Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Đặc điểm của Hầu (Oyster) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.4 KB, 13 trang )

Đặc điểm của Hầu (Oyster)
Hầu là động vật thân mềm 2 vỏ có giá trị dinh dưỡng
cao, chứa 45-75% protein, 7 - 11% lipid, 19 - 38% glucid,
nhiều chất khoáng, đại vitamin và các chất khác. Thịt Hầu
có thể ăn sống, nấu chín, phơi khô hay đóng hộp. Thịt một
số loài Hầu còn dùng làm nguyên liệu chế biến thuốc như
loài Crassostrea gigas. Vỏ Hầu dùng để nung vôi, làm bột
phấn, làm vật bám để nuôi Hầu và các hải sản khác.
Họ Hầu gồm 2 giống là Ostrea và Crassostrea với tất cả
khoảng 100 loài, phân bố rộng khắp thế giới từ hàn đới, ôn
đới, nhiệt đới, đâu đâu cũng có dấu vết của chúng . Ở
nước ta có trên 20 loài Hầu phân bố trong đó có các loài có
giá trị kinh tế cao như Hầu cửa sông Crassostrea rivularis,
Hầu sú Ostrea cucullata, Hầu belcheri C. belcheri
Cơ thể Hầu được bao bọc bởi 2 vỏ chắc cứng, vỏ trái lớn
hơn và thường bám chắc vào nền đá, có dạng hình chén. Vỏ
phải nhỏ và phẳng, đỉnh vỏ ở phía trên có bản lề sừng gắn
giữ 2 vỏ với nhau. Vỏ Hâù có 3 lớp: Lớp sừng ngoài
mỏng, dễ bóc, cấu trúc toàn bộ là protein. Lớp giữa dày
nhất là tầng đá vôi với cấu trúc gồm carbonate calcium kết
tinh gắn chắc trên thể protein. Lớp trong cùng mỏng, bóng,
sáng và rất cứng là tầng xà cừ. Hình dạng của vỏ rất khác
nhau phụ thuộc vào môi trường sinh sống. Nếu Hầu sống
riêng rẽ trên nền đáy mềm thì vỏ nhẵn và kéo dài. Nếu phân
bố tập trung, vỏ có hình dạng méo mó. Hầu sống ở vùng có
độ mặn cao vỏ cứng hơn Hầu sống ở vùng có độ mặn thấp.
Do khả năng thích ứng với điều kiện sống của mỗi loại
khác nhau nên phân bố chúng cũng khác nhau. Đứng về
mặt yêu cầu sinh thái học chúng ta chia làm hai loại phân
bố: Phân bố địa lý và phân bố thẳng đứng. Diện phân bố
địa lý (hay còn gọi là phân bố mặt ngang) rộng hay hẹp chủ


