ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, KỸ THUẬT SẢN XUẤT
GIỐNG VÀ NUÔI ĐỘNG VẬT THÂN MỀM HAI
MẢNH VỎ
2.1. Một số đặc điểm sinh học
Có khoảng 7000 loài Bivalvia phân bố rộng ở các
vùng sinh thái khác nhau, từ vùng biển nông đến vùng sâu
nhất của đại dương nhưng những loài có giá trị kinh tế là
đối tượng nuôi trồng chủ yếu thuộc một vài họ gồm
Ostreidae, Mytilidae, Pectinidae, Arcidae, Triđacniae,
Mactridae, Phần này mô tả đặc điểm sinh học cơ bản
của một số loài trong các họ kể trên.
tốt hơn môi trường nghèo thức ăn. Vào kỳ nước cường (đặc
biệt là lúc nước lên) Hầu sinh sản tốt hơn kỳ nước kém (đặc
biệt khi nước xuống).
2.1.1. Hầu (Oyster)
Hầu là động vật thân mềm 2 vỏ có giá trị dinh dưỡng
cao, chứa 45-75% protein, 7 - 11% lipid, 19 - 38% glucid,
nhiều chất khoáng, đại vitamin và các chất khác. Thịt Hầu
có thể ăn sống, nấu chín, phơi khô hay đóng hộp. Thịt một
số loài Hầu còn dùng làm nguyên liệu chế biến thuốc như
loài Crassostrea gigas. Vỏ Hầu dùng để nung vôi, làm bột
phấn, làm vật bám để nuôi Hầu và các hải sản khác.
Họ Hầu gồm 2 giống là Ostrea và Crassostrea với tất cả
khoảng 100 loài, phân bố rộng khắp thế giới từ hàn đới, ôn
đới, nhiệt đới, đâu đâu cũng có dấu vết của chúng . Ở
nước ta có trên 20 loài Hầu phân bố trong đó có các loài có
giá trị kinh tế cao như Hầu cửa sông Crassostrea rivularis,
Hầu sú Ostrea cucullata, Hầu belcheri C. belcheri
Cơ thể Hầu được bao bọc bởi 2 vỏ chắc cứng, vỏ trái lớn
hơn và thường bám chắc vào nền đá, có dạng hình chén. Vỏ
phải nhỏ và phẳng, đỉnh vỏ ở phía trên có bản lề sừng gắn
giữ 2 vỏ với nhau. Vỏ Hâù có 3 lớp: Lớp sừng ngoài
mỏng, dễ bóc, cấu trúc toàn bộ là protein. Lớp giữa dày
nhất là tầng đá vôi với cấu trúc gồm carbonate calcium kết
tinh gắn chắc trên thể protein. Lớp trong cùng mỏng, bóng,
sáng và rất cứng là tầng xà cừ. Hình dạng của vỏ rất khác
nhau phụ thuộc vào môi trường sinh sống. Nếu Hầu sống
riêng rẽ trên nền đáy mềm thì vỏ nhẵn và kéo dài. Nếu phân
bố tập trung, vỏ có hình dạng méo mó. Hầu sống ở vùng có
độ mặn cao vỏ cứng hơn Hầu sống ở vùng có độ mặn thấp.
Do khả năng thích ứng với điều kiện sống của mỗi loại
khác nhau nên phân bố chúng cũng khác nhau. Đứng về
mặt yêu cầu sinh thái học chúng ta chia làm hai loại phân
bố: Phân bố địa lý và phân bố thẳng đứng. Diện phân bố
địa lý (hay còn gọi là phân bố mặt ngang) rộng hay hẹp chủ
yếu là do khả năng thích ứng với độ muối và nhiệt độ mạnh
hay yếu của từng loài Hầu quyết định, nếu năng lực thích
ứng với nhiệt độ mạnh thì có thể phân bố ở nhiều vùng khí
hậu khác nhau, thí dụ như Hầu sú (O. cucullata) phân bố từ
biển nhiệt đới (Ấn Độ) lên tới biển Á Hàn đới (Bắc Hải).
