Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Nuôi Trai và cấy ngọc Trai nhân tạo doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.68 KB, 18 trang )

Nuôi Trai và cấy ngọc Trai nhân tạo
4.5.1. Nuôi Trai thương phẩm
- Bãi nuôi: Tương tự bãi lấy giống, riêng độ mặn có
thể từ 22 - 35ppt. Vào mùa đông nhiệt độ không xuống
thấp dưới 15
o
C, mùa hè nhiệt độ không cao quá 30
o
C. Độ
sâu từ 3 m trở xuống.
- Lồng nuôi: Hiện nay nuôi lớn Trai ngọc chủ yếu nuôi
bằng lồng. Thường dùng loại lồng hình tròn (vòng tròn đáy
đường kính 45 cm, vòng tròn trên khoảng 35 cm). Khung
lồng được làm bằng dây thép  3 mm có bọc lớp nhựa
chống rỉ, lồng đan bằng dây cước hoặc dây nilon, có miệng
và dây treo.
- Mật độ nuôi: Tuỳ theo kích cỡ Trai giống mà có các
mật độ khác nhau. Cỡ giống 2 – 3 cm khoảng 120 – 150
con/lồng; Cỡ 4 – 5 cm khoảng 100 con/lồng; Cỡ 6 – 6,5
cm khoảng 80 con/lồng.
-Thức ăn: Chủ yếu Trai tự lọc lấy thức ăn có ở trong
môi trường nước.
- Quản lý chăm sóc: Mỗi tháng một lần làm vệ sinh
cho Trai, cạo sạch sun, hà và các vật bám ở vỏ Trai, vệ sinh
lồng bè. Thường xuyên tuyển chọn phân loại Trai để nuôi
theo đúng mật độ. Nuôi cho đến khi kích thước Trai đạt 6 –
9 cm (thường sau 1– 2 năm) thì có thể thu hoạch hoặc
chuyển thành Trai nguyên liệu để cấy ngọc .
4.5.2. Kỹ thuật cấy ngọc Trai nhân tạo
Ngọc Trai là một vật trang sức rất quý giá được nhân
loại ưa chuộng từ lâu. Từ thời Bà Trưng nhân dân ta đã biết


xuống biển mò Trai lấy ngọc. Cho tới nay đã trải qua bao
thế kỷ, ngọc Trai vẫn là một nguồn lợi vô cùng to lớn.
Nhưng việc khai thác đơn thuần dựa vào thiên nhiên cung
cấp đã không thể thoả mãn cho nhu cầu tiêu dùng và còn
làm cho nguồn lợi thiên nhiên cạn kiệt. Việc nghiên cứu
phát triển nuôi Trai lấy ngọc là một tất yếu. Các loài Trai
ngọc thuộc họ Pteriidae là các loài có thể tạo ra ngọc Trai
quý giá như Trai ngọc môi vàng (Pinctada maxima), Trai
ngọc môi đen (Pinctada margaritifera), Trai mã thị
(Pinctada martensii)
a) Cơ sở khoa học của việc cấy ngọc Trai nhân tạo:
Trong tự nhiên ngọc Trai được hình thành như thế nào?.
Câu hỏi này đã cuốn hút nhiều nhà khoa học làm việc
không mệt mỏi trong nhiều thập kỷ. Đến cuối thế kỷ 19 túi
ngọc (pearlsac) được phát hiện. Đây là một phát hiện quan
trọng, túi ngọc đã được đánh giá là yếu tố quyết định để
ngọc Trai tự nhiên được hình thành. Sự hình thành ngọc
Trai trong tự nhiên là do khi có một dị vật (cát, ký sinh
trùng, ) từ bên ngoài lọt vào giữa vỏ Trai và lớp màng áo
ngoài rồi chìm dần vào mô liên kết cùng một phần tế bào
biểu bì của màng áo. Các tế bào này phân cắt, phát triển
bao quanh dị vật thành túi ngọc. Túi ngọc sẽ phân tiết ngọc
Trai bám vào dị vật tạo thành ngọc tự nhiên. Đây là cơ sở
khoa học cho việc cấy ngọc Trai nhân tạo. Muốn chủ động
tạo ra ngọc, người ta dựa vào nguyên tắc trên, cắt lấy một
mảnh màng áo ngoài của Trai đem bọc một nhân ngọc rồi
cấy vào trong mô của một con Trai khác để tạo nên túi
ngọc để sinh ra ngọc.
b) Cơ chế của quá trình tạo ngọc:
Các tế bào biểu bì mặt ngoài màng áo (thượng bì) có