yếu là do khả năng thích ứng với độ muối và nhiệt độ mạnh
hay yếu của từng loài Hầu quyết định, nếu năng lực thích
ứng với nhiệt độ mạnh thì có thể phân bố ở nhiều vùng khí
hậu khác nhau, thí dụ như Hầu sú (O. cucullata) phân bố từ
biển nhiệt đới (Ấn Độ) lên tới biển Á Hàn đới (Bắc Hải).
Nếu năng lực thích ứng với độ muối mạnh thì có thể phân
bố từ những vùng độ muối thấp (cửa sông) cho tới các
vùng có độ muối cao (biển khơi). Ngược lại, loài có tính
nhiệt hẹp hay muối hẹp thì diện phân bố cũng hẹp. Ví dụ
Hầu vảy dày (O. densellamellosa) chỉ sống ở độ muối cao,
loài Hầu cửa sông (C. rivularis) chỉ sống nơi có độ muối
thấp…Sự phân bố thẳng đứng của Hầu khác nhau tuỳ theo
chủng loại, ví dụ Hầu vỏ dày (O. densellamellosa) là loài
sống ở tầng nước sâu, Hầu sú (O. cucullata) là loại sống
vùng bãi triều, Hầu sông (C. rivularis) là loại sống được từ
vùng bãi triều cho tới độ sâu 7 - 10 m nước. Yêu cầu phân
bố thẳng đứng của các loài Hầu tương đối chặt chẽ, nếu ta
làm xáo trộn sự phân bố của chúng, thí dụ như đem Hầu
vảy dày nuôi ở vùng bãi triều thì chỉ trong một thời gian
ngắn sẽ thấy chúng gầy yếu, sinh trưởng kém.
Giới hạn sinh trưởng và chủng loại Hầu: Hầu có nhiều loại
lớn nhỏ khác nhau, Hầu (O. pestigris), Hầu răng cưa O.
crenulifera) và Hầu sò (O. glomerata) ít khi lớn quá 4cm.
Ngược lại, Hầu lưỡi (O. hyotis), Hầu sông (C. rivularis),
Hầu ống (C. gigas) đều là những loại Hầu to. Trong cùng
một loài Hầu, cùng một điều kiện sống nhưng sức lớn cũng
khác nhau, Hầu sú (O. cuculata) 1 tuổi nuôi cùng một nơi
có con dài 68 mm, cao 55 mm, có con chỉ dài 53,8 mm, cao
43,2 mm. Do đó, trong chọn giống nuôi cần chú ý.
Sự sinh trưởng của Hầu có thể chia làm 2 giai đoạn:

+ Giai đoạn phát triển vỏ: chia làm 2 thời kỳđầu và cuối. Ở
thời kỳ đầu, tốc độ phát triển của vỏ rất nhanh, chỉ trong 3
tháng vỏ đã dài lên 50 – 85 mm. Trong thời kỳ cuối, Hầu
tích luỹ nhiều vật chất, trọng lượng thân tăng lên dần để
chuẩn bị qua đông và tạo điều kiện phát triển sinh dục vào
mùa xuân. Tốc độ phát triển vỏ giảm giảm đi rất nhiều,
tổng cộng hai năm tám tháng sau 3 tháng của giai đoạn dầu,
vỏ chỉ dài thêm 7,1mm và cao thêm 2,1mm – trung bình tốc
độ sinh trưởng của từng tháng so với giai đoạn đầu giảm đi
trên 18 lần.
+ Giai đoạn trưởng thành: Giai đoạn trưởng thành của Hầu
bắt đầu 1 năm sau khi Hầu bám. Với mỗi loài Hầu khác
nhau thì có tốc độ phát triển khác nhau: Giai đoạn này sự
sinh trưởng đã Hầu như kết thúc dù điều kiện sống hết sức
thuận lợi (với Hầu sú). Một số loài Hầu có kích thước lớn,
cần phải có nhiều thời gian để xây dựng cơ thể nên giai
đoạn sinh trưởng kéo dài (Hầu sông).
Sự sinh trưởng của Hầu thay đổi theo mùa do điều kiện
ngoại cảnh thay đổi. Sinh trưởng của Hầu thường chia làm
4 mùa: mùa đông vỏ hàu gần như không lớn. Mùa sinh
trưởng vào những tháng xuân ấm áp, thức ăn đầy đủ, Hầu
lớn nhanh. Mùa sinh sản, Hầu sinh trưởng kém vì bị việc
sinh sản tiêu hao năng lượng. Mùa bồi dưỡng sau khi sinh
sản để khôi phục năng lượng đã mất và Hầu lớn nhanh.
Sinh sản và phát triển:
- Giới tính và phương thức sinh sản: Giống Crassostrea có
giới tính phân biệt. Tuyến sinh dục cái chứa trứng, tuyến
sinh dục đực chứa tinh trùng. Khi thành thục sinh dục,
trứng và tinh trùng được phóng ra ngoài và thụ tinh trong
nước. Lỗ sinh dục là nơi trứng và tinh trùng thoát ra ngoài

