Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cơ chế của sự nghiện hóa chất docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.59 KB, 10 trang )

Cơ chế của sự nghiện hóa chất

Một nghiên cứu của chính phủ gần đây cho thấy tới 30% dân sống ở
Mỹ lạm dụng rượu và bị nghiện rượu trong một giai đoạn nào đó của cuộc
đời họ. Ngoài rượu ra, marijuana là một loại hóa chất được giới trẻ (12-17
tuổi) lạm dụng nhiều nhứt.
Nghiên cứu của cơ quan National Survey on Drug use and Health
(NSDUH) cho thấy có tới 40% giới trẻ trả lời rằng đã có thử qua marijuana
(cần sa) ít nhất một lần trong đời. Rượu có thể mua ở mọi nơi và marijuana
có thể được chế biến kèm trong bánh kẹo hay thuốc hút mà các bạn trẻ trao
đổi nhau ở các party hay ngoài bãi biển, ở công viên vắng. Những hóa chất
này làm đầu óc lâng lâng. Khi đó những suy nghĩ khôn ngoan bị lu mờ. Khi
đầu óc bị lu mờ và kèm với áp lực của bạn bè (peer pressure) thì các thanh
niên thiếu nữ dễ đi từ giai đoạn tộc mạch muốn thử cho biết đến giai đoạn
lạm dụng. Rượu và Marijuana là cánh cửa đầu tiên đưa vào thế giới nghiện
ngập những hóa chất tai hại hơn như cocaine và heroin. Một nghiên cứu nửa
cho thấy những đứa trẻ nghiện Marijuana sớm vào lứa tuổi 15 có rất nhiều
nguy cơ gia nhập băng đảng và có hành vi bạo động hay phạm pháp (1).
Trước khi đề cập đến nghiện thuốc, chúng ta thử tìm hiểu hệ thống
ban thưởng trong não bộ (reward system). Trong não bộ của chúng ta có một
hệ thống gọi là hệ thống limbic. Hệ thống này tạo ra sự sung sướng trong khi
ăn uống và giao hợp để khuyến khích sinh vật sinh trưởng và gầy dựng
giống nòi. Ngoài ra, hệ thống limbic còn ảnh hưởng đến nhiều tình cảm khác
như tức giận và sợ hãi để giúp ta chiến đấu hay trốn chạy những hoàn cảnh
có thể gây thiệt hại đến thân mạng. Ở hệ thống limbic có một nhóm tế bào
thần kinh tiết ra Dopamine ở khu Ventral Tegmental (VTA, hình 1) liên hệ
đến sự ban thưởng. Khi khu này được kích thích thì ta có cảm giác đê mê
lâng lâng. Lúc đó là lúc những tế bào thần kinh tiết ra chất Dopamine. Ăn
uống và sex là hai hành vi chính kích thích nhóm tế bào tiết ra Dopamine.
Vai trò của Dopamine là khuyến khích những động tác và hành vi đem đến
khoái lạc và thúc giục ta có thêm những hành vi đó nữa.


Tôn giáo và giáo dục gia đình đều dựa trên hệ thống limbic này và dạy
con người tập điều hòa (regulate) những tình cảm hay bản năng phát xuất từ
đó. Thí dụ như sự thưởng phạt có vai trò điều hòa tình cảm. Khi đứa bé điều
khiển được lòng tham ăn của nó thì được cha mẹ thưởng cho nụ hôn. Khi
được thương yêu thì não bộ nó tiết ra Dopamine và đứa bé tập lấy tình
thương thay thế cái sung sướng về thể xác của tham ăn.
Tôn giáo cũng như thế, khuyên con người ăn lành ở hiền để được Phật
phù hộ hay Chúa rước lên Thiên Ðàng. Nói một cách khác giáo dục và tôn
giáo giúp não bộ ta tiết ra Dopamine khi ta làm điều lành để tránh những
cảnh giành giựt và giết chốc khi ta chạy theo bản năng tranh giành miếng ăn
hay người tình. Như thế một người có giáo dục và thực hành đạo có khả
năng dùng sự hiểu biết của mình để điều hòa Dopamine tạo sự sung sướng
thanh nhã. Kẻ sống trong rừng rú và không hiểu đạo thì để cuộc sống vật
chất bên ngoài điều khiển mức độ lên xuống của Dopamine, nên họ làm nô
lệ cho vật chất. Họ không thể sống hạnh phúc khi vắng những thú vui vật
chất.
Như thế, đúng như Freud nói, khoái lạc đóng vai trò then chốt trong
mọi sinh hoạt của loài người. Hơn hai ngàn năm trước đó Phật gọi sở thích
khoái lạc là tham dục. Chúa Jesus cũng khuyên con người rời bỏ cảnh dục
lạc. Người ta lạm dụng rượu và thuốc để đạt khoái lạc một cách dễ dàng và
tức thời. Những loại thuốc được lạm dụng đều ảnh hưởng đến khu Ventral
Tegmental làm Dopamine tiết ra gấp 2 tới 10 lần nhiều hơn và tồn tại lâu
hơn so với những thú vui bình thường. Cảm giác khoái lạc cực điểm đó thúc
đẩy mãnh liệt người nghiện tìm thêm thuốc để kéo dài cái cảm giác thiên
đàng tại thế. Những người nghiện bỏ bê học vấn và gia đình vì cái cảm giác
thích thú có được khi đạt điểm cao hay được người thân khen tặng bấy giờ
rất là nhàm, không thể nào sánh được với cái cảm giác khoái lạc khi lạm
dụng thuốc. Tánh tình của người nghiện bắt đầu thay đổi; gia đình, bạn tốt
không đủ sức hấp dẫn họ. Họ thích những buổi trụy lạc lạm dụng thuốc với
đám bạn nghiện và có bao nhiêu tiền đều dùng vào việc mua thuốc để tìm

