Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Hướng Dẫn Mới Điều Trị Cao Huyết Áp Tại Hoa Kỳ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.29 KB, 4 trang )

Hướng Dẫn Mới Điều Trị Cao
Huyết Áp Tại Hoa Kỳ


Song song với bảng hướng dẫn mới điều trị cao huyết áp của Âu châu,
hội bệnh cao huyết áp tại Hoa-kỳ cũng đưa ra bảng hướng dẫn mới với
những đặc điểm sau:
Bệnh cao huyết áp là một trong những bệnh phổ thông nhất tại Hoa-
kỳ. Dùng mức giới hạn là ³140/90 mm Hg để xem như cao huyết áp, gần ¼
người lớn được chẩn đoán cao huyết áp và ¼ khác ở trong nhóm tiền cao
huyết áp, được định nghĩa là huyết áp tâm thu giữa 120-139 mm Hg và
huyết áp tâm trương giữa 80-89 mm Hg.
Huyết áp tâm thu tiếp tục tăng cùng với tuổi, trong khi huyết áp tâm
trương có chiều hướng suy giảm khi chúng ta trên 50 tuổi. Vai trò huyết áp
tâm thu và tâm trương để tiên đoán bệnh thiếu máu cục bộ tim cũng thay đổi
với tuổi tác. Huyết áp tâm trương là yếu tố nguy hiểm trầm trọng khi dưới
50 tuổi, và huyết áp tâm thu có ý nghĩa quan trọng hơn cho người trên 60
tuổi.
Giảm huyết áp tâm thu 10 mm Hg ở thời kỳ trung niên có thể giảm
nguy cơ tử vong tim mạch khoảng 50%. Lời khuyên hiện nay tập trung vào
điều trị cao huyết áp ở nhóm bệnh nhân có nguy cơ bệnh thiếu máu cục bộ
tim.
Những điểm chính trong bảng hướng dẫn mới:
 Để phòng ngửa chung bệnh tim thiếu máu cục bộ, huyết áp phải
thấp hơn 140/90 mm Hg. Trong số những bệnh nhân với thang điểm
Framingham về nguy cơ bệnh tim mạch trong 10 năm vượt quá 10%, bệnh
tiểu đường, bệnh suy thận mãn, bệnh tim động mạch vành biết rõ, huyết áp
mục tiêu phải ≤ 130/80 mm Hg. Các tác giả bảng hướng dẫn cũng khuyên
đưa huyết áp dưới 120/80 mm Hg cho bệnh nhân rối loạn chức năng tâm thất
trái.
 Trong khi lý thuyết bảo giảm thái quá huyết áp tâm trương có


thể gây kết quả tim mạch xấu hơn còn tranh cãi và chỉ được hổ trợ một phần
bởi những nghiên cứu lâm sàng, tác giả khuyên giảm huyết áp tâm trương
chậm rãi. Nên cẩn thận khi huyết áp tâm trương tụt xuống dưới 60 mm Hg ở
bệnh nhân trên 60 tuổi và người bệnh tiểu đường.
 Giảm huyết áp đến mức mục tiêu quan trọng hơn là chọn thuốc
giảm huyết áp để giảm nguy cơ tim mạch. Điều trị tuyến đầu có thể gồm
thuốc lợi tiểu thiazide, thuốc chống men chuyển (ACE-I), hay thuốc chẹn
thụ thể angiotensin (ARB), hay thuốc chẹn kênh calcium (CCB). Nếu huyết
áp mục tiêu đòi hỏi giảm hơn 20/10 mm Hg, bác sĩ nên dùng 2 món thuốc
kết hợp để giảm huyết áp.
 Điều trị bệnh nhân cao huyết áp và bệnh đau thắt ngực mãn tính
(angina pectoris) phải gồm beta-blocker nếu trước đó bệnh nhân bị nhồi máu
cơ tim. Thuốc chẹn kênh calcium không phải dihydropyridin có thể dùng
cho cho bệnh nhân không dung nạp beta-blocker nhưng không được dùng
cho bệnh nhân rối loạn chức năng tâm thất trái.
 Beta-blocker là thuốc được chọn cho bệnh nhân nằm bệnh viện
với hội chứng động mạch vành. Những bệnh nhân này phải dùng thuốc
chống men chuyển hay ARB nếu có chứng cứ nhồi máu cơ tim phía trước,
cao huyết áp dai dẳng, hay suy tim hay có bệnh tiểu đường.
 Thuốc đối kháng aldosterone có thể được nghĩ đến cho bệnh
nhân rối loạn chức năng tâm thất trái, nhưng nhóm thuốc này phải tránh nếu
mức creatinin huyết thanh trên 2.5 mg/dl cho phái nam và trên 2.0 mg/dl cho
phái nữ. Thuốc kháng aldosterone cũng không thích hợp cho bệnh nhân có
mức Kali huyết thanh K ³ 5 mEq/L.
 Nên tránh dùng đồng thời thuốc chống men chuyển và ARB ở
thời kỳ ngay sau khi nhồi máu cơ tim với sóng ST tăng cao, nhưng có thể
cho phép dùng các nhóm thuốc khác ở bệnh nhân cao huyết áp và suy tim.
 Thuốc kháng alpha như doxazosin chỉ dùng cho bệnh nhân cao
huyết áp đã dùng liều cao các thuốc hạ áp khác.


Ds Lê-văn-Nhân

×