nằm phía trên mang. Giống Ostrea trước khi phóng ra
ngoài đi qua buồng thụ tinh. Tinh trùng của con đực đẻ gần
kề theo dòng chảy được hút vào buồng thụ tinh. Trứng thụ
tinh được ấp trong buồng thụ tinh khoảng 10 ngày trước khi
thoát ra ngoài dạng ấu trùng. Những loài ấp trứng như trên
gọi là loài đẻ ấu trùng (larviparous). Các loài thuộc giống
Crassostrea có thể chuyển giới tính giữa các mùa sinh sản
nhưng giống Ostrea giới tính thay đổi luân phiên một lần
hoặc vài lần trong một mùa sinh sản, phụ thuộc vào nhiệt
độ và điểm kiện thức ăn nhưng tỷ lệ đực cái thường cân
bằng nhau.
- Mùa vụ sinh sản: Hầu nói chung sau một năm đã
thành thục và bắt đầu đẻ được. Mùa đẻ hàng năm khác
nhau tuỳ theo loài và ngay trong cùng một loài mùa đẻ
cũng khác nhau tuỳ nơi phân bố. Ở nước ta Hầu sông có thể
sinh sản rải rác quanh năm nhưng nhìn chung tập trung vào
2 vụ chính. Vụ 1 tháng 4 đến tháng 6, vụ 2 tháng 8 đến
tháng 10.
- Sức sinh sản: Số lượng trứng của các loài đẻ trứng
rất lớn (Hầu Crassostrea virginica 15.000.000 đến
115.000.000 trứng, Hầu ống C. gigas 55.800.000 trứng) vì
sau khi đẻ phải trải qua nhiều giai đoạn thụ tinh, phân cắt,
phát triển thành ấu trùng. Trong quá trình này Hầu thường
phải chịu ảnh hưởng xấu của nhiều nhân tố ngoại cảnh,
đồng thời địch hại cũng nhiều, nên tỷ lệ trứng phát triển
thành Hầu con thường thấp. Đây là một cách thích nghi để
bảo vệ nòi giống. Hầu ấu sinh, trứng được bảo vệ trong cơ
thể mẹ trong giai đoạn đầu nên lượng trứng đẻ ít hơn Hầu
noãn sinh.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh sản của Hầu: Hoạt động

sinh sản của Hầu chịu ảnh hưởng nhiều nhân tố ngoại cảnh,
đặc biệt là nhiệt độ và độ mặn của nước. Thí nghiệm của
Loosanoff về ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của
tuyến sinh dục Hầu C.virginica cho thấy ở nhiệt độ dưới
10
o
C thì sau 35 ngày TSD vẫn không phát triển, giới hạn
nhiệt độ thấp nhất để tuyến sinh dục thành thục là 15,8
o
C,
nhiệt độ càng cao hơn, thời gian thành thục càng ngắn. ở
nhiệt độ 20
o
C và 25
o
C chỉ 5 ngày TSD đã có thể thành
thục, ở 30
o
C chỉ sau 3 ngày đã thấy có tinh trùng và trứng
thành thục. Nhiệt độ cần thiết cho Hầu đẻ thấp nhất đối với
Hầu ống là 25
o
C, Hầu sú 17 – 18
o
C.
Bảng 2. Quan hệ giữa nhiệt độ nước và sự thành thục của
tuyến sinh dục (theo Loosanoff)
Nhiệt độ thí nghiệm (
0
C)

15 20 25 30
Số
ngày
thí
nghi
ệm
(đã thành
th
ục) (%)

không
thành th
ục
S
ố Hầu đẻ
(%)

(đã thành
th
ục) (%)

không
thành th
ục
S
ố Hầu đẻ
(%)

(đã thành
không

thành th
ục
S
ố Hầu đẻ
(%)

(đã thành
th
ục) (%)

không
thành th
ục
S
ố Hầu đẻ
(%)

3 0 18 82
4 58 42
5 0 28 72 0 36 6
6
38 20 42
6 0 36 6
6
38 20 42
7 24 40 3
6
79 6 24
8 4 36 60 20 60 2
0


