Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

BÀI HỌC VỀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA CÁC NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN KHỦNG HOẢNG THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.01 KB, 24 trang )

Học viện Ngân hàng
Khoa Ngân hàng

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

BÀI HỌC VỀ ĐIỀU HÀNH CSTT CỦA CÁC NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN
KHỦNG HOẢNG
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ ĐIỀU HÀNH CSTT CỦA NHNN VIỆT
NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY
Bộ môn: Tiền tệ - Ngân hàng

Nhóm “KTX”: Phạm Quỳnh Diệp
Trần Thị Dung
Vũ Thị Kiều
Lê Thanh Phương
Thạch Thị Thủy


Hà Nội, tháng 10/2010

2


LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, qua bao thăng trầm và biến đổi, đường lối đổi mới của
Việt Nam đã thực sự đi vào thực thi. Có thể nói, chính sách đổi mới về kinh tế đã thành công
trong việc giúp nền kinh tế nước ta vượt qua thời kỳ lạm phát không kiềm chế được và khôi
phục cân bằng kinh tế vĩ mô. Kể từ đó, Chính phủ đã chuyển dịch những ưu tiên hàng đầu của
mình vào điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế. Đặc biệt, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chính
sách tiền tệ quốc gia, tăng cường quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, góp
phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường là một chủ


trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Cách quản lý kinh tế và hoạt động Ngân hàng bằng cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sẽ được thay thế dần bằng sự vận hành một chính sách tiền tệ linh
hoạt dựa trên nền tảng một thị trường tài chính phát triển. Để thực hiện tốt chính sách tiền tệ,
chúng ta cần nghiên cứu chính sách tiền tệ trên cơ sở một loạt các vấn đề về lý luận chung, về
chính sách tiền tệ, kinh nghiệm chính sách tiền tệ một số nước, thực trạng chính sách tiền tệ ở
Việtt Nam. Do đó bài thảo luận này với những nghiên cứu ban đầu về chính sách tiền tệ xin
được đưa ra những tổng kết ban đầu về chính sách tiền tệ, đánh giá và đưa ra giải pháp cho
việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây.

3


MỤC LỤC
1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ................................................5
1.1. Những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ........................................................................5
1.1.1. Khái niệm...........................................................................................................................5
1.1.2. Vai trị và mục tiêu.............................................................................................................5
1.1.3. Cơng cụ chính sách tiền tệ.................................................................................................5
1.1.3.1. Cơng cụ trực tiếp.............................................................................................................6
1.1.3.2............................................................................................................... Cơng cụ gián tiếp
..........................................................................................................................................6
1.2.

Cơ chế tác động.................................................................................................................6

1.2.1. Đặc điểm tác động của chính sách tiền tệ........................................................................5
1.2.2.2. Kênh giá tài sản...............................................................................................................8
1.2.2.1. Kênh lãi suất....................................................................................................................8
1.2.2. Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ..............................................................................8
1.2.2.3. Kênh tín dụng..................................................................................................................9

2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA MỘT SỐ NƯỚC NHẰM ỨNG PHÓ VỚI CUỘC
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI TOÀN CẦU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM. .9
2.1. Diễn biến khủng hoảng kinh tế thế giới.............................................................................9
2.1.1. Nguyên nhân......................................................................................................................9
2.2.2. Diễn biến của khủng hoảng tài chính tại Mỹ.....................................................................9
2.1.3. Hậu quả............................................................................................................................10
2.2. Kinh nghiệm điều hành CSTT của 1 số nước trên thế giới trước khủng hoảng kinh tế
...................................................................................................................................................11
2.2.1. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED).......................................................................................11
2.2.2. Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ)..........................................................................13
2.2.3. Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBOC)......................................................................13
2.3. Bài học kinh nghiệm về điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam.................................14
3.GIẢI PHÁP CSTT NHẰM GIÚP NỀN KINH TẾ VIỆT NAM ỨNG PHÓ VỚI
KHỦNG HOẢNG KTTG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG DÀI HẠN...............15

4


3.1. Thực trạng nền kinh tế việt nam dưới tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới ......15
3.1.1 Về bất động sản đầu tư và thu hút FDI.............................................................................15
3.1.2 Xuất nhập khẩu.................................................................................................................16
3.1.3 Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tình trạng thất nghiệp........................................................17
3.1.4 Lạm phát...........................................................................................................................17
3.2. Thực trạng giải pháp của Chính phủ, Nhà nước Việt Nam nhằm ứng phó với
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.........................................................................................18
3.2.1. Giải pháp của Chính phủ..................................................................................................19
3.2.2. Thực trạng CSTT Việt Nam đã và đang được triển khai nhằm ứng phó với cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ................................................................................................................19
3.2.3. Hiệu quả...........................................................................................................................21
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của các cơng cụ của CSTT...............................................22

3.3.1 Nhóm giải pháp nhằm hồn thiện các cơng cụ của CSTT................................................23
3.3.2 Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi..............................................23

5


1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1.Những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ
Trong thời kì sơ khai của các nền kinh tế, khi các ngân hàng phát hành mới ra đời, nhiệm
vụ chủ yếu của chúng là phát hành ra tiền. Các khoản tiền phát hành ra nhằm mục đích chủ
yếu nhằm bù đắp cho những khoản chi tiêu vượt quá của chính phủ. Kinh tế suy thối, ngân
sách lâm vào tình trạng bị thâm hụt lớn, ngân hàng buộc phải phát hành ra những khoản tiền
khổng lồ để bù đắp cho những khoản thâm hụt này. Điều dó là nguyên nhân trực tiếp gây nên
tình trạng lạm phát cao, do vậy khơng thể duy trì mãi cơ chế này. Hơn nữa tài chính – tiền tệ là
lĩnh vực hết sức quan trọng của nền kinh tế. Nhà nước với vai trò chỉ đạo, quản lí vĩ mơ nền
kinh tế khơng thể khơng xây dựng một chính sách vĩ mơ cụ thể cho lĩnh vực này. Chính sách
tiền tệ đã ra đời như vậy và cơ quan thực hiện nó chính là ngân hàng trung ương.
1.1.1 Khái niệm
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mơ mà trong đó Ngân hàng
Trung ương, thơng qua các cơng cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng
tiền cung ứng (hoặc lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế, nhằm đạt được các
mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn việc làm.
Bản chất chính sách tiền tệ: chủ động tạo ra các biến động về tiền tệ (xét cả về khối
lượng tiền và giá tiền – lãi suất) với một mục đích xác định.
1.1.2 Vai trị và mục tiêu
 Vai trị
Cùng với chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại,… chính sách
tiền tệ xuất hiện trong trương trình hành động của chính phủ các quốc gia như một đòi hỏi tất
yếu khách quan trước những thăng trầm của nền kinh tế các nước trong những thập kỉ, thế kỉ
vừa qua.

Trong suốt khoảng thời gian đầy rẫy những thăng trầm đó, nhân loại đã chứng kiến đầy đủ
những khuyết tật của thị trừơng, ví dụ như: chạy theo lợi nhuận tối đa đến lừa đảo, tội ác, vi
phạm pháp luật; đồng tiền chi phối các quan hệ xã hội, quan hệ chính trị; phân hố giàu nghèo
ngày càng tăng, bất công xã hội phát triển; phá huỷ môi trường sinh thái; cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên,…Thế giới văn minh ngày nay càng thấy rõ hơn bao giờ các khiếm khuyết đó, vì
vậy Nhà nước đã khơng thể đứng ngồi cuộc, nó phải sử dụng “ bàn tay hữu hình”, tức là hệ
thống các chính sách kinh tế của mình để tác động vào nền kinh tế và chính sách tiền quốc gia
là một trong những công cụ quản lý vĩ mơ mang tính then chốt đối với mọi nhà nước.
Như vậy vai trị của chính sách tiền tệ là rất lớn, như Samuelson đã nói” Chính phủ phải
biết cách dùng chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế khác để ngăn chặn bất cứ cuộc suy
thoái nào nổ ra, không cho chúng phát triển lên thành những cuộc khủng hoảng mang tính kéo
dài” Có thể nói sứ mệnh mà chính sách tiền tệ được giao phó là hết sức cao cả, đó là đưa nền
kinh tế thị trường phát triển không ngừng phục vụ nhu cầu cuộc sống của con người.
 Mục tiêu
Tuỳ theo cách phân chia cũng như đặc điểm kinh tế từng thời kì của mỗi quốc gia mà họ
xác định cho mình mục tiêu của chính sách tiền tệ sao cho phù hợp, Tuy nhiên mục tiêu chính
sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các quốc gia, đó là kiểm sốt và đIều tiết lượng tiền cung

6


ứng nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định giá trị của đồng tiền, trên cơ sở đó tạo cơng ăn việc
làm, thúc đẩy nền kinh tế.
1.1.3.Cơng cụ chính sách tiền tệ
Cơng cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền lưu thơng và lãi suất, từ đó mà đạt được
các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
1.1.3.1 Cơng cụ trực tiếp
Là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông (hoặc các mức lãi suất
trung và dài hạn).