Nếu năng lực thích ứng với độ muối mạnh thì có thể phân
bố từ những vùng độ muối thấp (cửa sông) cho tới các
vùng có độ muối cao (biển khơi). Ngược lại, loài có tính
nhiệt hẹp hay muối hẹp thì diện phân bố cũng hẹp. Ví dụ
Hầu vảy dày (O. densellamellosa) chỉ sống ở độ muối cao,
loài Hầu cửa sông (C. rivularis) chỉ sống nơi có độ muối
thấp…Sự phân bố thẳng đứng của Hầu khác nhau tuỳ theo
chủng loại, ví dụ Hầu vỏ dày (O. densellamellosa) là loài
sống ở tầng nước sâu, Hầu sú (O. cucullata) là loại sống
vùng bãi triều, Hầu sông (C. rivularis) là loại sống được từ
vùng bãi triều cho tới độ sâu 7 - 10 m nước. Yêu cầu phân
bố thẳng đứng của các loài Hầu tương đối chặt chẽ, nếu ta
làm xáo trộn sự phân bố của chúng, thí dụ như đem Hầu
vảy dày nuôi ở vùng bãi triều thì chỉ trong một thời gian
ngắn sẽ thấy chúng gầy yếu, sinh trưởng kém.
Giới hạn sinh trưởng và chủng loại Hầu: Hầu có nhiều loại
lớn nhỏ khác nhau, Hầu (O. pestigris), Hầu răng cưa O.
crenulifera) và Hầu sò (O. glomerata) ít khi lớn quá 4cm.
Ngược lại, Hầu lưỡi (O. hyotis), Hầu sông (C. rivularis),
Hầu ống (C. gigas) đều là những loại Hầu to. Trong cùng
một loài Hầu, cùng một điều kiện sống nhưng sức lớn cũng
khác nhau, Hầu sú (O. cuculata) 1 tuổi nuôi cùng một nơi
có con dài 68 mm, cao 55 mm, có con chỉ dài 53,8 mm, cao
43,2 mm. Do đó, trong chọn giống nuôi cần chú ý.
Sự sinh trưởng của Hầu có thể chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn phát triển vỏ: chia làm 2 thời kỳđầu và cuối. Ở
thời kỳ đầu, tốc độ phát triển của vỏ rất nhanh, chỉ trong 3
tháng vỏ đã dài lên 50 – 85 mm. Trong thời kỳ cuối, Hầu
tích luỹ nhiều vật chất, trọng lượng thân tăng lên dần để
chuẩn bị qua đông và tạo điều kiện phát triển sinh dục vào
mùa xuân. Tốc độ phát triển vỏ giảm giảm đi rất nhiều,
tổng cộng hai năm tám tháng sau 3 tháng của giai đoạn dầu,
vỏ chỉ dài thêm 7,1mm và cao thêm 2,1mm – trung bình tốc
độ sinh trưởng của từng tháng so với giai đoạn đầu giảm đi
trên 18 lần.
+ Giai đoạn trưởng thành: Giai đoạn trưởng thành của Hầu
bắt đầu 1 năm sau khi Hầu bám. Với mỗi loài Hầu khác
nhau thì có tốc độ phát triển khác nhau: Giai đoạn này sự
sinh trưởng đã Hầu như kết thúc dù điều kiện sống hết sức
thuận lợi (với Hầu sú). Một số loài Hầu có kích thước lớn,
cần phải có nhiều thời gian để xây dựng cơ thể nên giai
đoạn sinh trưởng kéo dài (Hầu sông).
Sự sinh trưởng của Hầu thay đổi theo mùa do điều kiện
ngoại cảnh thay đổi. Sinh trưởng của Hầu thường chia làm
4 mùa: mùa đông vỏ hàu gần như không lớn. Mùa sinh
trưởng vào những tháng xuân ấm áp, thức ăn đầy đủ, Hầu
lớn nhanh. Mùa sinh sản, Hầu sinh trưởng kém vì bị việc
sinh sản tiêu hao năng lượng. Mùa bồi dưỡng sau khi sinh
sản để khôi phục năng lượng đã mất và Hầu lớn nhanh.
