ sinh học ĐVTM là hướng ưu
tiên hàng đầu nhằm rút ngắng khoảng cách về trình độ công

24


nghệ, đặc biệt trong công nghệ sản xuất giống nhân tạo,
thức ăn (trong giai đoạn ương nuôi là chính), phòng trừ
dịch bệnh.
+ Phát triển nuôi ĐVTM dựa trên nguyên tắc bảo đảm bền
vững về mặt sinh thái môi trường, xã hội, kinh tế và chính
trị an ninh quốc phòng.


×