Công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được
điều tiết chặt chẽ là hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng phải tơn trọng
khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
1.1.3.2 Cơng cụ gián tiếp
Nhóm cơng cụ này tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ, thơng
qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng
tiền cung ứng và lãi suất.
 Dự trữ bắt buộc (DTBB)
Là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại
NHTW.
Số tiền này được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại
một khoảng thời gian nào đó. Mức dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời
hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của NHTM.
 Chính sách tái chiết khấu
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định và điều kiện cho vay của NHTW đối với
các NHTM. NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá trị ngắn hạn,
chủ yếu là tín phiếu Kho bạc và thương phiếu.
Các NHTM vay NHTW nhằm mục đích bù đắp hoặc bổ sung nhu cầu vốn khả dụng cà
hình thành nên bộ phận dự trữ đi vay.
 Nghiệp vụ thị trường mở
Là các hoạt động của NHTW trên thị trường mở thông qua việc mua bán các chứng khoán.
Các hoạt động này ảnh hưởng trực tiếp đến dự trữ của các NHTM và ảnh hưởng gián tiếp đến
các mức lãi suất.

1.2 Cơ chế tác động
1.2.2. Đặc điểm tác động của chính sách tiền tệ
 Cơng cụ trực tiếp
Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực
tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp

không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển, hoặc do mức cầu tiền tệ không
nhạy cảm với sự biến động lãi suất..., thì cơng cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW
trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.

7


Tuy nhiên, hiệu quả của công cụ này không cao, bởi nó thiếu linh hoạt và đơi khi đi ngược
lại với chiều hướng biến động của thị trường tín dung, do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm suy
giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại.
Bên cạnh hạn mức tín dụng, NHTW có thể điều tiết trực tiếp các mục tiêu trung gian thông
qua việc ấn định lãi suất hoặc tỷ giá.
 Cơng cụ gián tiếp
• Dự trữ bắt buộc
Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và do đó mức dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền
cung ứng theo 3 cách:
Thứ nhất: khi NHTW quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, bộ phận dự trữ dư thừa trước
đây trở thành dự trữ bắt buộc, làm giảm khả năng cho vay của hệ thống NHTM
Thứ hai: tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của công thức tạo tiền. vì
thế sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số tạo tiền và do đó khả năng mở rộng
tiền gửi của hệ thống ngân hàng.
Thứ ba: tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn NHTW trên thị trường liên
ngân hàng. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi, sự giảm sút này làm tăng
lãi suất liên ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến các mức lãi suất dài hạn và khối lượng tiền cung
ứng.
Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây nên những ảnh hưởng ngược lại.
Lợi thế chủ yếu của dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng là sự thay
đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân hàng. Chỉ cần
một phần trăm thay đổi tỷ lệ DTBB tính trên tổng số dư tiền gửi bình quân ngày, mức dự trữ
sẽ thay đổi đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cập số nhân của khối lượng tiền cung ứng. Bởi

thế, công cụ DTBB trở nên thiếu linh hoạt vì sự thay đổi thường xuyên sẽ gây nên sự bất ổn
định cho hoạt động của các ngân hàng và chị phí cho sự điều chỉnh thích ứng với tỷ lệ DTBB
mới là rất tốn kém. Mặt khác, sự thay đổi dự trữ bắt buộc gây ảnh hưởng ngay lập tức và trực
tiếp đến lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng.
• Chính sách tái chiết khấu
Trong công cụ này, NHTW ấn định hạn mức tái chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu và các
điều kiện tái chiết khấu. Khối lượng vốn khả dụng được bổ sung từ NHTW có thể bị giới hạn
hoặc nới rộng căn cứ vào hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu, qua đó mà
ảnh hưởng đến khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM. Khi lượng vốn khả dụng thay đổi, nó sẽ
làm cho quan hệ cung cầu vốn và do đó lãi suất thị trường liên ngân hàng thay đổi.
Sự thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu tác động trước hết vào giá đầu vào của các NHTM,
vì thế các ngân hàng này dần dần tăng (hoặc giảm) lãi suất cho vay, do đó làm giảm (hoặc
tăng) nhu cầu tín dụng. bên cạnh đó, khi lãi suất chiết khấu tăng lên các NHTM không thể vay
NHTW một cách dễ dàng, điều này buộc các NHTM phải giảm bớt khả năng cung ứng tín
dụng để hồi phục dự trữ, hoặc mở rộng cho vay trong trường hợp ngược lại.
Sự thay đổi lãi suất tái chiết khấu được coi như dấu hiệu của định hướng chính sách tiền tệ
của NHTW. Cơng cụ này có khả năng điều tiết một cách linh hoạt các mục tiêu trung gian.
Tuy nhiên mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này căn cứ vào mức độ phụ thuộc về vốn
của NHTM vào NHTW, vì thế nó là cơng cụ kém chủ động.
• Nghiệp vụ thị trường mở

8


Thứ nhất: khi NHTW mua bán các chứng khốn, nó sẽ làm tăng (giảm) ngay lập tức dự trữ
của các NHTM, dù người bán là NHTM hay khách hàng của nó. Vì thế khả năng tạo tiền gửi
thơng qua cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm xuống, từ đó ảnh hưởng đến lượng
tiền cung ứng
Thứ hai: Khi vốn khả dụng của từng ngân hàng cá nhân giảm do tác động của hoạt động
thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng giảm xuống, trong điều

kiện các yếu tố liên quan không đổi, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng lên. Thông qua các
hoạt động arbitrage về lãi suất, ảnh hưởng này được truyền đến các mức lãi suất của các công
cụ thị trường mở, và lãi suất thị trường trái phiếu. Kết quả là chi phí cơ hội đối với người có
vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với người thiếu hụt vốn tăng lên, làm giảm cầu đầu tư và
nhu cầu tiêu dùng của xã hội, và do đó mà giảm sản lượng, giá cả và cơng ăn việc làm.
Thứ ba: hoạt động thị trường mở còn ảnh hưởng đến cung cầu và do đó giá các chứng
khốn thuộc phạm vi can thiệp, chủ yếu là tín phiểu Kho bạc. Trong trường hợp NHTW bán
chứng khoán, lượng chứng khốn tăng lên trong khi nhu cầu chứng khốn khơng tăng, làm
cho giá cả các chứng khoán giảm xuống, mức sinh lời của chúng tăng lên. Điều này buộc các
tổ chức nhận tiền gửi phải tăng lãi suất để hạn chế tình trạng “phi trung gian hóa”. Đồng thời
lãi suất của các chứng khốn mới phát hành cũng bị kích thích tăng tương ứng.
Đây là cơng cụ điều tiết các mục tiêu trung gian có hiệu quả nhất vì nó linh hoạt và chủ
động. Hơn nữa sự tác động của nghiệp vụ thị trường mở là lợi dụng cơ chế của thị trường nên
các đối tượng chịu sự tác động thường khó chống đỡ hoặc đảo ngược lại chiều hướng điều
chỉnh của NHTW.
1.2.2. Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ
Sự thay đổi khối lượng tiền cung ứng ảnh hưởng đến nền kinh tế bằng 3 con đường : lãi suất,
giá tài sản và hoạt động tín dụng ngân hàng
1.2.2.1.Kênh lãi suất
Khi khối lượng tiền mở rộng, mức lãi suất thực giảm xuống làm giảm giá vốn vay. Nhu
cầu đầu tư, vì thế, tăng lên, làm tăng tổng cầu và tăng sản lượng.
M↑ → i↓ → I↑ → Y↑
Sự thay đổi mức lãi suất ngắn hạn được khống chế trực tiếp bởi NHTW có thể ảnh hưởng
đến các mức lãi suất khác của nền kinh tế theo nguyên lý cơ cấu thời hạn của lãi suất. cuối
cùng ảnh hưởng này lan truyền tới toàn bộ hệ thống lãi suất của nền kinh tế.
1.2.2.2 Kênh giá tài sản
Lãi suất là một loại giá tài sản và được coi là kênh truyền dẫn chủ yếu theo quan niệm của
Keynes.
 Ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá
Sự biến động của lượng cung tiền sẽ dẫn đến sự thay đổi của tỷ giá. Kênh tác động này sẽ

ảnh hưởng đến các mục tiêu cuối cùng thơng qua 2 con đường:
• Sự thay đổi trong giá tương đối
Trong điều kiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, mỗi sự biến động của lượng tiền cung ứng sẽ
truyền tác động nhanh chóng tới tỷ giá, thông qua sự thay đổi lãi suất nội tệ. Sự thay đổi tương
quan về giá có tác động kích thích hoặc hạn chế xuất khẩu. Sản lượng, công ăn việc làm vì thế
mà thay đổi:
M↑ → i↓ → E↓ → XK↑ → Y↑

9


• Sự thay đổi tình trạng bảng tổng kết tài sản của các chủ thể kinh tế trong xã hội
Khi các chủ thể kinh tế duy trì một tình trạng hối đoái trường hoặc đoản trên bảng tổng kết
tài sản, thì sự thay đổi của tỷ giá ngoại tệ sẽ ảnh hưởng tới giá trị ròng của bảng tổng kết tài
sản, từ đó mà tác động tới tình hình tài chính của các chủ thể này. Điều đó, sẽ điều chinhr các
hành vi chi tiêu hay vay nợ của họ, từ đó mà ảnh hưởng tới tổng cầu và sản lượng.
 Giá cổ phiếu
Khi NHTW mở rộng khối lượng tiền cung ứng M, giá cổ phiếu Pe có xu hướng tăng lên
làm tăng chỉ số q và nhu cầu đầu tư mới. Sản lượng vì thế tăng lên:
M↑ → Pe↑ → q↑ → I↑ → Y↑

Ảnh hưởng tới thu nhập thường xuyên của công chúng
Mức tiêu dùng thường xuyên của các hộ gia đình phụ thuộc vào nguồn thu nhập thường
xuyên và dài hạn. Một bộ phận của nguồn thu nhập dài hạn là từ tài sản tài chính. Khi M tăng
lên, giá cổ phiếu tăng lên làm tăng nguồn thu nhập dài hạn, kích thích tiêu dùng.
M↑ → Pe↑ → tài sản↑ → tiêu dùng↑ → Y↑
1.2.2.3. Kênh tín dụng

Ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng tín dụng được cung ứng
Chính sách tiền tệ có thể tác động đến nền kinh tế thông qua hoạt động này theo cơ chế sau:

M↑ → TGNH↑ → tiền vay↑ → I↑ → Y↑
CSTT có thể ảnh hưởng đến nhu cầu chi tiêu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hơn là các
doanh nghiệp lớn.