đến cái thiên đàng giả tạo này. Ðây là giai đoạn lạm dụng thuốc (drug
abuse).
Sau một thời gian ngắn lạm dụng thuốc thì bộ óc họ có rất nhiều thay
đổi. Dopamine có tự nhiên trong não bị suy giảm trầm trọng. Những hình
chụp não bộ PET scan cho thấy rằng chất protein hấp thụ Dopamine đem trở
vào tế bào thần kinh (Dopamine transporter, hình 2) bị sa sút trầm trọng. Vì
thế, người bị nghiện có nhiều triệu chứng của bịnh trầm cảm khi thiếu thuốc:
chán nản, buồn rầu, tinh thần sa sút, mất ngủ, không chăm chú vào công việc
được. Ngoài ra tùy theo loại thuốc lạm dụng mà họ có thêm những triệu
chứng thiếu thuốc (withdrawal symptoms) làm trong người rất bồn chồn khó
chịu. Triệu chứng thiếu rượu là tay chân run rẩy, buồn nôn, lo âu, trí nhớ suy
giảm, bị giựt kinh phong và mê sảng. Nếu họ lạm dụng thuốc phiện (opiate)
thì những triệu chứng thiếu thuốc như đau nhức toàn thân, nôn mửa, mất
ngủ, căng thẳng tột độ làm họ từ thiên đàng rơi xuống địa ngục trần gian rất
nhanh chóng.
Ðến giai đoạn này những cơn cực khoái xảy ra rất ít vì họ bị lờn thuốc
(tolerance). Người nghiện lúc bây giờ tìm thuốc để tránh cơn thiếu thuốc và
có được cảm giác bình thường, chớ ít được cảm giác cực khoái nửa vì họ bị
lờn thuốc. Giai đoạn này được gọi là lệ thuộc thuốc (drug dependence).
Người bị lệ thuộc hóa chất dễ rơi vào đường tội phạm làm mọi cách để có
thuốc để tránh cơn thiếu thuốc. Những loại thuốc nghiện là quốc cấm cho
nên họ phải trải qua rất nhiều sự khó khăn để tìm mua thuốc lén lút. Khi đến
giai đoạn này thì đa số người nghiện bị mất sở làm vì cái thời gian đi tìm
thuốc chiếm hết cuộc sống của họ. Một số người nghiện bị rơi vào cạm bẫy
của băng đảng. Ðôi khi phụ nữ bị buộc làm nghề mãi dâm để được cho dùng
hóa chất làm nghiện. Thanh niên thì dễ đi vào đường tội phạm bán thuốc làm
nghiện hoặc đi trộm cấp để có tiền mua thuốc.
Chúng ta cần có chất Dopamine để có những hứng thú trong cuộc
sống. Tuy nhiên nếu ta lạm dụng rượu và hóa chất, Dopamine tăng quá độ
thì những suy nghĩ sáng suốt của ta mất dần. Tình cảm đam mê tăng nhiều