Sinh sản và phát triển:
- Giới tính và phương thức sinh sản: Giống Crassostrea có
giới tính phân biệt. Tuyến sinh dục cái chứa trứng, tuyến
sinh dục đực chứa tinh trùng. Khi thành thục sinh dục,
trứng và tinh trùng được phóng ra ngoài và thụ tinh trong
nước. Lỗ sinh dục là nơi trứng và tinh trùng thoát ra ngoài
nằm phía trên mang. Giống Ostrea trước khi phóng ra
ngoài đi qua buồng thụ tinh. Tinh trùng của con đực đẻ gần
kề theo dòng chảy được hút vào buồng thụ tinh. Trứng thụ
tinh được ấp trong buồng thụ tinh khoảng 10 ngày trước khi
thoát ra ngoài dạng ấu trùng. Những loài ấp trứng như trên
gọi là loài đẻ ấu trùng (larviparous). Các loài thuộc giống
Crassostrea có thể chuyển giới tính giữa các mùa sinh sản
nhưng giống Ostrea giới tính thay đổi luân phiên một lần
hoặc vài lần trong một mùa sinh sản, phụ thuộc vào nhiệt
độ và điểm kiện thức ăn nhưng tỷ lệ đực cái thường cân
bằng nhau.
- Mùa vụ sinh sản: Hầu nói chung sau một năm đã
thành thục và bắt đầu đẻ được. Mùa đẻ hàng năm khác
nhau tuỳ theo loài và ngay trong cùng một loài mùa đẻ
cũng khác nhau tuỳ nơi phân bố. Ở nước ta Hầu sông có thể
sinh sản rải rác quanh năm nhưng nhìn chung tập trung vào
2 vụ chính. Vụ 1 tháng 4 đến tháng 6, vụ 2 tháng 8 đến
tháng 10.
- Sức sinh sản: Số lượng trứng của các loài đẻ trứng
rất lớn (Hầu Crassostrea virginica 15.000.000 đến
115.000.000 trứng, Hầu ống C. gigas 55.800.000 trứng) vì
sau khi đẻ phải trải qua nhiều giai đoạn thụ tinh, phân cắt,
phát triển thành ấu trùng. Trong quá trình này Hầu thường
phải chịu ảnh hưởng xấu của nhiều nhân tố ngoại cảnh,
đồng thời địch hại cũng nhiều, nên tỷ lệ trứng phát triển
thành Hầu con thường thấp. Đây là một cách thích nghi để
bảo vệ nòi giống. Hầu ấu sinh, trứng được bảo vệ trong cơ
thể mẹ trong giai đoạn đầu nên lượng trứng đẻ ít hơn Hầu
noãn sinh.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh sản của Hầu: Hoạt động
sinh sản của Hầu chịu ảnh hưởng nhiều nhân tố ngoại cảnh,
đặc biệt là nhiệt độ và độ mặn của nước. Thí nghiệm của
Loosanoff về ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của
tuyến sinh dục Hầu C.virginica cho thấy ở nhiệt độ dưới
10
o
C thì sau 35 ngày TSD vẫn không phát triển, giới hạn
nhiệt độ thấp nhất để tuyến sinh dục thành thục là 15,8
o
C,
nhiệt độ càng cao hơn, thời gian thành thục càng ngắn. ở
nhiệt độ 20
o
C và 25
o
C chỉ 5 ngày TSD đã có thể thành
thục, ở 30
o
C chỉ sau 3 ngày đã thấy có tinh trùng và trứng
thành thục. Nhiệt độ cần thiết cho Hầu đẻ thấp nhất đối với
Hầu ống là 25
o
C, Hầu sú 17 – 18
o
C.
Bảng 2. Quan hệ giữa nhiệt độ nước và sự thành thục của
tuyến sinh dục (theo Loosanoff)
Nhiệt độ thí nghiệm (
0
C)
15 20 25 30
Số
ngày
thí
nghi
ệm
(đã thành
th
ục) (%)
không
thành th
ục
S
ố Hầu đẻ
(%)
(đã thành
th
ục) (%)
không
thành th
ục
S
ố Hầu đẻ
(%)
(đã thành
không
thành th
ục
S
ố Hầu đẻ
(%)
(đã thành
th
ục) (
%)
không
thành th
ục
S
ố Hầu đẻ
(%)
3 0 18 82
4 58 42
5 0 28 72 0 36 6
6
38 20 42
6 0 36 6
6
38 20 42
7 24 40 3
6
79 6 24
8 4 36 60 20 60 2
0
9 32 42 2
6
10 10
90
26 32 42 60 30 1
0
13 32 48 20
15 12
8 42 36 22
18 52 40 8
20 18
82
60 38 2
25 44 56
50
50 0
30 70
30
35 6 68
26
40 6 76
18
45 12 72
16
55 40 60
0
Độ mặn cũng có quan hệ chặt chẽ đến sinh sản của Hầu.