Thông qua tác động điều chỉnh bảng tổng kết tài sản
- Ảnh hưởng đến tình trạng rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch
M↑ → Pe↑ → lựa chọn đối nghịch ↓, rủi ro đạo đức↓ → cho vay↑ → Y↑
- Thơng qua cải thiện tình trạng dòng lưu ngân
M↑ → i↓ → CF↑ → lựa chọn đối nghịch ↓, rủi ro đạo đức↓ → cho vay↑ → I↑ → Y↑
- Thông qua sự biến động mức giá chung
M↑ → Pe(khơng dự tính) ↓ → lựa chọn đối nghịch ↓, rủi ro đạo đức↓ → cho vay↑ → I↑ → Y↑

Ảnh hưởng thông qua chuẩn mực đánh giá khách hàng
Khi chiến lược chính sách tiền tệ thay đổi, các chuẩn mực đánh giá khách hàng cũng có sự
co giãn phù hợp.
Khi NHTW duy trì một chính sách tiền tệ thắt chặt, thay vì tăng lãi suất, các ngân hàng có
thể sử dụng các tiêu chuẩn đánh giá độ tin cậy của khách hàng khắt khe hơn và nhờ đó giảm
khối lượng tín dụng được cung cấp vì số lượng các khách hàng thỏa mãn các tiêu chuẩn này
giảm đi.

Ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị tài sản của người vay và người cho vay
Khi các điều kiện tiền tệ thay đổi thì giá tài sản của người đi vay thay đổi. điều này làm ảnh
hưởng đến khả năng vay của họ nếu các tài sản đó được sử dụng làm tài sản thế chấp.
Mặt khác, một tỷ lệ lớn tài sản của các ngân hàng được thể hiện dưới dạng các tài sản tài
chính hoặc bất động sản. Khi giá thị trường của chúng thay đổi có thể làm ảnh hưởng đến khả
năng cho vay của hệ thống ngân hàng.

10



2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA MỘT SỐ NƯỚC NHẰM ỨNG PHĨ VỚI
CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI TỒN CẦU
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
2.1. Diễn biến khủng hoảng kinh tế thế giới
2.1.1. Nguyên nhân
Theo nhiều chuyên gia đánh giá, sự suy thối kinh tế tồn cầu có nguồn gốc từ cuộc khủng
hoảng tài chình ở Mỹ trong lĩnh vực tín dụng và bất động sản.
Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hồn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một
cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008.
Thơng qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều
nước. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ
vỡ tài chính, suy thối kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
Lãi suất
ngắn hạn
2.2.2. Diễn
tại Mỹ

Bất đối
xứng
kỳ hạn lãi
biến

MSB, CDS ->
ngừng cho vay,
tịch biên TS

Vay mua
nhà
tràn lan


của

Thị trường
BĐS
sụp đổ

Khủng
hoảng

khủng hoảng tài chính

Sau khi bong bóng Dot-com vỡ vào năm 2001 và suy thoái kinh tế hiện rõ sau sự kiện 11
tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế nước
này khỏi suy thối, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng. Chỉ trong thời gian ngắn
từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 12 năm 2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5%
xuống cịn 1,75%.Tín dụng thứ cấp cũng giảm theo lãi suất.
Điều này kích thích sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động
lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong mơi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có
xu hướng cho vay mạo hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả là vay
và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Năm 2005, có tới
28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để khơng. Năm này, bong
bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ. Từ quý IV năm 2005 đến quý I năm 2006,
giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%. Thời điểm đó, tổng giá trị lũy tích các khoản tín dụng
nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ đô la.
Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức
tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì khơng thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh
khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - collateralized debt obligations) và
chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - mortgage-backed security) do các tổ chức
tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng. Kết quả là bảng cân đối tài sản của các tổ chức
này xấu đi và xếp hạng tín dụng của họ bị các tổ chức đánh giá đánh tụt. Cuộc khủng hoảng

tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra
Nguyên Chủ tịch FED Alan Greenspan sau này thừa nhận rằng ông đã không nhận thức
hết quy mơ của thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp.

11


Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial
Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình
mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín
dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức
đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính
thực thụ chính thức nổ ra.
Từ Mỹ, rối loạn này lan sang các nước khác. Ở Anh quốc, ngân hàng Northern Rock bị
chao đảo vì người gửi tiền xếp hàng địi rút tiền gửi của mình ra.
Trước tình hình đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tiến hành các biện pháp nhằm tăng mức
độ thanh khoản của thị trường tín dụng chẳng hạn như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua
vào các loại công trái Mỹ, trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ và trái phiếu cơ quan chính phủ
Mỹ đảm bảo theo tín dụng nhà ở. Tháng Chín 2007, Cục Dự trữ Liên bang còn tiến hành giảm
lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng (Fed fund rates) từ 5,25% xuống 4,75%. Trong khi
đó, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã bơm 205 tỷ Dollar Mỹ vào thị trường tín dụng để
nâng cao mức thanh khoản.
Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo
kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính và
quy mơ của khủng hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ
thống dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng
2 năm 2008 nhưng khơng có hiệu quả như mong đợi.
Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns, nhưng
không nổi. Công ty này chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại với giá 10 dollar một cổ
phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều với giá 130,2 dollar một cổ phiếu lúc đắt giá nhất trước khi

khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Sterns và
buộc lịng để cơng ty này bị bán đi với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực can thiệp
của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ của Bear Stern đã đẩy
cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn.
Tháng 8 năm 2008, đến lượt Lehman Brothers, một tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và
lâu đời nhất của Mỹ, bị phá sản. Tiếp sau Lehman là một số công ty khác. Tháng 9 năm 2008,
Thượng viện Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Ổn định Kinh tế Khẩn cấp 2008 cho phép bộ trưởng
Tài chính Hoa Kỳ chi tới 700 tỷ USD cứu nền tài chính của nước này bằng cách mua lại các
khoản nợ xấu của ngân hàng, đặc biệt là các chứng khoán đảm bảo bằng bất động sản.
2.1.3. Hậu quả



Hệ thống ngân hàng
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu, cũng tham gia
vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy, bóng bóng nhà ở của Hoa Kỳ
bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ chức tài chính của
Hoa Kỳ. Những nước châu Âu bị rối loạn tài chính nặng nhất là Anh, Iceland, Ireland, Bỉ và
Tây Ban Nha.
Ví dụ như: Tại Anh Northern Rock bị tình trạng đột biến rút tiền gửi và hậu quả là phải
chịu quốc hữu hóa và cịn làm căng thẳng các ngân hàng khác của nước này. Cuối năm 2008,
Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Dexia
chịu khoản lỗ 3,3 tỷ Euro và phải xin Chính phủ Bỉ cho vay để củng cố. Ở Hà Lan, để đảm
bảo hệ số an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ Hà Lan cho vay. Ở Đức, ngày từ đầu