9 32 42 2
6

10 10

90

26 32 42 60 30 1
0

13 32 48 20
15 12

8 42 36 22
18 52 40 8
20 18

82

60 38 2
25 44 56

50

50 0
30 70

30



35 6 68

26


40 6 76

18


45 12 72

16


55 40 60

0

Độ mặn cũng có quan hệ chặt chẽ đến sinh sản của Hầu.
Khí hậu vùng nhiệt đới quanh năm thích hợp cho Hầu sú
sinh sản (cần có nhiệt độ 17
o
C) nhưng ở ấn Độ Hầu sú chỉ
đẻ từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau, còn tháng 7, 8 tuy
TSD thành thục nhưng vẫn không đẻ vì lúc đó mùa mưa
xuống độ mặn giảm không thích hợp cho sinh sản của nó. ở
nước ta, Hầu sông có mùa sinh sản từ tháng 4 đến tháng 9,
trong các tháng này Hầu đẻ rộ nhất vào thời kỳ nhiệt độ

nước cao nhất trong toàn năm (trung bình 30
o
C) nhưng độ
mặn lại thấp nhất trong toàn năm (trung bình 5 - 10 ‰).
Ngoài ra thức ăn và thuỷ triều cũng có ảnh hưởng đến sinh
sản của Hầu. Trong môi trường giàu thức ăn, Hầu thành
thục sớm và sinh sản
















Hình 11. Sơ đồ biểu diễn các giai đoạn phôi và ấu trùng
Hầu sú O. cucullata
Chú thích: 1-2_ Trứng chưa thụ tinh; 3-4_ Cực thể thứ nhất
và thứ hai xuất hiện ở trứng đã thụ tinh; 5-7_ Quá trình
phân cắt lần thứ nhất và sự thò thụt của cực Điệp; 8-9_
Phân cắt lần thứ hai; 10_ Phôi tang; 11_ Phôi nang; 12_
Nguyên trường phôi; 13_ ấu trùng bánh xe bước vào sơ kỳ

ấu trùng đĩa bơi; 14_ ấu trùng đĩa bơi; 15_ ấu trùng nề
thẳng; 16_ ấu trùng sắp bám, chân đã xuất hiện; 17_ Hầu
mới bám; 18_ Hầu đã bám được vài ngày (vỏ ngoài 1mm)
Các tác nhân ảnh hưởng đến phát triển phôi và ấu
trùng Hầu:
- Nhiệt độ: Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
phôi và ấu trùng Hầu và tuỳ theo loài. Hầu ống thích hợp
với nhiệt độ 23 – 26
o
C nếu thấp hơn 15
o
C hay cao hơn
30
o
C thì trứng phát triển không bình thường. Hầu sú ở Ấn
Độ thích hợp với nhiệt độ 27,5 – 29,5
o
C, ở Trung Quốc 21
– 26,5
o
C, Hầu sông khoảng 25 – 28
o
C.
- Độ mặn: Độ mặn thích hợp cho sự phát triển phôi và ấu
trùng tương tự độ mặn ở nơi Hầu mẹ sinh sống. Chủng loại
khác nhau, độ mặn cũng khác nhau. Hầu ống ở độ mặn cao,
phát triển nhanh, độ mặn thấp phát triển chậm. Hầu sông ở
độ mặn cao hơn 20‰ và thấp hơn 5‰ phôi có hiện tượng
mất nước và trương nước, độ mặn thích hợp là từ 8 - 15ppt
- Muối vô cơ: Một số muối vô cơ trong nước như: KCL,

CaCL
2
, MgCL
2
nếu thiếu có thể làm cho tỷ lệ trứng thụ
tinh bị giảm thấp tới 20 – 30%, ngược lại nếu có quá thừa
thì có thể làm cho tỷ lệ trứng thụ tinh bị giảm thấp hơn nữa.

×