thường làm mờ lý trí. Khi Dopamine tăng nhiều quá thì khả năng suy luận
để đáp ứng với thực tế mất dần. Ở những người lạm dụng cocaine, khi
Dopamine tăng quá độ, họ có những triệu chứng hoan tưởng bị ám hại
(paranoia) của chứng bịnh tâm thần phân liệt (schizophrenia). Ở cường độ
nhẹ hơn thì Dopamine làm mất khả năng nhận xét khách quan. Hiếm có
người nghiện rượu chấp nhận họ bị nghiện. Họ tìm mọi cách biện hộ cho
cơn nghiện. Ngay cả khi bị xơ gan mà vẫn có người không bỏ rượu được.
Họ còn cho là bác sĩ chẩn bịnh sai. Ðến giai đoạn này những suy nghĩ của
người nghiện chỉ xoay quanh làm sao để có được chất mình nghiện. Họ sẵn
sàng tự dối mình, nói dối người trong gia đình, và cũng sẵn sàng đi thêm
một bước xa hơn trở thành tội phạm (ăn cấp tiền gia đình, lấy đồ trong sở ra
bán chợ đen ) để giải quyết cơn nghiện của họ.
Khi cái cảm giác khoái lạc được gắng liền với một hóa chất nào đó rồi
thì cái chuỗi phản xạ dẫn đến lạm dụng thuốc -hành động một cách vô ý
thức (automatic behavior)- được thành lập. Vì hành động đó vô ý thức nên
người nghiện rất khó kềm chế cơn nghiện.
Thí dụ như người nghiện rượu hay viện cớ đi đến gần những quán
rượu. Họ cho rằng con đường đi ngang quán rượu là con đường ngắn nhất để
về nhà. Khi nhìn thấy quán rượu thì họ cảm thấy thèm muốn (craving) và tự
động bước vào. Người nghiện có thể biện hộ cho hành động của họ. “Tôi
không muốn nhậu nhưng thằng bạn nó rủ rê”. Họ có thể đánh giá thấp cơn
nghiện. “Tôi chỉ uống vài lon bia để giải trí mà thôi”. “Vài lon bia” tương
đương với 10 lon bia mỗi ngày! Có lẽ vì thế trong tôn giáo có những giới
luật cấm lạm dụng những hóa chất làm lu mờ trí tuệ. Khi trí tuệ bị lu mờ rồi
thì con người dễ có những hành vi sai lầm mà họ không hay biết. Lúc đó khả
năng tự kềm chế bị mất. Người lịch sự khi say rượu có thể chửi bới tục tĩu
hoặc có hành động thô bỉ.
Một số người không biết cách điều chế tình cảm và hễ có căng thẳng
là họ tìm đến rượu chè để quên buồn phiền. Ta có thể quan sát quan hệ của
đứa trẻ khi gặp khó khăn và vai trò của người mẹ để hiểu cơ chế này. Khi

đứa trẻ bị té đau (lo âu, sơ hải), nó chạy đến mẹ nó để được an ủi. Khi được
mẹ ôm ấp trong lòng và lấy tay xoa chỗ đau thì bỗng nhiên cơn đau tan mất.
Lúc đó trong não bộ đứa bé Dopamine tăng, nó cảm thấy an tâm và sung
sướng khi có mẹ an ủi và lo lắng cho nó, vì thế cơn đau giảm đi nhiều.
Trường hợp những đứa trẻ không có cha mẹ chăm sóc gần kề thì trong tâm
hồn nó cảm thấy lo lắng và trống trải. Khi gặp bạn bè rủ rê thử dùng những
hóa chất gây nghiện làm tăng Dopamine thì nó cảm thấy cơn lo và đau khổ
tan biến. Nhưng cái tai hại là khi lạm dụng hóa chất thì Dopamine tăng gắp
nhiều lần so với lượng Dopamine khi được mẹ an ủi. Vì thế, lạm dụng hóa
chất lần lần đóng cánh cửa của quan hệ tình cảm bình thường. Khi nghiện
rồi thì lời khuyên can của người thân không thấm vào đâu hết. Người nghiện
bỏ bê trách nhiệm gia đình và xã hội. Họ đi trên con đường dẫn xuống vực
thẩm.
Cổ nhân có nói: “Ngừa bịnh còn hơn là chữa bịnh”. Trong kinh Phật
có nói: “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Những câu này áp dụng rất
đúng với sự nghiện hóa chất. Tốt nhứt là tránh không dùng hóa chất làm
nghiện. Một khi làm quen với những hóa chất tạo nghiện rồi thì đi trở ra rất
là khó. Sự lôi cuốn của những cơn khoái lạc quá mạnh để mà lý trí có thể
cưỡng lại được. Người bình thường coi trọng quan hệ gia đình để lìa bỏ
những cái lôi cuốn của vật chất. Người nghiện, ngược lại bị vật chất làm mờ
mắt sẵn sàng lìa bỏ những giá trị của tinh thần để làm con thiêu thân trong
những bữa ăn chơi trụy lạc. Khi làm nô lệ cho cơn nghiện rồi thì người
nghiện sẵn sàng làm mọi việc tội lỗi để có tiền mua thuốc. Họ đánh đập vợ
con đòi tiền ăn nhậu, ăn cấp đồ dạt trong nhà đem đi bán trong lúc vợ con
sống trong túng thiếu. Ánh sáng của lương tâm họ rất yếu và thường xuyên
bị những cơn nghiện và cơn thiếu thuốc che lấp.
Ngày nay chế độ nô lệ không còn tồn tại trên thế giới. Nói riêng về
dân tộc Việt Nam thì biết bao nhiêu người bị chết trong những chuyến vượt
biển tìm tự do. Chúng ta là số người may mắng được sống sót và được
những quốc gia thế giới tự do tiếp đón. Tuy nhiên nếu không khéo ta hoặc là