12


năm 2008, người ta phát hiện ra rằng BayernLB đã chịu những khoản lỗ lớn do tham gia vào
thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Sau đó, ngân hàng này đã phải cầu xin sự giúp đỡ

của Chính phủ Liên bang Đức.
Bên cạnh đó, thị trường tín dụng bị thu hẹp do các ngân hàng trên thế giới lo ngại rủi ro từ
các kênh đầu tư: chứng khoán, bất động sản,… đã hạn chế cho vay. Điều này thực sự ảnh
hưởng tiêu cực tới tiêu dùng và đầu tư sản xuất kinh doanh của các quốc gia.
 Thị trường chứng khoán
Rõ ràng sự suy thoái kinh tế thế giới cũng đã khiến cho thị trường chứng khốn suy giảm
mạnh mẽ, chỉ tính riêng từ khi bắt đầu khủng hoảng các thị trường chứng khoán suy giảm
mạnh. Trong năm 2008 cũng do tác động của cuộc khủng khoảng nên thị trường chứng khốn
tài chính tồn cầu đã mất khoảng 17.000 tỷ USD. Thị trường chứng khoán các nước mới nổi
giảm 54,72%, thị trường các nước phát triển giảm 42,72% Mức sụt giảm cao nhất rơi vào các
nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc khoảng hơn 70%. Ma rốc và Israel là những thị
trường có diễn biến tốt nhất. Tại 1 số thị trường lớn kể từ khi bắt đầu khủng hoảng (12/09/08)
đến 12/01/09 thì hầu hết chứng khoán của các quốc gia đều giảm như Mỹ: chỉ số Dow Jones
giảm 25,81%, chỉ số Nasdas giảm 32.03%, chỉ số S&P 500 giảm 30,47%, chỉ số FTSE 100
của Anh giảm 18,29%, chỉ số Nikkey 225 của Nhật giảm 31.12%.
 Tăng trưởng
Theo IMF, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2009 chỉ đạt 2,2% ( năm 2008: 3,7%) trong
đó hầu hết các nước phát triển đều tăng trưởng âm tính chung tăng trưởng kinh tế ở các nước
này sẽ giảm từ 1,4% năm 2008 xuống -0,3% năm 2009 (trong đó, Mỹ: -0,7%; khu vực đồng
EUR: -0,5%; Nhật Bản: -0,2%; Anh: -1,3%), các nước đang phát triển mặc dù tăng trưởng vẫn
dương nhưng mức tăng trưởng sẽ sụt giảm mạnh do xuất khẩu và đầu tư suy giảm (Trung
Quốc: 8,5%; Ấn Độ:6,3%; ASEAN5: 4,2%; Nga: 3,5%; các nước Trung-Đông Âu: 2,5%). Hệ
thống tài chính thế giới trong tình trạng rủi ro cao, giá hàng hóa thế giới nhiều khả năng suy
giảm mạnh và đồng USD sẽ biến động phức tạp

2.2. Kinh nghiệm điều hành CSTT của 1 số nước trên thế giới trước khủng hoảng
kinh tế
2.2.1. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)
Đứng trước nguy cơ sụt giảm kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tín
dụng, ngay từ đầu năm 2008, hạ viện Mỹ đã thông qua gói kích cầu trị giá 146 tỷ USD do

Bush đề xuất mà mục tiêu chính là giảm thuế tiêu dùng. Tiếp đó là gói giải cứu 700 tỷ USD
vào T10/2008 nhằm khuyến khích các ngân hàng cho vay, kích thích nền kinh tế. Tới
17/02/09, gói kích cầu khổng lồ đầy tham vọng trị giá 787 tỷ USD của tân tổng thống Mỹ
Obama chính thức được k kết thơng qua một dự luật về kế hoạch phục hồi kinh tế.
Không chỉ Chính phủ, Quốc hội mà cả Cục dự trữ liên bang Mỹ cũng có vai trị rất lớn
trong cơng cuộc giải cứu nền kinh tế. Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed
bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành
khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục
tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể
là lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2%
chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/07-30/4/08). Lãi suất này sau đó cịn tiếp tục giảm và
đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy.

13


Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà
các tổ chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết khấu. Giữa tháng 12 năm 2008, Fed
tuyên bố có kế hoạch thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng.
Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ trì chương trình
Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày theo lãi
suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu giá. Tính đến tháng 11 năm 2008, đã có 300
tỷ dollar được FED đem cho vay theo chương trình này. FED còn tiến hành cho vay thế chấp
đối với các tổ chức tài chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ tính đến tháng 11 năm
2008.
2.2.2. Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ)
Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới cũng không tránh khỏi những tác động tiêu
cực của cuộc khủng hoảng. Theo nhiều chuyên gia, có một số yếu tố đặc biệt giúp Nhật Bản
giảm thiểu khó khăn đối với mình. Thứ nhất là lãi suất vẫn ở mức thấp, nên chi phí nợ thấp
hơn nhiều so với các chính phủ khác. Điều này có được một phần là do chính sách tiền tệ của

Nhật Bản. Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đã hạ lãi suất qua đêm liên ngân hàng
(OCR) xuống mức 0,1% từ cuối năm 2008 để đối phó với cuộc khủng hoảng. Thậm chí cả
trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính tồn cầu diễn ra, để kích thích nhu cầu, BOJ
cũng đã giữ OCR ở mức bằng không hoặc gần bằng không trong nhiều năm. Trong một thập
kỷ qua, OCR của Nhật Bản chưa bao giờ vượt quá mức 0,5%, một mức rất thấp so với hầu hết
các nước.
Yếu tố thứ hai giúp Nhật Bản tránh được áp lực từ nhà đầu tư là vấn đề thị trường của trái
phiếu chính phủ Nhật Bản. Theo số liệu cuối năm 2008, có đến 93% trái phiếu chính phủ Nhật
Bản được các nhà đầu tư nội địa nắm giữ. Điều này có nghĩa là chính phủ Nhật Bản cũng như
thị trường trái phiếu không chịu nhiều tác động của các nhà đầu tư nước ngồi. Bên cạnh đó,
do đa số các ngân hàng Nhật Bản tập trung vào đầu tư nội địa và các cơ hội đầu tư nội địa
khác cũng tương đối hạn chế do hoạt động của nền kinh tế yếu, nên nhu cầu đối với trái phiếu
chính phủ tương đối ổn định.
Yếu tố thứ ba đó là các vấn đề tài chính của Nhật Bản là vấn đề mãn tính, chứ khơng phải
cấp tính nhất thời có thể khiến các nhà đầu tư bất ngờ. Nợ công của Nhật Bản bao gồm cả các
khoản nợ lẫn nhau của các cơ quan nhà nước, do vậy nợ thực tế có thể thấp hơn nhiều. Bên
cạnh đó, Nhật Bản cũng là nước cho các nước khác vay nhiều. Theo số liệu cuối năm 2008 của
IMF, tổng tài sản ở nước ngoài của Nhật Bản trị giá khoảng 5.700 tỷ USD, cao hơn nhiều so
với mức nợ nước ngoài là 3.200 tỷ USD. Vị thế là nước cho vay của Nhật Bản đã giúp lòng tin
của nhà đầu tư tăng và giảm các nguy cơ về tiền tệ. Nếu Nhật Bản khó khăn trong việc huy
động tài chính trong nước thì nước này có thể sử dụng tài sản ở nước ngồi làm nguồn tài
chính bổ sung. Thực tế thì Nhật Bản cũng thặng dư tài khoản vãng lai trong nhiều năm qua,
qua đó giúp dự trữ ngoại tệ tăng lên
2.2.3. Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBOC)
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tuyên bố, nước này sẽ tiếp tục thắt chặt chính sách tiền
tệ và điều chỉnh chính sách một cách linh hoạt cho phù hợp với kinh tế trong nước cũng như
thế giới.

14



Theo đó, ngân hàng Trung ương Trung Quốc sẽ tiếp tục cải thiện chế độ tỉ giá theo cách
“tích cực, có thể kiểm sốt và dần dần’’, trong khi cho phép thị trường đóng vai trị lớn hơn
với khả năng xác định tỉ giá.
PBOC cũng sẽ áp dụng trao đổi tỉ giá nhân dân tệ một cách linh hoạt hơn và giữ mức ổn
định cũng như cân bằng hợp lý. Việc cải tổ phương thức quản lý tỉ giá hối đối cũng được thúc
đẩy.
Tuy nhiên Chính phủ Trung Quốc cũng nhận định rằng các ngân hàng Trung Quốc vào
thời điểm hiện tại ít liên quan tới tình trạng cho vay dưới chuẩn như ở Hoa Kỳ nen khu vực
này hầu như không chịu những tác động mạnh như đã từng xảy ra ở các quốc gia châu Á thời
kỳ khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997. Chính điều này đã giúp chính phủ Trung Quốc
đưa ra hướng giải quyết hơi khác biệt so với Mỹ hay Châu Âu khi chưa can thiệp quá sâu vào
hệ thống ngân hàng trong nước.

2.3. Bài học kinh nghiệm về điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Như vậy, thông qua việc nghiên cứu các CSTT mà Chính phủ và NHTW các quốc gia điển
hình trên thế giới trong giai đoạn khủng hoảng chúng ta có thể thấy rõ rằng: Tùy theo diễn
biến quá trình suy giảm kinh tế của từng quốc gia và đặc điểm kinh tế của quốc gia đó mà
Chính phủ và NHTW các nước có thể ban hành các chính sách, giải pháp thích hợp và linh
hoạt. Cụ thể đó là:
Thắt chặt chế độ tiền tệ: Đây là biện pháp được dùng đầu tiên và chính yếu trong tình trạng
nền kinh tế đang phát triển quá nóng, lạm phát gia tăng. Các ngân hàng cho vay quá nhiều dẫn
đến tình trạng thiếu lượng vốn cần thiết để duy trì hoạt động hay nói cách khác là thiếu tính
thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Ngân hàng thể hiện sức khỏe của nền kinh tế, khi nó
ốm yếu có nghĩa là nền kinh tế đang lâm nguy.
Tiết kiệm chi tiêu: Trong lúc khó khăn, tiết tiệm được coi là quốc sách. Tại sao mỗi khi
khó khăn con người mới nghĩ đến tiết kiệm như một giải pháp chứ không phải là một thói
quen? Nếu mọi người đừng tiêu xài hoang phí và sử dụng tiền khơng phải của mình đầu tư
nhằm sinh lời ảo thì có lẽ đã khơng xảy ra khủng hoảng kinh tế. Khi khủng hoảng, con người
mới nhận thấy rõ nhất giá trị thực của nền kinh tế, giá trị thực tài sản của mình và bắt đầu biết

