Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

GHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN CLUSTER (CỤM) NGÀNH DU LỊCH: HUẾ- ĐÀ NẴNG - QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.41 KB, 11 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


176
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN CLUSTER (CỤM) NGÀNH DU LỊCH:
HUẾ - ĐÀ NẴNG - QUẢNG NAM
A STUDY ON THE CLUSTER DEVELOPMENT OF TOURIST INDUSTRY:
HUE - DA NANG - QUANG NAM

Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Văn Long
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT
Tiếp cận phân tích cluster ngành là sự phát triển có tính kế thừa của tiếp cận ngành
truyền thống với những khác biệt trong chính sách phát triển kinh tế khu vực. Trên cơ sở đó,
nghiên cứu này nhằm cung cấp một cơ sở nền tảng để các nhà làm chính sách hiểu được bản
chất và hoạt động của các cluster ngành trong nền kinh tế địa phương cũng như hoạt động kinh
tế trong khu vực, xác đị
nh các mối liên kết vốn có cũng như các chính sách hỗ trợ các cluster
ngành cạnh tranh nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực.
Việc nhận diện chính xác các clusters là rất quan trong trọng việc xây dựng chương
trình phát triển kinh tế bền vững. Kết hợp với các nghiên cứu đặc thù về điều kiện kinh tế-xã hội
của khu vực Miền Trung nhằm nhận diện các cluster cạnh tranh để phát huy năng lực và lợi thế
của khu vực theo hướng xuất khẩu, phát triển du lịch nhằm gia tăng việc làm và giá trị kinh tế,
góp phần thúc đẩy sự hợp tác và liên kết trong việc phát triển kinh tế kinh tế của khu vực duyên
hải Miền Trung.
ABSTRACT
Industrial cluster analysis approaching was a development based on a traditional
industrial approaching for differences in the development policies of a regional economy. In that
case, this study is aimed to provide basic foundations for policy makers to understand the
nature and activities of industrial clusters in developing local and regional economies and to


define the relations in building policies to support the industrial clusters of competitive
advantages in order to promote regional economic developments.
Exact recognition of clustes is important in building sustainable economic programmes.
Furthermore, combined researches on socio-economic conditions in central Vietnam aimed to
recognize the competitive clusters will be to develop the potentials and dominant advantages in
terms of export-oriented tendencies and to promote tourism for increasing jobs and economic
value, making contributions to the cooperation and alliance in developing the economy in
central coastal areas of Vietnam.
1. Mở đầu
Trong các diễn đàn phát triển kinh tế, khái niệm cluster ngành vẫn thường được
đề cập trong chiến lược phát triển kinh tế địa phương, nhưng hiện tại vẫn chưa có một
phương pháp hệ thống để đánh giá hoạt động của cluster ngành trong khu vực. Chính
sách thu hút đầu tư mỗi địa phương hiện nay có thể đem lại lợi ích và nguồn thu trong
ngắn hạn, mà bỏ qua các lợi ích và tổng sản phẩm trong dài hạn do phân tán nguồn lực.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


177
Đặc biệt, sự liên kết và tác động cộng hưởng từ những liên kết này đã bị bỏ qua. Vì vậy,
mỗi khu vực nhận diện cluster ngành và cùng phối hợp để xây dựng chiến lược phát
triển, hình thành cơ chế phối hợp và các liên kết trong mỗi cluster ngành.
Nhiều khái niệm lý thuyết giải thích lý do cho việc tập hợp các ngành giới hạn
trong một phạm vi địa lý cho các hoạt động kinh tế (Bekele và Jackson, 2006). Tiếp cận
phân tích cluster ngành là sự phát triển có tính kế thừa của tiếp cận ngành truyền thống
với những khác biệt trong chính sách phát triển kinh tế khu vực. Việc nhận diện chính
xác các clusters là quan trọng trong việc xây dựng chương trình phát triển kinh tế bền
vững. Các mối liên kết trong khu vực phải có quyền lợi từ sự liên kết này. Bất kỳ chính
sách phát triển nào chỉ tập trung vào ngành hoặc doanh nghiệp riêng lẽ có thể dẫn đến
phá vỡ mối liên kết vốn có, và nền kinh tế sẽ suy giảm cho dù với liều tiêm vốn đầu tư
nước ngoài vào nền kinh tế địa phương. Tiếp cận phân tích kinh tế dựa trên cluster cho