chức năng vận chuyển protein, đường đa (polysaccarid),
các ion kim loại và gốc muối đến xoang màng áo. Tại đây
sẽ xảy ra phản ứng:
Ca
2+
+ CO
3
2-
= CaCO
3

Ion kim loại + gốc muối kim loại
CaCO
3
và muối kim loại lại kết hợp với nhau tạo thành
phiến đá vôi sắp xếp có trật tự. Polysaccarid và protein kết
hợp lại tạo thành chất kết nối các phiến đá vôi lại với nhau.
Chính sự sắp xếp xen kẽ giữa hai thành phần hữu cơ
(Protein và Polysaccarid) và vô cơ (phiến đá vôi) tạo nên
màu sắc óng ánh cho ngọc Trai








Hình 36. Qúa trình hình thành ngọc tự nhiên








Hình 37. Cơ sở khoa học của việc cấy ngọc nhân tạo








Hình 38. Vị trí cấy ngọc Trai













Hình 39. Cơ chế hình thành ngọc Trai

c) Kỹ thuật cấy ngọc nhân tạo:
- Chuẩn bị Trai để cấy ngọc: Trai nguyên liệu là Trai
dùng để lấy tế bào màng áo, chọn những con khoảng 2 – 3
năm tuổi (kích thước khoảng 6 – 9 cm), khỏe mạnh, không
bị bệnh, màng áo không bị thương, vỏ có màng xà cừ đẹp.

Trai kỹ thuật là Trai dùng để cấy nhân vào, chọn những con
tốt nhất là 3 – 4 năm tuổi (2 – 3 năm tuổi cũng được), ngoại
hình cân đối, không dị dạng, khỏe mạnh, 2 vỏ khép chặt,
nội tạng, màng áo không bị tổn thương, không mắc bệnh,
màng áo dày đều. Trước khi cấy nhân cần chuẩn bị Trai
bằng cách nuôi Trai trong các lồng tre hay lưới. Việc cấy
nhân chỉ được thực hiện khi Trai đạt kích thước quy định
và thường tiến hành từ tháng 4 – 10 dương lịch, đây là thời
kỳ sinh trưởng của Trai. Nếu khi cấy nhân mà tuyến sinh
dục Trai phát triển thì thường bị rơi nhân hoặc ngọc bị bẩn,
có khi làm Trai chết. Vì vậy, cần chọn Trai kỹ thuật có
tuyến sinh dục không phát triển để cấy nhân. Có 2 cách để
chuẩn bị Trai kỹ thuật đó là ức chế hoặc kích thích tuyến
sinh dục phát triển, tùy thời gian mà tiến hành theo mỗi
cách khác nhau.
+ Cách thứ nhất: ức chế tuyến sinh dục được tiến hành vào
đầu mùa sinh sản. Thời gian này nhiệt độ bắt đầu tăng sau
mùa đông lạnh nhưng tầng nước sâu nhiệt độ vẫn còn thấp.
Vì vậy đưa Trai nuôi ở tầng nước sâu với nhiệt độ thấp sẽ
ức chế tuyến sinh dục phát triển.
+ Cách thứ hai: Kích thích tuyến sinh dục phát triển nhanh,
thường ứng dụng vào mùa Trai đẻ rộ. Kích thích tuyến sinh
dục Trai bằng cách nuôi Trai ở nhiệt độ cao (27 – 30
o

C).
Ban ngày nuôi Trai ở tầng nước mặt, ban đêm nuôi Trai ở
tầng nước sâu để duy trì nhiệt độ ở khoảng thích hợp. Sau
một thời gian ngắn Trai sẽ đẻ. Khi Trai đẻ xong ta có thể
tiến hành cấy nhân. Cách này có khuyết điểm là sau khi đẻ
Trai yếu làm hiệu quả cấy nhân sẽ không cao.
- Chuẩn bị dụng cụ:











(1) Kìm mở vỏ (9) Panh kẹp
(2) Giá giữ Trai (10) Kéo giải phẩu
(3) Dao giải phẩu và cắt
tế bào
(11) Thớt (kính tấm)
(4) Dao mổ (chích)
miệng cấy
(12) Nêm gỗ
(5) Kim thông đường (13) Khay men
(6) Kim móc (14) Khăn bông – bông
thấm nước
(7) Kim châm màng áo (15) Thuốc đỏ, cồn 96

o

(8) Kim tra nhân (16) Cốc thuỷ tinh

- Chuẩn bị nhân cấy: Nhân dùng để cấy ngọc là loại
nhân tròn, bóng, đường kính loại nhỏ (1,65 – 3,05 mm),
trung bình (3,2 – 4,55 mm), lớn (4,9 – 7,6 mm), đặc biệt
(7,9 – 9,7 mm), được chế tác từ vỏ Trai cóc hay các loài ốc
biển. Nhân được rửa sạch sẽ và khử trùng trước khi cấy
ghép.
- Kỹ thuật cấy: Bao gồm các bước sau đây:
+ Lấy miếng màng áo: Lớp xà cừ của vỏ Trai là do
toàn bộ biểu bì mặt ngoài màng áo (mặt tiếp xúc với vỏ)
tiết ra. Nhưng chất lượng ngọc khác nhau tùy vị trí của
màng áo. Theo kết quả thí nghiệm bằng đồng vị phóng xạ
Ca
45
thì mép màng áo là nơi trao đổi chất mạnh nhất và có
hàm lượng canxi cao nhất. Vì vậy hiện nay trong kỹ thuật
cấy ngọc đều dùng lớp biểu bì của mép màng áo để cấy.
Một thí nghiệm khác cho thấy mép màng áo ở phần bụng
có khả năng phục hồi nhanh nhất và cho chất lượng ngọc
tốt nhất. Dùng dao mổ luồn vào cắt đứt cơ khép vỏ, chú ý
không nên dùng dao đụng vào màng áo nếu không màng áo
sẽ co lại. Lật vỏ ra cắt lấy phần bụng của màng áo, tẩy sạch
chất nhầy, nhớt rồi đặt lên giá tế bào. Khi đặt màng áo lên
giá tế bào, lật mặt tiếp xúc với vỏ lên trên sẽ thấy có một
đường màu vàng nâu cách mép màng áo khoảng 3 – 4 mm
chạy song song với mép vỏ. Dùng kéo cắt theo đường đó
và loại bỏ phần mép ngoài rồi cắt màng áo thành từng

miếng khoảng 2 – 3 mm
2
. Khi cắt màng áo cần chú ý
những điểm sau:
Phần mép ngoài màng áo là các tế bào tiết ra chất sừng chứ
không tiết ra ngọc cho nên cần loại bỏ phần này. Khi cắt
màng áo xong cần phải cấy ngay. Dụng cụ phải sạch sẽ.
Thao tác phải nhanh và chính xác.
+ Cấy màng áo: Khi cấy đặt ngữa bụng Trai lên giá
cấy và kẹp chặt. Dùng móc lấy phần giữa chân kéo về phía
sau cho chân giãn rộng. Cắt lấy một lỗ nhỏ ở giữa gốc
chân, kích thước lỗ mở này phải tương ứng với đường kính
nhân cấy (lỗ mở hơi nhỏ hơn nhân cấy) rồi dùng kim thọc
qua lỗ mở đó thông đến vị trí cần đặt nhân tạo thành một
đường ống. Có 3 vị trí cấy là nội tạng, trước xoang bao tim
và gốc xúc biện. Sau khi đã thông đường thì dùng kim đưa
màng aó ghim lên mép của miếng màng áo đã cắt sẵn và
đưa thẳng vào cuối đường ống đã thông rồi rút kim ra. Khi
cấy cần chú ý mặt ngoài của mảnh màng áo phải quay về
phía nhân cấy.
+ Cấy nhân: Sau khi cấy màng áo xong thì cấy nhân.
Đặt nhân cấy vào phần lõm đầu kim và đưa nhân vào tiếp
xúc với miếng màng áo vừa mới cấy, thao tác đưa nhân
cũng giống như khi cấy màng áo.
Mỗi Trai kỹ thuật có thể cấy 5 nhân ở nội tạng, 2 ở trước
tim, 2 ở gốc xúc biện. Khi cấy ở trước tim và gốc xúc biện
thì thao tác vị trí bên phải và vị trí bên trái như nhau nhưng
phải tuần tự từng nhân một. Cấy màng áo và nhân ở nội
tạng cố gắng tránh làm tổn thương đến cơ co rút chân và
ống tiêu hóa, cấy ở vị trí trước tim thì tránh việc cấy quá