quý trọng, tiết kiệm những đồng tiền mồ hôi nước mắt khi chi tiêu.
Cơ cấu lại danh mục đầu tư: Hơn lúc nào hết, trong thời kỳ khủng hoảng, nền kinh tế suy
thoái, các nhà đầu tư và tổ chức càng cần phải xem xét lại danh mục đầu tư, duy trì những
khoản đầu tư mang lại hiệu quả cao, và cắt giảm một số khoản không cần thiết. Điều quan
trọng là nhà đầu tư cần phải biết đâu là danh mục cần loại bỏ và đâu là danh mục nên giữ lại,
để đầu tư sao cho hiệu quả và hợp lý, tránh ít nhất những thiệt hại có thể xảy ra. Thông
thường, các nhà đầu tư sẽ chuyển đổi từ những danh mục đầu tư đã phát triển nóng như bất
động sản, chứng khốn sang những khoản mục an tồn hơn là vàng, đơla, trái phiếu Chính phủ
và tiết kiệm.
Cơng bố các gói kích thích kinh tế phát triển: Đây là một phương thức không thể thiếu
trong việc chống lại suy thoái kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng. Việc thắt chặt chính sách tiền
tệ và những hệ lụy do khủng hoảng hệ thống tài chính gây ra, đã ảnh hưởng trực tiếp tới mọi
doanh nghiệp, người dân và đặc biệt là những người nghèo. Các phương thức tiếp cận nguồn
vốn để duy trì hoạt động kinh doanh, sinh hoạt thường nhật của người dân với những mặt hàng
thiết yếu ngày càng trở nên khó khăn hơn. Đây là lúc chính phủ cùng quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), ngân hàng thế giới (WB) hỗ trợ cho vay một lượng tiền lớn để phát triển đầu tư công,

15


nâng cao đời sống an sinh xã hội của người dân đặc biệt là những người nghèo hoặc thất
nghiệp, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp trước đây làm ăn hiệu quả, có thang điểm tín
dụng an tồn và những doanh nghiệp có ảnh hướng lớn đến nền kinh tế-xã hội được vay vốn
để vượt qua khó khăn. Điều khác biệt của việc bơm tiền sau khủng hoảng nhằm ngăn chặn đà
suy thối đó là tập trung tiền để kích thích xã hội làm ra của cải thực sự nhằm nâng cao đời
sống vật chất cũng như tinh thần của tồn dân thay vì bơm tiền để đầu cơ vào những giá trị ảo
như đất đai, chứng khoán như trước đây.
Cùng đoàn kết hợp tác chống khủng hoảng kinh tế: Hơn lúc nào hết, các quốc gia và tổ
chức cần phải cùng phải chung tay để vượt qua khủng hoảng và suy thối. Trong thời đại tồn
cầu hóa, hệ thống tài chính, đầu tư, chứng khốn... của các nước liên kết với nhau khá chặt chẽ

và sâu rộng. Một tập đoàn đa quốc gia bị sụp đổ tại một chi nhánh thì lập tức tồn bộ tập đồn
bị ảnh hưởng. Suy thoái kinh tế xảy ra tại một đất nước lớn mạnh như Mỹ khiến cho nhiều
công ty mẹ ở đó bị sụp đổ, các cơng ty con ở những quốc gia khác cũng bị ảnh hưởng nghiệm
trọng do vốn bị rút về nước. Tồn cầu hóa chính là lý do cấp thiết để các quốc gia cùng nhau
hợp tác chống khủng hoảng.

3.GIẢI PHÁP CSTT NHẰM GIÚP NỀN KINH TẾ VIỆT NAM ỨNG PHÓ VỚI
KHỦNG HOẢNG KTTG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG DÀI HẠN
3.1. Thực trạng nền kinh tế việt nam dưới tác động của khủng hoảng kinh tế thế
giới
Cuối năm 2008 đầu năm 2009 cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra trên thế giới
khiến nhiều nền kinh tế lớn như Mỹ, Anh, khối Eurozone, ...lâm vào tình trạng khó khăn. Về
phía Việt Nam, do đã gia nhập WTO nên chúng ta cũng khơng nằm ngồi ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng đó, tuy với mức độ khơng lớn như các nước, khu vực trên nhưng cũng gặp phải
những khó khăn nhất định.
Vậy những ảnh hưởng đó là gì và mức độ ra sao, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu trong
phần này.
Trước tiên cần phải thừa nhận rằng kinh tế Việt Nam tuy đã chính thức hội nhập với thế
giới nhưng vẫn còn ở mức độ chưa sâu. Đây có thể coi là một điều may mắn (dù quả thực đó
cũng là một trong những hạn chế lớn) đối với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta. Do
chưa hội nhập sâu với thế giới nên trước những khó khăn của các TCTD ở phương Tây, các
TCTD của chúng ta dường như chưa bị ảnh hưởng rõ rệt lắm. Có chăng chỉ là với những chi
nhánh của các TCTD nước ngồi tại Việt Nam. Khơng những vậy, với những bất ổn trên thị
trường tài chính thế giới hiện nay thì Việt Nam đang được nhắc tới như là một địa điểm đầu tư
lý tưởng lại an tồn cho giới đầu tư quốc tế. Điều đó được thể hiện qua một lượng lớn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngồi FDI đăng kí vào Việt Nam trong thời gian trước năm 2008 và đang
tăng lên nhanh chóng.Vối những dự án đầu tư bất động sản, khu nghỉ mát cao cấp,... đang cho
chúng ta có thêm nhiều lựa chọn cho phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối
mặt với những khó khăn có nguồn gốc từ những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới hiện
nay.

3.1.1 Về bất động sản đầu tư và thu hút FDI

16


Thị trường BĐS có mối liên hệ mật thiết với thị trường vốn và tài chính. Hoạt động đầu tư
kinh doanh BĐS đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Hiện nay tiềm lực tài chính của hầu hết các
doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam khá hạn hẹp, phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn
bên ngoài mà chủ yếu là vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đây là một khó khăn
của doanh nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng hoảng tài chính hiện nay.
Cuối năm 2007 tình trạng đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao so với giá
trị thực. Thị trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm 2008 và năm 2009 nền
kinh tế Việt Nam vẫn gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, buộc người dân
phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS đóng băng, giá BĐS đã giảm đến 40%, các doanh nghiệp
kinh doanh BĐS rơi vào khó khăn, khơng bán được sản phẩm lại phải chịu lãi suất cao do
chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng cao, nhất là vào cuối năm 2008.
Khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa ốc tuy không làm ảnh
hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở Việt Nam nhưng nó sẽ ảnh hưởng gián tiếp qua các tác
động đến thị trường tài chính tiền tệ, TTCK và các yếu tố tâm lý của người dân.
Đặc biệt việc các TCTD trên thế giới đang gặp khó khăn về tài chính là lý do khiến các chi
nhánh của họ tại nước ngoài rút bớt một phần vốn về nước nhằm cứu giúp công ty mẹ. Đây sẽ
là một mối lo thực sự cho nền kinh tế nước ta nếu chúng ta khơng kiểm sốt được hoạt động
này, vì nó sẽ dẫn tới cạn kiệt quĩ dự trữ ngoại hối. Không những vậy, với một thị trường chứng
khốn cịn yếu ớt như của nước ta, việc rút vốn của các nhà đầu tư ngoại có thể mang lại nhiều
nguy cơ đổ vỡ thị trường. Thái Lan chính là một Ví dụ điển hình để chúng ta xem xét. Việc
các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn khỏi Thái Lan những năm qua đã khiến nước này gặp
rất nhiều khó khăn. Vì vậy chúng ta cần hết sức lưu ý tới vấn đề này.
Một khó khăn khác nữa là về nguồn vốn. Trong bối cảnh khó khăn trên tồn thế giới hiện
nay, các nhà đầu tư sẽ rất thận trọng trong hoạt động đàu tư của mình. Điều này làm giảm
lương FDI vào nước ta. Không những vậy, các nguồn hỗ trợ viện trợ, vốn ODA cũng có thể bị

giảm đi, mà những đối tượng của các nguồn vốn này lại là những người nghèo, đồng bào dân
tộc vùng sâu vùng xa của nước ta, những người rất cần tới những sự hỗ trợ này. Đây sẽ là một
trỏ ngại cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các đồng bào tại đây trong xu thế phát
triển chung của toàn xã hội.
FDI toàn cầu trong năm 2009 đã giảm 70%. Viện tài chính quốc tế cũng đã cho biết nguồn
vốn đầu tư tư nhân vào các nước đang phát triển giảm từ 928 tỷ USD (2007) xuống còn 466 tỷ
(2008) và xuống mức 165 tỷ (2009).
3.1.2 Xuất nhập khẩu
Nền kinh tế Mỹ bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, vì Mỹ
là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam hiện nay. Điều này được thể hiện thông qua hai tác
động sau:
Thứ nhất, nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của Mỹ đối với Việt Nam (Việt Nam là một trong
37 nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường Mỹ, trong đó có một số mặt hàng đứng thứ hạng
cao như: Dệt may, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, đồ gỗ, thuỷ sản...) có xu hướng giảm sút.
Thứ hai, tỷ giá VND/USD bị tác động nhiều và cần được điều chỉnh linh hoạt do đồng
Việt Nam được xác định giá gắn với đồng USD. Khi đồng USD giảm trên thị trường thế giới
thì có thể dẫn tới lạm phát trong nước nếu đồng VND khơng lên giá, và khi đó người tiêu dùng
chịu giá cả tăng do nhập khẩu. Nhưng nếu tỷ giá VND/USD giảm (tức là VND lên giá so với