con cái trong gia đình bị nghiện ngập thì, mặc dù sống trên thế giới tự do,
nhưng khi bị nghiện thì sự tự do quyết định và phán xét bị tước đoạt. Sớm
muộn gì người nghiện thuốc sẽ mất đi quyền chọn lựa của họ. Về tâm lý, sự
khôn ngoan sáng suốt sẽ mất dần. Về tâm linh thì lương tâm sẽ không còn
nửa. Về thể xác thì sự nghiện ngập mở cánh cửa rộng cho bịnh tật xâm
chiếm cơ thể (viêm gan, xơ gan, HIV ). Người nghiện còn có nguy cơ gây
tội phạm như say rượu trong lúc lái xe (DUI) hoặc trộm cấp và dễ bị vào tù.
Có nhiều trường hợp phụ huynh thật đau khổ khi mình đã phải sống chết
vượt biển để cho con mình được hưởng tự do mà giờ đây đứa con bị ngồi tù
hay đáng buồn hơn là bị xử tử vì buôn bán thuốc làm nghiện.
Ðiều mà chúng ta có thể làm được là giáo dục cho con em chúng ta
thấy được sự tai hại của sự lạm dụng những hóa chất làm nghiện. Ðúng như
các giáo chủ các tôn giáo lớn trên thế giới nói, tình thương đóng vai trò then
chốt cứu con người ra khỏi sự mê đắm thế giới vật chất. Nghiện hóa chất là
một diễn hình mạnh mẽ cho sự mê đắm đó. Khi lọt vào cái vòng sa đọa của
cơn nghiện rồi thì khả năng thoát ra rất là hiếm. Thống kê ước lượng khoảng
70% người bị nghiện sa vào cơn nghiện trở lại (relapse) sau khi được cai
thuốc. Chúng ta có thể bắt đầu công việc ngăn chận con cái chúng ta rơi vào
con đường nghiện bằng cách tạo ra nhiều cơ hội hỏi han chăm sóc chúng.
Bước đầu là tạo dựng một nền tảng tình yêu trong gia đình. Bước kế tiếp là
chúng ta nên khuyên con cái gia nhập vào các cộng đồng tôn giáo để sinh
hoạt lành mạnh và phát huy được đời sống tâm linh.
Tóm lại nghiện thuốc là một vấn đề hết sức quan trọng mà phụ huynh
và giới chức giáo dục cần quan tâm. Nghiện thuốc có thể kéo đời sống của
một người có tương lai sáng rực rơi xuống vực thẩm tận cùng. Nghiện thuốc
hiện thời được coi là một bịnh của não bộ vì càng ngày ta càng có nhiều dữ
kiện khoa học chứng minh rằng lạm dụng thuốc nghiện làm thay đổi những
chất thần kinh liên kết (neuro transmitters) trong não bộ. Sự thay đổi này ảnh
hưởng xấu đến nhận thức, thái độ và hành động người nghiện. Có nhiều
trường hợp thương tâm là cha mẹ làm việc khổ nhọc để tạo dựng cơ sở vật

chất tốt đẹp cho con mình. Nhưng khi đứa con bị nghiện thì nó trở thành một
người hoàn toàn khác. Cảnh nhung lụa còn đó, nhưng phụ huynh đã mất đứa
con thân yêu.

Bs Thái Minh Trung

×