Khí hậu vùng nhiệt đới quanh năm thích hợp cho Hầu sú
sinh sản (cần có nhiệt độ 17
o
C) nhưng ở ấn Độ Hầu sú chỉ
đẻ từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau, còn tháng 7, 8 tuy
TSD thành thục nhưng vẫn không đẻ vì lúc đó mùa mưa
xuống độ mặn giảm không thích hợp cho sinh sản của nó. ở
nước ta, Hầu sông có mùa sinh sản từ tháng 4 đến tháng 9,
trong các tháng này Hầu đẻ rộ nhất vào thời kỳ nhiệt độ
nước cao nhất trong toàn năm (trung bình 30
o
C) nhưng độ
mặn lại thấp nhất trong toàn năm (trung bình 5 - 10 ‰).
Ngoài ra thức ăn và thuỷ triều cũng có ảnh hưởng đến sinh
sản của Hầu. Trong môi trường giàu thức ăn, Hầu thành
thục sớm và sinh sản
Hình 11. Sơ đồ biểu diễn các giai đoạn phôi và ấu trùng
Hầu sú O. cucullata
Chú thích: 1-2_ Trứng chưa thụ tinh; 3-4_ Cực thể thứ nhất
và thứ hai xuất hiện ở trứng đã thụ tinh; 5-7_ Quá trình
phân cắt lần thứ nhất và sự thò thụt của cực Điệp; 8-9_
Phân cắt lần thứ hai; 10_ Phôi tang; 11_ Phôi nang; 12_
Nguyên trường phôi; 13_ ấu trùng bánh xe bước vào sơ kỳ
ấu trùng đĩa bơi; 14_ ấu trùng đĩa bơi; 15_ ấu trùng nề
thẳng; 16_ ấu trùng sắp bám, chân đã xuất hiện; 17_ Hầu
mới bám; 18_ Hầu đã bám được vài ngày (vỏ ngoài 1mm)
Các tác nhân ảnh hưởng đến phát triển phôi và ấu
trùng Hầu:
- Nhiệt độ: Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
phôi và ấu trùng Hầu và tuỳ theo loài. Hầu ống thích hợp
với nhiệt độ 23 – 26
o
C nếu thấp hơn 15
o
C hay cao hơn
30
o
C thì trứng phát triển không bình thường. Hầu sú ở Ấn
Độ thích hợp với nhiệt độ 27,5 – 29,5
o
C, ở Trung Quốc 21
– 26,5
o
C, Hầu sông khoảng 25 – 28
o
C.
- Độ mặn: Độ mặn thích hợp cho sự phát triển phôi và ấu
trùng tương tự độ mặn ở nơi Hầu mẹ sinh sống. Chủng loại
khác nhau, độ mặn cũng khác nhau. Hầu ống ở độ mặn cao,
phát triển nhanh, độ mặn thấp phát triển chậm. Hầu sông ở
độ mặn cao hơn 20‰ và thấp hơn 5‰ phôi có hiện tượng
mất nước và trương nước, độ mặn thích hợp là từ 8 - 15ppt
- Muối vô cơ: Một số muối vô cơ trong nước như: KCL,
CaCL
2
, MgCL
2
nếu thiếu có thể làm cho tỷ lệ trứng thụ
tinh bị giảm thấp tới 20 – 30%, ngược lại nếu có quá thừa
thì có thể làm cho tỷ lệ trứng thụ tinh bị giảm thấp hơn nữa.
2.1.2. Vẹm (mussels)
Họ Vẹm Mytilidae là một họ lớn trong lớp hai mảnh vỏ
Bivalvia với khoảng 75 loài, trong đó có 6 loài có thể nuôi.