17


USD) ở mức không phù hợp sẽ làm cho xuất khẩu vào Mỹ của các doanh nghiệp bị lỗ. Trong
khi để cạnh tranh bán hàng vào Mỹ, nhiều nước có mặt hàng tương đồng cũng đã giảm giá.
Nhìn vào thực tế, năm 2008 mức xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng ngoạn mục (do
tăng về số lượng và cả giá cả). Nhưng sáu tháng đầu năm 2009 tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ
đạt 27,6 tỷ USD, kém xa so với mục tiêu đề ra (mục tiêu đặt ra cho cả năm là 64,75 tỷ USD)
giảm tới 10,15% so với cùng kỳ (mục tiêu là tăng 13%).
Hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đều suy giảm: Nếu so cùng kỳ, 6 tháng đầu năm
2009 hàng dệt nay giảm 1,3%; giày dép giảm 8,7%; thuỷ hải sản giảm 10,7%. Nếu năm 2008

giá xuất khẩu rất cao thì năm nay giá các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều giảm
sút nghiêm trọng: giá dầu thô giảm 53%; giá cà phê giảm 28,3% và cịn có xu hướng giảm
tiếp, giá cao su giảm 44%; giá gạo giảm hơn 20% v.v.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, nhu cầu nhập khẩu hàng Việt Nam ở hầu hết
các thị trường chính đều giảm như thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Australia...
Hơn nữa để chống trọi với tình trạng thiếu hụt phương tiện thanh toán và bảo vệ các doanh
nghiệp trong nước, ở hầu hết các thị trường này đều đang gia tăng các biện pháp bảo hộ, từ
chối đơn hàng, tung tin thất thiệt để hạ uy tín của hàng Việt Nam.
3.1.3 Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tình trạng thất nghiệp
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2009 phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng kinh tế thế giới,
đặc biệt là các nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản, các nước EU, do đây là đối tác đầu tư và thương mại
quan trọng của Việt Nam trong thời gian qua. Mức độ suy giảm cũng như triển vọng phục hồi
của các nền kinh tế lớn trên thế giới sẽ là yếu tố quan trọng đến kinh tế Việt
Có hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự suy giảm tốc độ tăng trưởng.
- Thứ nhất, kim ngạch xuất khẩu giảm do giá giảm và nhu cầu tại các thị trường truyền
thống giảm. nhưng nhờ Việt Nam đã đa dạng hoá cao thị trường xuất khẩu và các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực vẫn giữ được năng lực cạnh tranh nên tăng tốc độ xuất khẩu có khả năng đạt
11%.
- Thứ hai, việc thu hút vốn FDI giảm
Trong những năm 1998-1999, khi mà ảnh hưởng xấu của đợt khủng hoảng tài chính châu
Á cịn đang diễn ra, thì kinh tế của Việt Nam cũng phát triển chậm lại, nhưng vẫn giữ được ở
mức 5-6%, để rồi tăng lên mức 7-8% những năm sau đó. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng thế
giới lần này nặng hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, và Việt
Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng mạnh hơn, do đa hội nhập sâu hơn vào nên kinh tế thế giới.
Vào thời điểm cuối năm 2008, Chính Phủ Việt Nam vẫn đặt mục tiêu tăng trưởng 6-7%
cho năm 2009, World Bank và IMF thì dự báo mức độ tăng trưởng của Việt Nam sẽ là 5%,
còn Deutsch Bank đánh giá là Việt Nam sẽ tăng trưởng quãng 4%. Hầu hết các nước khác
cũng được dự báo là mức tăng trưởng trong năm 2009 sẽ giảm đi, và các nước tiên tiến sẽ suy
thoái. Ví dụ nước Đức (nước có nền kinh tế mạnh nhất châu Âu) được dự báo suy thoái với
GDP tăng trưởng âm 2.2% trong năm 2009. Tăng trưởng của Trung Quốc cũng được dự báo

sẽ giảm từ 9% còn 6%. Và vì "khi Trung Quốc hắt hơi thì Việt Nam cảm cúm", nên độ tăng
trưởng của Việt Nam cũng có nguy cơ giảm trên 3%, và như vậy dự báo của DB có vẻ hợp lý
hơn dự báo của WB hay mục tiêu của chính phủ Việt Nam đề ra. Tuy nhiên thậm chí con số
tăng trưởng 4% mà DB đưa ra có thể vẫn cịn q lạc quan, và từ khi DB đưa ra con số đó,
tình hình thế giới đa diến biến theo chiều hướng xấu đi thêm.

18


Khủng hoảng kinh tế toàn cầu gắn liền với gia tăng nạn thất nghiệp, dự tính Trung Quốc
có tới 20 triệu người thất nghiệp (chiếm 8%), Mỹ trên 8% với trên 600000 người/tháng và lên
đến 4,4 triệu kể từ cuối năm 2007, tỷ lệ thất nghiệp của EU khoảng 7,6% và tỷ lệ thất nghiệp
của Việt Nam tăng từ 4.65% năm 2008 lên 8% năm 2009. Nếu các gói kích cầu khơng tác
động tích cực tới việc làm và thu nhập thì tỷ lệ thất nghiệp tham chí cịn lên tới 2 con số.
3.1.4 Lạm phát
Thập kỷ 80 của thế kỷ trước là thập kỷ siêu lạm phát của Việt Nam, với mức lạm phát
trung bình đến 100%/năm, và đặc biệt là năm 1986 lạm phát lên đến gần 800%/năm. Nguyên
nhân chính là do nền kinh tế bao cấp thời đó bị khủng hoảng thiếu kinh niên, quản lý tập trung
quá yếu kém, và không thu hút được vốn đầu tư nước ngoài (nguồn đầu tư chủ yếu từ nước
ngoài là Liên Xơ, nhưng bản thân lúc đó Liên Xơ đang xuống dốc và sắp tan vỡ). Từ những
năm 1990, cùng với việc mở cửa và phát triển kinh tế theo định hướng thị trường, đồng tiền
Việt Nam đa trở nên ổn định hơn (tỷ giá USD/VND là 11000 vào năm 1992, sau 16 năm mới
tăng lên tổng cộng hơn 40% thành 16-17000 vào năm 2008). Vấn đề chống làm phát trở thành
một trong những vấn đề được chính phủ ưu tiên hàng đầu, và lạm phát thường giữ được ở mức
dưới 10%. Tuy nhiên lạm phát của năm 2008 đa lên đến hơn 22%
3.1.5 Chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi phản ánh rõ nhất nhứng biến động của tình hình chính trị,
kinh tế đất nước.
Sự vận động lên xuống của các chỉ số chứng khoán cũng như giá các loại cổ phiếu có tác
động ngày càng lớn hơn tới đời sống xã hội. Đến cuối năm 2008, giá trị các chỉ số chứng

khoán giảm tới 70% so với đầu năm. Ngay một số cổ phiếu thuộc nhóm “blue-chip” cịn có
mức sụt giảm lớn hơn nhiều, như SSI (- 84%) và FPT (- 78%).
Nửa đầu năm 2008, chỉ số chứng khốn tụt dốc nhanh chóng. Đầu tháng 1-2008, Vn-Index
cịn trên 900 điểm, tới đầu tháng 6-2008, hàn thử biểu kinh tế lần đầu rơi xuống dưới ngưỡng
400 điểm. Thị trường tiếp tục giằng co trong quý
III-2008. Từ sau tháng 10-2008, thị trường chứng khoán liên tục giảm điểm. Tới ngày 1112-2008, Vn-Index chỉ còn 288 điểm. Tại Hà Nội, HaSTC-Index cịn 101 điểm. Trước đó, thị
trường Hà Nội thậm chí cịn lùi về sau vạch xuất phát, tụt xuống 97,61 điểm khi kết thúc phiên
giao dịch ngày 27-11-2008.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thị trường bán lẻ trong nước có nhiều lo ngại trước nguy
cơ thâm nhập của những “cá mập” quốc tế. Không chỉ giới kinh doanh, mà các nhà nghiên cứu
và quản lý chính sách đều rất băn khoăn cho sự tồn tại của hệ thống bán lẻ trong nước trước
khơng khí khẩn trương chiếm lĩnh thị trường của các trung tâm lớn như Big C, Metro hay
Parkson và đang “lăm le” là những người khổng lồ như Carrefour và Walmart. Thế nhưng,
cơn sóng lớn đầu tiên lại ập xuống các thị trường tín dụng, tiền tệ và chứng khoán.
Như chúng ta đã biết, từ cuối năm 2007, hệ thống tài chính thế giới sa vào khủng hoảng
nghiêm trọng. Đây cũng là điểm bắt đầu của q trình sụt giảm trên thị trường chứng khốn
Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế trong nước cũng gặp nhiều khó khăn với giá cả tăng cao, tín
dụng khan hiếm ở mức lãi suất cao, thanh khoản giảm trên nhiều thị trường, các nhà đầu tư
Việt Nam bắt đầu ngắm chỉ số DJIA và Nikkei để đặt giá cho phiên giao dịch tiếp theo.