sâu dễ làm Trai chết.
4.5.3. Nuôi Trai sau khi đã cấy ngọc
a) Nuôi vỗ (nuôi tạm): Sau khi cấy nhân Trai bị tổn
thương nên yếu đi, vì thế cần phải nuôi vỗ để Trai phục hồi
sức khỏe. Nơi nuôi vỗ Trai phải yên tĩnh và điều kiện môi
trường ít dao động. Sau một tuần nuôi vỗ vết thương sẽ
lành và lớp biểu bì mặt ngoài màng áo sẽ phát triển bao lấy
nhân. Biểu bì mặt trong sẽ bị mô liên kết hấp thụ trong 2
ngày. Khi nuôi vỗ nhớ đánh số từng con Trai một, ghi ngày
tháng tra nhân và người làm để tiện kiểm tra. Thời gian
nuôi vỗ khoảng 25 – 30 ngày.
b) Nuôi thành ngọc: Sau khi Trai đã hồi phục chúng
được chuyển tới bãi chính để nuôi thành ngọc. Dùng lồng
bằng tre hay lưới treo trong nước biển có nồng độ muối từ
25 -35‰ (dưới 15‰ Trai dễ bị chết) và nhiệt độ từ 20 –
30
o
C. Cũng có thể thay đổi độ sâu của lồng nuôi Trai để
duy trì điều kiện thích hợp cho Trai. Thời gian nuôi ngắn
hay dài tùy theo yêu cầu ngọc to hay nhỏ, thường thì từ 1 –
4 năm. Ngoài cách nuôi lồng còn có phương pháp nuôi xâu
tai tức là dùng dây thép xỏ qua tai vỏ Trai và quấn quanh
cọc gỗ cắm trên bãi nuôi.
Trong quá trình nuôi Trai công việc chăm sóc Trai chủ yếu
là giữ cho lồng Trai sạch và tránh những bất lợi cho Trai.
Lồng Trai thường bị các sinh vật sống bám làm ảnh hưởng
đến sinh trưởng. Nên định kỳ tẩy rửa khi thấy trên vỏ có
nhiều sinh vật bám, nhất là phần bản lề, nếu không Trai sẽ
bị chết vì không mở được vỏ. Trong trường hợp môi trường
bất lợi phải di chuyển lồng Trai đi nơi khác.