Ở Việt Nam có khoảng 10 loài, trong đó giá trị kinh tế cao
nhất là Vẹm xanh (Perna viridis). Theo phân tích thành
phần dinh dưỡng, trong thịt Vẹm chứa 53,5% protein,
17,6% glucid, 8,6% chất tro.
Hình 12. Hình dạng và cấu tạo của Vẹm vỏ xanh
Vỏ Vẹm có hình quả muỗm (hoặc quả xoài, phần đỉnh
nhọn, phần sau tròn). Phần lớn 2 vỏ bằng nhau nhưng hai
cạnh không bằng nhau. Vòng sinh trưởng trên mặt vỏ nhỏ,
dày, khá rõ. Mặt vỏ thường màu xanh đen, mặt trong màu
trắng bạc, nhẵn bóng, phía ngoài mép có màu xanh nhạt.
Cấu tạo vỏ cũng gồm 3 lớp giống như các loài Bivalvia
khác. Chân màu nâu tím hay vàng tím như một chiếc gậy
ngắn nằm ở phía bụng bên dưới xúc biện. Mặt bụng của
chân có một lỗ tuyến tơ chân tiết ra chất bám. Vẹm có khả
năng tự cắt tơ chân và tiết ra tơ chân mới, vì vậy nó có thể
tự thay đổi vị trí bám của chúng. Tuy nhiên quá trình này
chỉ xảy ra ở Vẹm con. Vẹm trưởng thành tơ chân thường
rất chắc khi bám vào giá thể.
Vẹm vỏ xanh là động vật sống ở vùng biển ấm, nhiệt đới và
cận nhiệt đới. Trên thế giới chúng phân bố ở vùng biển
Srilanca, Quảng Đông - Trung Quốc, Indonesia, Malysia,
Thái Lan, Ấn Độ. Ở Việt Nam, Vẹm vỏ xanh phân bố ở
vùng triều các tỉnh, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Quảng Bình, TT
Huế, Bình Định, Khánh Hoà, Bình Thuận, Phú Quốc và
Kiên Giang. Vẹm vỏ xanh phân bố từ tuyến hạ triều đến
nơi có độ sâu 10 m nước. Vẹm sống trong vùng nước có độ
mặn dao động từ 20 - 30 ppt, chất đáy là đá, sỏi, san hô.
Vẹm tiết ra tơ chân để bám chặt vào các vật cứng dưới đáy.
Sự sinh trưởng của Vẹm thể hiện trên sự dày thêm của vỏ
và cũng thể hiện trên sự dài thêm của vỏ; vỏ dày thì chiều
dài tăng chậm và ngược lại vỏ mỏng thì chiều dài tăng
nhanh. Ngoài ra tốc độ tăng trưởng của vỏ và tốc độ tăng
của thịt cũng không đều nhau tuỳ theo từng giai đoạn sinh
trưởng; một hai năm đầu thịt tăng rất nhanh, nhưng tuổi
càng nhiều thịt càng tăng chậm và vỏ mỗi ngày một dày
thêm. Sự sinh trưởng giữa các cá thể trong cùng một loài
cũng rất khác nhau, cùng nuôi ở một nơi, một thời gian sau
một năm có con lớn 6 - 7 cm, có con chỉ lớn 3 - 4 cm. Con
lớn nhanh thì vỏ tương đối mỏng, màu sắc tươi tốt, con lớn
chậm thì vỏ dày, màu sắc kém tươi.
Sinh sản và phát triển: Phần lớn Vẹm phân tính (đực
riêng, cái riêng), nhưng trong quá trình sống do sự thay đổi
của các điều kiện thời tiết, nhiệt độ, độ muối, thức ăn nên
có hiện tượng lưỡng tính hay biến tính. Như vậy về phương
diện tính, có thể thấy mấy loại sau đây: Vẹm đực, Vẹm cái,
Vẹm lưỡng tính, tỷ lệ giữa các loại này không cố định và
thay đổi khác nhau cùng với độ lớn của chúng. Thường một
năm tuổi thì tuyến sinh dục của Vẹm thành thục, từ đó hàng
năm về sau Vẹm có thể sinh sản được.
Vẹm có thể sinh sản quanh năm, ở phía Bắc Vẹm đẻ
trứng vào 2 vụ chính: Vụ đầu năm từ tháng 3 đến tháng 5,
vụ cuối năm từ tháng 9 đến tháng 10. Vào mùa sinh sản
tuyến sinh dục của con cái có màu đỏ gạch non, tuyến sinh
dục con đực màu vàng nhạt.