3.2. Thực trạng giải pháp của Chính phủ, Nhà nước Việt Nam nhằm ứng phó với
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

19


3.2.1. Giải pháp của Chính phủ
Quý I/2008, trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, giá cả tăng cao, ngày 25/3/2008,
trong Phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 3/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn
mạnh: “Chính phủ tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mơ, duy trì khả năng

tăng trưởng của nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội” với nhóm 8 giải pháp kiềm chế làm
phát chủ yếu sau: Một là,chính sách tiền tệ chặt chẽ. Hai là, chính sách tài khóa theo hướng
kiểm sốt chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công. Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa. Bốn là, đẩy
mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu. Năm là, kêu gọi mọi người,
mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu và năng lượng. Sáu là, tăng cường công
tác quản lý thị trường. Bảy là, tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất
của nhân dân. Tám là, tích cực triển khai thực hiện tốt các chính sách và giải pháp chống lạm
phát, các phương tiện thông tin đại chúng phải đưa thơng tin chính xác, tạo niềm tin, khí thế
trong nhân.
Ngày 27/11/2008, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Thường trực Chính
phủ đã họp bàn các giải pháp khắc phục suy giảm, phục hồi đà tăng trưởng kinh tế của đất
nước và đưa ra nhóm 5 giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế trong thời gian cuối năm
2008 và năm 2009 là: Thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu (vốn, thị trường, tỷ giá, thuế, cơ cấu…),
kích cầu đầu tư và tiêu dùng (đầu tư nhà nước và doanh nghiệp), thực hiện các chính sách tài
chính và tiền tệ (tỷ suất, lãi, cơ cấu lại nợ, các chính sách thuế), các chính sách an sinh xã hội
(bảo hiểm thất nghiệp, triển khai hỗ trợ 61 huyện nghèo và các vùng bị thiên tai…), tổ chức
điều hành và can thiêp của nhà nước (dự báo nắm chắc tình hình, các thủ tục (đầu tư XDCB,
nhất là đất đai, hoàn thuế).
3.2.2. Thực trạng CSTT Việt Nam đã và đang được triển khai nhằm ứng phó với cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ
Trước bối cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 7 tháng đầu năm 2008,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ và quyết liệt
về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh
tế vĩ mô. Các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thơng
nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu
thị trường. Đến cuối năm 2008, để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, chính sách tiền tệ
thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng.
Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Cơ chế điều

hành tỷ giá ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng,
từ +/-1% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và
cuối tháng 12.
Bảng 1: Điều hành các công cụ CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008
Các công cụ

Lần
1

Lần
2

20

Lần
3

Lần
4

Lần
5

Lần
6

Lần
7

Lần 8



I. Lãi suất điều hành
1. Lãi suất cơ bản
2. Lãi suất tái cấp vốn
3. Lãi suất tái chiết khấu
4. Lãi suất cho vay tối đa
II. Tỷ lệ Dự trữ bắt buộc
1. Không kỳ hạn và dưới 12 tháng
+ VND
+ Ngoại tệ
2. Từ 12 tháng trở đi
+ VND
+ Ngoại tệ
III. Lãi suất cho vay qua đêm
V. Lãi suất tiền gửi DTBB
1. Lãi suất trong DTBB
+ VND
+ Ngoại tệ
2. Lãi suất vượt DTBB
+VND
+Ngoại tệ
VI. Biên độ tỷ giá


8,75
7,5
6
13




12
13
11
18



14
15
13
21



13
14
12
19,5



12
13
11
18




11
12
10
16,5


10
11
9
15


8,5
9,5
7,5
12,75

11
11

10
9

8
9

6
7

5

7

5
7

5
7

5
7

5
5
15

4
3
14

3
3
13

2
3
12

1
3
11


1
3
9,5

1
3
9,5

1
3
9,5


3,6
0


5
0


10
0


9
0



8,5
0

8,5
0

8,5
0

8,5
0

0
1
+/1%

0
1
+/2%

0
1
+/3%

0
0
0
0
0
1

1
1
1
1
+/+/+/+/+/3% 3% 3% 3% 3%
Nguồn: Vụ Chính sách tiền tệ NHNN

Theo chỉ thị của Chính phủ, trong năm 2009 NHNN Việt Nam đã chuyển hướng điều hành
từ ưu tiên kiểm soát lạm phát trong năm 2008 sang chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế trong
6 tháng đầu năm 2009. Từ nửa cuối năm 2009, trước tình hình suy giảm kinh tế đã được ngăn
chặn, giá cả có xu hướng tăng, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá theo hướng nới
lỏng, thận trọng, hỗ trợ thanh khoản tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng
hiệu quả. Các giải pháp điều hành chủ yếu là: Tích cực triển khai các cơ chế hỗ trợ lãi suất
theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của
ngành ngân hàng trong năm 2009; điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ phù hợp với diễn biến
và mục tiêu kinh tế vĩ mô, thực hiện đồng bộ các giải pháp đã đặt ra.
Bảng 2: Điều hành các công cụ CSTT của NHNN Việt Nam
năm 2009 và đầu năm 2010
Các công cụ
I. Lãi suất điều hành
1. Lãi suất cơ bản
2. Lãi suất tái cấp vốn
3. Lãi suất tái chiết khấu
4. Lãi suất cho vay tối đa

2008

8,5
9,5
7,5

12,75

21

Lần 2

7
8
6
10,5

Lần 3

7
7
5
10,5

Lần 4

7
7
5
10,5

Lần 5

8
8
6

10,5


II. Tỷ lệ Dự trữ bắt buộc
1. Không kỳ hạn và dưới 12 tháng
+ VND
+ Ngoại tệ
2. Từ 12 tháng trở đi
+ VND
+ Ngoại tệ
III. Lãi suất cho vay qua đêm
V. Lãi suất tiền gửi DTBB
1. Lãi suất trong DTBB
+ VND
+ Ngoại tệ
2. Lãi suất vượt DTBB
+VND
+Ngoại tệ
VI. Biên độ tỷ giá

5
7

5
7

3
7

3

7

3
4

1
5
9,5

1
3
8

1
3
7

1
3
7

1
2
7

8,5
0

3,6
0


3,6
0

1,2
0

1,2
0

0
1
+/- 3%

0
0
0
0
0,5
0,1
0,1
0,1
+/- 5% +/- 5% +/- 5% +/- 3%
Nguồn: Vụ Chính sách tiền tệ NHNN

Trên cơ sở các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính phủ, các dự báo
đánh giá của NHNN về lạm phát và tình hình kinh tế vĩ mơ năm 2010, NHNN đặt ra yêu cầu
và nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2010 linh hoạt, thận trọng và chặt chẽ để kiểm
soát mức tăng tổng phương tiện thanh tốn và tín dụng đối với nền kinh tế, lãi suất và tỷ giá ở
mức hợp lý, bảo đảm khả năng an tồn thanh tốn của hệ thống ngân hàng, góp phần thực hiện

kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010. Mục tiêu điều hành là kiểm soát tốc độ tăng
tổng phương tiện thanh toán, tín dụng khoảng 25% với các giải pháp chủ yếu như sau: Một là,
điều hành linh hoạt, đồng bộ các cơng cụ chính sách tiền tệ. Hai là, điều hành thị trường ngoại
hối và tỷ giá linh hoạt, bảo đảm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền; tiếp tục hồn thiện khn
khổ pháp lý về quản lý ngoại hối; quản lý kiên quyết, thống nhất, kịp thời và phù hợp nhằm
bảo đảm hoạt động ổn định, lành mạnh của thị trường vàng, thị trường ngoại tệ. Ba là, chỉ đạo
các TCTD cơ cấu lại tài sản và nguồn vốn theo hướng an tồn, bền vững, hỗ trợ tích cực cho
quá trình tái cơ cấu lại nền kinh tế… Bốn là, nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động thanh
tra, giám sát ngân hàng từng TCTD và cả hệ thống. Năm là, theo dõi, giám sát chặt chẽ và dự
báo kịp thời diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính tiền tệ trong nước và quốc tế để có
chính sách, giải pháp thích hợp. Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế và quan hệ đối ngoại. Sáu
là, tăng cường phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong điều hành chính sách tiền tệ, tài
khóa, quản lý ngoại hối và các chính sách vĩ mơ khác.
3.2.3. Hiệu quả
Bảng 4: Diễn biến lạm phát Việt Nam 2008-2009
(% so với cùng kỳ)