c) Nuôi gây màu ngọc: Ngọc Trai được ưa chuộng có
màu trắng hồng. Loại ngọc này có thể tạo nên ở những
vùng biển nhất định mà nơi khác không tạo được. Vùng
này người ta gọi là khu gây màu. Điều kiện cụ thể nào tạo
màu ngọc Trai thì chưa được nghiên cứu kỹ nhưng theo
kinh nghiệm, khu vực gây màu này có thức ăn dồi dào, điều
kiện môi trường như nhiệt độ, độ mặn, khí hậu,…biến đổi
theo mùa rõ rệt. Vì vậy trước khi thu hoạch người ta
chuyển Trai đến đó để gây màu.
d) Thu hoạch và gia công ngọc: Sau khi nuôi 18 – 24
tháng có thể thu ngọc. Trai ngọc được thu hoạch vào lúc
nhiệt độ thấp thì chất lượng ngọc tốt hơn thu ở nhiệt độ
cao. Thời kỳ thu hoạch rộ thường vào tháng 8 – 10 dương
lịch, nhiệt độ quá thấp sẽ gây khó khăn cho cán bộ kỹ thuật.
Khi thu hoạch, lấy phần nhuyễn thể ra cho vào máy nghiền
cùng với một lượng tương đương nước biển hay nước vôi
rồi nghiền cho nát, xong đổ vào thùng lắng, nhặt lấy ngọc
ra. Làm đi làm lại nhiều lần để có thể lấy ra được hết ngọc.
Ngoài ngọc nuôi còn có cả ngọc tự nhiên nữa. Lấy ngọc ra
xong, dùng muối ăn để tẩy chất nhầy và chất bẩn bám ở
ngoài ngọc, rồi lại đem rửa nước; xong cho vào máy ly tâm
để cho ráo nước hay khô rồi chọn và đem đi gia công.
Phần lớn ngọc Trai dùng làm vòng đeo cổ, nên dưới đây sẽ
giới thiệu cách gia công sơ bộ ngọc Trai đeo cổ:
+ Khoan lỗ hạt ngọc.
+ Tẩy bẩn: Ngâm ngọc trong nước oxy già (2%), thời gian
10 – 15 phút, sau đó vớt ra rửa sạch bằng xà phòng thơm,
rửa sạch bằng nước ngọt rồi lau khô. Tiếp theo ngâm trong
cồn 90
o

, thời gian 6h sau đó vớt ra lau khô.
+ Làm bóng lần 1: Cho ngọc vào túi vải trong đó có chứa
tro silic và dầu ôliu, xát kỹ rồi rửa sạch, lau khô.
+ Nhuộm màu: Dung dịch nhuộm màu (1000 ml) gồm:
Nước 600 ml, cồn 398 ml, thuốc nhuộm (chưa rõ công
thức) 2 ml, vài giọt KI. Nhuộm ở nhiệt độ 40
o
C, thời gian
16h, sau vớt ra và lau khô.
+ Đánh bóng lần 2: Cho vào túi da có tro silic (không có
dầu ô liu như lần 1), xát kỹ rồi rửa sạch, lau khô.
+ Xâu thành chuỗi.
e) Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng ngọc
e1, Chất lượng ngọc không nhân:
Loại 1: Có hình tròn hoặc gần tròn, bề mặt có màu trắng
ngọc tự nhiên lấp lánh, toàn viên ngọc trơn bóng, trọng
lượng trên 0,5 g.
Loại 2: Có hình tròn hoặc không tròn (hoặc nửa hình tròn)
bề mặt có màu trắng ngọc, trơn bóng lấp lánh.
Loại 3: Có hình tròn hay hình bầu dục như dạng kén tằm
hoặc hình tròn dài, mặt có chỗ nhăn nheo hoặc lồi lõm.
Loại 4: Có hình dạng nhất định nào đó, mặt ngọc cơ bản là
trơn hoặc cũng có vài chổ nhăn, lồi lõm, ánh ngọc.
Loại 5: Hình dáng đa dạng, mặt ngọc nhiều nếp nhăn và lồi
lõm, phần lớn mặt có lấp lánh ánh ngọc.
e2, Chất lượng ngọc có nhân:
Loại 1: Hình tròn hoặc hình đặc trưng của ngọc, để ra ánh
sáng có màu xanh hoặc trắng ngọc hoặc màu vỏ Trai,
đường kính viên ngọc trên 8 mm, tuyệt đối không có vết
sẹo.

Loại 2: Có hình giống như trên, mặt lấp lánh màu xanh,
đường kính không hạn chế, mặt ngọc có thể có vân sẹo
nhưng không rõ lắm.
Loại 3: Hình dáng đa dạng, lấp lánh ánh ngọc, có thể có
những vết sẹo nhỏ.
Loại 4: Như loại 3, sẹo nhiều nhưng không rõ.
Loại 5: Hình dáng đa dạng, có chổ không có ánh ngọc,
hoặc có dị dạng, lớp ngọc mỏng.

×