Do tốc độ phát triển của ấu trùng phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện ngoại cảnh (đặc biệt là nhiệt độ) nên thời gian
phát triển cũng thay đôỉ tuỳ theo điều kiện cụ thể.
Bảng 3. Thời gian phát triển phôi và ấu trùng Vẹm vỏ xanh
[Vương Như Tài, 1993]
Thời gian sau
thụ tinh
Ngày
Giờ Phút
Giai đoạn
phát triển
Kích thước
(m)
0 Trứng
15 Cực cầu 1 53 x 60
20 Cực cầu 2
27 2 tế bào
36 4 tế bào
45 8 tế bào
50 16 tế bào
1 0 32 tế bào
1 38 Phôi tang
2 40 Phôi nang
3 10 Phôi vị
7-8 Trochophore
16-
18
Ấu trùng chữ D
85 x 61
5 - 9 Tiền Umbo 126 x104
8 -13
Trung Umbo 200 x175
14-
17
Hậu Umbo 261 x 225
18- Ấu trùng bò lê 320 x 290
24
20-
27
Ấu trùng bám 425 x 410
(Ghi chú: Điều kiện môi trường: Nhiệt độ 22-28
o
C, độ mặn
27-32ppt)
Vẹm có khả năng tái sinh tơ chân, nghĩa là khi gặp điều
kiện môi trường bất lợi nó có khả năng tự đứt tơ chân để di
chuyển. Khi gặp điều kiện môi trường thuận lợi nó tái sinh
lại tơ chân để bám vào vật bám mới. Sự tái sinh tơ chân của
Vẹm phụ thuộc vào kích thước và môi trường đặc biệt là
nhiệt độ và độ mặn.
Các thí nghiệm về khả năng tái sinh tơ chân của Vẹm ở các
nhóm kích thước và điều kiện nhiệt độ, độ mặn khác nhau
cho thấy, cùng điều kiện môi trường giống nhau nhưng khả
năng tái sinh tơ chân ở các nhóm kích thước là khác nhau
và kích thước càng nhỏ khả năng tái sinh tơ chân càng lớn.
Bảng 4. Khả năng tái sinh tơ chân của Vẹm theo nhóm kích
thước
Nhóm kích
thước
(mm)
Thời
gian tái
sinh tơ
chân
(phút)
% cá thể
tái sinh
Khả năng
bám vào
vật bám
Điều kiện
môi
trường
1 –10 6 –10 100 Bám chắc
11- 20 15 – 16 100 Bám chắc
21 – 30 20 – 30 75 Bám chắc
31 – 40 40 – 45 70 Bám chắc
41 – 50 45 – 50 45 Bám chắc
51 – 60 100 –120
15 Không
chắc
Nhiệt độ:
29 – 30
o
C
Độ mặn:
25‰
pH: 7,5 –
8,5
> 70 Không
tái sinh
- - -
Bảng 5. Khả năng tái sinh tơ chân của Vẹm ở nhiệt độ môi
trường khác nhau
Kích
thước
(mm)
Độ
mặn
(‰)
pH Nhiệt độ
nước
(
o
C)
Thời gian tái
sinh tơ chân
(phút)
15 – 18 180 20 - 30 25 7,5 –
8,5
26 - 18 20 – 30
Nếu tỷ trọng nước cao quá hoặc thấp quá thì Vẹm không tái
sinh tơ chân.
Bảng 6. Khả năng tái sinh tơ chân của Vẹm ở tỷ trọng
nước khác nhau.
Tỷ 1,000
1,0 1,0 1,01 1,0 1,0 1,030
Điều kiện TN
trọng 05 10 5 20 25
Thời
gian
tái
sinh
(phút
)
Khôn
g tái
sinh
40 37 30 18 15 Khôn
g tái
sinh
Kích thước:
20-30
Nhiệt độ:26-
28
pH:7,5-8,5
2.1.3. Ngao/Nghêu (clams)
Ngao, Nghêu là những loài thuộc họ Ngao (Veneridae),
phân bố rộng rãi khắp thế giới. Họ Ngao có khoảng trên
500 loài, ở nước ta có khoảng 40 loài thuộc 7 giống, phân
bố dọc bờ biển từ Bắc tới Nam. Trong đó các loài có giá trị
kinh tế là Ngao dầu (Meretrix meretrix), Ngao mật (M.
lusoria) và Nghêu Bến Tre (M. lyrata).