22


30
25.2

25

24.22

21.42

22.97


19.39

20
15

28.32 27.9
26.8 27.04
26.72

17.48
15.67
14.11

14.78
11.25
9.23

10

6.58

5

T1
/2
00
T2 8
/2
00

T3 8
/2
00
8
T4
/2
00
T5 8
/2
00
T6 8
/2
00
T7 8
/2
00
8
T8
/2
00
T9 8
/2
0
T1 08
0/
20
08
T1
1/
20

T1 0 8
2/
20
0
T1 8
/2
00
T2 9
/2
00
9
T3
/2
00
T4 9
/2
00
T5 9
/2
00
9

0

Năm 2008 là một năm khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới. Trước những biến động cuộc khủng hoảng này, với nguy cơ nền kinh
tế Việt Nam bị rơi vào tình trạng lạm phát và suy thối thì nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén,
kịp thời, tập trung và quyết liệt của Đảng, Chỉnh phủ, cũng như vai trò điều hành của NHNN
Việt Nam, nền kinh tế nước ta đã không những nhanh chóng thốt khỏi đà suy giảm, mà cịn
càng ngày càng nâng cao được tốc độ tăng trưởng. Năm 2008, lạm phát của Việt Nam là

19,98% - con số cao kỷ lục, tuy nhiên, bằng những nỗ lực đẩy lùi lạm phát, CPI đã bình ổn trở
lại và ở mức dưới 7% trong năm 2009. Đến năm 2010, tình hình kinh tế đã có nhiều dấu hiệu
khả quan và khởi sắc trở lại. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng đầu năm 2010 ước
tính tăng 6,52% so với chín tháng năm 2009, trong đó quý I tăng 5,83%; quý II tăng 6,4% và
quý III tăng 7,16%. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 4,62% của cùng kỳ năm trước.
Các chuyên gia đánh giá về chính sách điều hành kinh tế - xã hội của Việt Nam năm 2008
như sau " Thành công nhất trong các thành công là chính sách tiền tệ. Dưới sự chỉ đạo của
Chính phủ, chính sách tiền tệ thơng qua điều hành lãi suất tiền gửi và lãi suất dự trữ bắt buộc
kịp thời đã giúp ngân hàng vượt qua được thời kỳ sóng gió đó. Đến bây giờ cơ bản các ngân
hàng hoạt động ổn định, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương
mại cổ phần đã dần trở lại gần như cuối năm 2007. Chính sách tất nhiên chưa thể nói là cực
chuẩn nhưng việc điều hành đã đúng quy luật của kinh tế thị trường. Nền tài chính quốc gia
khơng sụp đổ, bảo đảm cho sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội. Đó là mối quan hệ nhân
quả của chính sách tiền tệ đúng".
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của các công cụ của CSTT

23


Trong năm 2010, nhìn chung kinh tế thế giới chưa thực sự thốt khỏi khủng hoảng và cịn
tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta. Vì vậy, Việt Nam khơng thể chủ
quan với những dấu hiệu tích cực vừa qua của nền kinh tế. Từ bài học của các nước trên thế
giới cũng như dự báo tình hình biến động năm 2010, nhóm đưa ra những giải pháp như sau để
nâng cao hơn nữa hiệu quả của CSTT như sau:
3.3.1 Nhóm giải pháp nhằm hồn thiện các cơng cụ của CSTT:
Điều hành chính sách tiền tệ cần sự nhất quán, xuyên suốt, luôn bám sát nhu cầu thị
trường, nhạy cảm với các tín hiệu của thị trường và thực hiện “mệnh lệnh” của thị trường. Nên
hạn chế tối đa việc sử dụng các mệnh lệnh mang tính hành chính của cơ quan quản lý, sử dụng
nhiều hơn những công cụ của CSTT như nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu, tái chiết khấu,
dự trữ bắt buộc… Cụ thể:



Tự do hố cơng cụ lãi suất: Để NHTW thực sự là người cho vay cuối cùng trên thị
trường liên ngân hàng, cần tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng : sử dụng
lãi suất tái chiết khấu như lãi suất sàn; lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tái cấp vốn làm
lãi suất trần trên thị trường liên ngân hàng nhằm tác động đến việc huy động vốn và cho
vay của các ngân hàng thương mại trên thị trường.



Tăng cường hiệu quả của cơ chế truyền tải tiền tệ thông qua: tăng tỷ lệ tiếp cận tín
dụng, nhất thể hóa thị trường lãi suất, tăng cường các biện pháp kết hối ngoại tệ & vàng
nhằm giảm tình trạng đơ la hóa trong nền kinh tế.



Điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường, trong mối
quan hệ phối hợp với lãi suất, có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các cân đối vĩ
mơ : kiểm sốt được lạm phát; kích thích xuất khẩu, kiểm sốt nhập khẩu; khuyến khích
đầu tư nước ngồi vào Việt Nam; khơng ảnh hưởng lớn đến việc doanh nghiệp vay nợ
bằng ngoại tệ; tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng;
nâng cao quỹ trữ ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh
nghiệp áp dụng các cơng cụ phịng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá.



Kiểm sốt chặt chẽ hạn mức tín dụng, tăng cường giám sát chất lượng tài sản cho vay
của các tổ chức tín dụng, để giúp các ngân hàng kịp thời phát hiện rủi ro tín dụng và có
những biện pháp thích hợp để kiểm sốt và hạn chế nợ xấu phát sinh.




Điều hành công cụ dự trữ bắt buộc một cách chủ động và linh hoạt theo diễn biến của
thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ; mặt khác tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sử dụng
vốn khả dụng linh hoạt và hiệu quả.



Phát triển công cụ thị trường mở (OMO) : mở rộng OMO ra toàn hệ thống ngân hàng
một cách phổ biến và rộng rãi, tránh tình trạng OMO chỉ chủ yếu là sân chơi của NHTM
Nhà nước bấy lâu nay. Kết hợp hài hòa OMO và DTBB để kiểm soát lượng tiền cung ứng
và lạm phát.



Hồn thiện cơng cụ “chính sách tái chiết khấu” thông qua hạn mức tái chiết khấu và
điều kiện tái chiết khấu.

3.2 Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện, mơi trường thuận lợi:

24




Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu
tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị; giữa
nhà nước, thị trường và xã hội.




Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHTW: Sự độc lập tương đối của NHTW sẽ
cho phép ngân hàng này chủ động điều tiết thị trường trong từng thời kỳ mà không cần
phải chờ đợi sự cho phép của Chính phủ trong những chính sách của mình; hoặc lựa chọn
mục tiêu của mình nếu họ thấy rằng cần thiết và dẫn dắt thị trường đi theo. Cần sửa đổi, bổ
sung Luật NHNN theo hướng trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho NHNN trong
xây dựng dự án chính sách tiền tệ; chủ động trong việc sắp xếp cơ cấu tổ chức và nhân sự;
tự chủ về tài chính trong bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cho đội
ngũ cán bộ NHNN; có chế độ đãi ngộ hợp lý để khuyến khích thu hút nhân tài; hiện đại
hố cơng nghệ quản lý trong việc tổng hợp, thống kê, phân tích, dự báo ..phục vụ cho việc
điều hành chính sách tiền tệ.



Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ. Tiếp tục tạo hàng hoá và phát triển
nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ; mở rộng thành viên tham gia thị trường; nâng cao vai trò
điều tiết, hướng dẫn của NHNN trên thị trường tiền tệ; hoàn thiện hành lang pháp lý tạo
điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển. Sự phát triển của thị trường tiền tệ sẽ là kênh
dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.



Nâng cao một bước chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo; nhanh nhạy hơn trong
phản ứng và đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, phát hiện vi phạm và triệt để trong xử lý. Đó là
chìa khóa tạo ra niềm tin vào chính sách điều hành của cơ quan quản lý đối với dư luận.



Hồn thiện hệ thống thơng tin thống kê của nghành ngân hàng: nhằm mục đích phục
vụ cho các quyết định chính sách của NHTW kịp thời.




Duy trì tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội: Tăng cường các nguồn vốn đầu
tư cho phát triển sản xuất và xuất khẩu, kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng, các chính sách
tài chính cho phục vụ nơng nghiệp, nơng thơn, vùng sâu vùng xa….tránh tình trạng chênh
lệch quá cao về sự phát triển giữa các vùng miền



Linh hoạt khi kết hợp chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và 1 số chính sách
kinh tế vĩ mơ khác: trong điều kiện dịng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam nhiều
như một số năm trước đây (trong đó có dịng vốn ngắn hạn), nếu khơng kiểm sốt tốt dịng
vốn này, sẽ ảnh hưởng đến việc chống lạm phát. Do đó, cần có sự phối hợp chặt giữa chính
sách tiền tệ với chính sách tài chính và chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài : đánh
thuế hoặc yêu cầu ký quỹ đối với dòng vốn ngắn hạn vào Việt Nam. Hiện nay trong bối
cảnh kinh tế thế giới sụt giảm, thì việc điều hành chính sách tiền tệ trong quan hệ phối hợp
chính sách tài chính nhằm mục tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế
trong nước, nhưng đồng thời kiểm soát được lạm phát.



Hành động của bản thân Chính phủ: giảm bội chi ngân sách, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn
chế nhập siêu qua đó cải thiện cán cân thanh toán, cán cân vãng lai, cán cân thương mại,
giảm lãng phí trong đầu tư nhằm cải thiện hệ số ICOR, đơn giản hóa thủ tục hành chính;
củng cố thị trường nội địa./.
____________HẾT____________

25



×