Hình 12. Hình thái cấu tạo của Ngao
Đặc trưng chung của các loài thuộc họ Ngao như sau: Vỏ
dày chắc, hai vỏ bằng nhau, mặt vỏ có hoa vân, vòng đồng
tâm hay tia phóng xạ biến đổi rất lớn. Khớp bản lề có 3
răng giữa và 2 răng bên. Vịnh màng áo nông, vết mép
màng áo rõ ràng. Vết cơ khép vỏ trước nhỏ hình bán
nguyệt, vết cơ khép vỏ sau lớn hình bầu dục.
- Ngao dầu Meretrix meretrix Line, 1758 (Asiatic hard
clam). Vỏ lớn , chắc chắn, mép lưng có hình tam giác, mép
bụng hình tròn. Hai vỏ bằng nhau, chiều dài lớn hơn chiều
cao. Đỉnh vỏ lồi nằm ở mặt lưng, gần về phía trước. Mặt vỏ
phồng to, nhẵn bóng, có một lớp bì vỏ màu vàng nâu bóng
như dầu. Vòng sinh trưởng mịn, rõ ràng, từ đỉnh vỏ xuống
thường có những vòng màu nâu. Vân hoa trên mặt vỏ thay
đổi tuỳ theo cá thể: Ngao nhỏ vân hoa phong phú và rất
biến đổi, Ngao lớn hoa vân tương đối ổn định, thường ở
phần gần mép lưng, có những vân hoa màu nâu dạng răng
cưa hay dạng sóng. Cá thể trưởng thành dài 95 mm, cao 78
mm, rộng 36 mm
- Ngao mật Meretrix lusoria Rumphius. Vỏ dày chắc, dạng
rất giống Ngao dầu, hình tam giác. Ngao mật có một số
điểm khác với Ngao dầu: Đỉnh vỏ gần như ở mặt lưng, mép
sau vỏ kéo dài và vuốt nhọn như góc mái nhà. Da vỏ láng
màu vàng sữa, hoặc màu vàng hơi tím. Vỏ cá thể trưởng
thành dài 62 mm, cao 49 mm, rộng 28 mm
- Nghêu Bến Tre Meretrix lyrata Sowerby, 1851 (Lyrate
Asiatic hard clam). Vỏ có dạng rất giống Ngao dầu, nhưng
cơ thể nhỏ hơn. Mặt ngoài vỏ màu vàng sữa, một số cá thể
màu nâu. Gờ sinh trưởng thô. Vỏ cá thể trưởng thành dài 55
mm. Thân Ngao đối xứng hai bên và có màng áo bao bọc.
Phần giữa của màng áo rất mỏng nên thấy rõ các cơ quan
bên trong, nhưng mép lại rất dày và có nhiều mấu lồi cảm
giác. Phần lưng màng áo dính nhau, hai vạt áo bao quanh
các cơ bên trong và tạo thành xoang màng áo. Ngoài ra, ở
phía sau gần bụng, mép hai vạt áo hai bên lại dính nhau tạo
thành hai vòi nước.
Vòi nằm phía bụng là vòi nước vào, vòi nằm phía lưng là
vòi nước ra. Đầu các vòi có nhiều xúc tu. Ngao thường vùi
thân trong cát, thò vòi nước lên cát để tiến hành hô hấp, bắt
mồi và bài tiết. Chân Ngao nằm ở phía bụng rất lớn hình
lưỡi dùng để đào cát. Cấu tạo của chân gồm có 3 lớp, hai
lớp ngoài cấu tạo đơn giản, lớp thứ ba cấu tạo rất phức tạp,
ngoài là cơ vòng, trong là cơ ngang pha lẫn cơ dọc và cơ
vòng. Trong các lớp cơ chân có tuyến chân phát triển. Cơ
khép vỏ gồm có một đôi bó cơ rất phát triển nằm ở mặt