phát triển kinh tế khu vực dựa trên các nghiên cứu thực tiễn vận dụng phân tích cluster
và chiến lược phát triển kinh tế khu vực trên thế giới, kết hợp với các nghiên cứu đặc
thù về điều kiện kinh tế-xã hội của khu vực Miền Trung nhằm nhận diện các cluster
ngành du lịch góp phần thúc đẩy sự hợp tác và liên kết trong việc phát triển kinh tế của
khu vực duyên hải miền Trung.
2. Lý thuyết liên quan đến cụm (cluster) ngành
Một cluster ngành là một nhóm các doanh nghiệp dựa trên quan hệ tương tác lẫn
nhau và với khách hàng và nhà cung cấp. Các hoạt động cluster ngành sẽ thúc đẩy phát
triển đổi mới, hoàn thiện sản phẩm và quá trình để định vị sự khác biệt và tăng cường
năng lực cạnh tranh trên thị trường. Thuật ngữ “cluster ngành” được sử dụng cụ thể
bằng cách tập trung các hoạt động trong ngành và trong khu vực địa lý cụ thể, thường là
đô thị hoặc khu vực để tập trung các nguồn lực và giành lợi thế cạnh tranh cho các
doanh nghiệp.
Các chương trình phát triển dựa trên cluster ngành phải nhận thức rằng sự phát
triển của cluster sẽ đem lại lợi ích lớn hơn cho phát triển kinh tế địa phương (Barkley
and Henry, 1997). Bốn ưu điểm nổi bật cho sự hình thành của các cluster:
• Các cluster ngành góp phần tiết kiệm chi phí sản xuất và marketing đối với các
doanh nghiệp thành viên.
• Các cluster ngành cũng cung cấp khả năng tập trung cao hơn vào các hoạt động
cốt lõi để phát triển công nghệ và các mô hình kinh doanh mới (NGA, 2002).
• Các cluster ngành thúc đẩy phát triển các liên kết, hợp tác và phối hợp giữa các
doanh nghiệp.
• Lợi ích của phát triển cluster ngành đã khuyến khích nhiều địa phương và quốc
gia trên thế giới đưa ra các chương trình phát triển kinh tế dựa trên cluster ngành.
Tuy nhiên, chiến lược này cũng có những khiếm khuyết như sau.
• Việc nhận diện cluster ngành phù hợp nhất cho nền kinh tế khu vực là rất khó
khăn.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010



178
• Nhiều khu vực không có các cluster cạnh tranh hoặc có những ngành đang suy
giảm.
• Phát triển dựa trên cluster ngành có thể dẫn đến sự mất cân bằng trong phát triển
kinh tế giữa các khu vực và các phân đoạn ngành.
Các chương trình phát triển dựa trên cluster được tổ chức tốt có thể tăng cường
sự phát triển cluster ngành, và giúp cho cộng đồng nhận diện (1) các cluster ngành hiện
tại và tiềm năng; (2) các ngành liên kết trong cluster thông qua chuỗi giá trị, nguồn nhân
lực và công nghệ; (3) chương trình tăng cường đổi mới và hoạt động doanh nghiệp
trong cluster.
Nghiên cứu thực chứng về cluster ngành
Porter (1990) cho rằng lý thuyết phát triển kinh tế được thừa nhận trước đây xem
xét chiến lược phát triển nền kinh tế dựa trên “yếu tố”. Theo như Hình 1 thì chiến lược
phát triển nền kinh tế dựa trên đổi mới như là mục tiêu phát triển kinh tế cuối cùng.
Hình 1. Các giai đoạn phát triển cạnh tranh của nền kinh tế




Source: Porter (1990)
Các giả thuyết trọng tâm trong lý thuyết Porter đó là cạnh tranh khu vực bắt
nguồn từ sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, và ngược lại sự cạnh tranh của các doanh
nghiệp yêu cầu một môi trường đổi mới để phát triển.
Phát triển kinh tế dựa trên cluster so với chính sách ngành truyền thống được
tóm tắt trong Hình 2. Các nhà hoạch định chính sách tin rằng cách tiếp cận Porter cũng
hướng đến các ngành trọng
điểm và sau đó xây dựng cluster. Tuy nhiên, Porter cho thấy
các điểm khác biệt giữa chính sách cluster và chính sách ngành truyền thống. Các điểm
sau cho thấy các điểm khác biệt của chính sách Porter:
• Hỗ trợ phát triển đối với tất cả các cluster, chứ không lựa chọn trong số chúng.;

• Tăng cường cluster hiện hành và tiềm năng hơn là cố gắng tạo ra những cái
mới;
• Năng lực cluster được phát huy từ khu v
ực tư nhân, không phải từ các chiến
lược từ trên xuống của chính phủ, và chính phủ đóng vai trò tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển cluster.
Chiến lược phát triển
dựa trên yếu tố
Chiến lược phát triển
dựa trên đầu tư
Chiến lược phát triển
dựa trên đổi mới
Hiệu quả chi phí Hiệu quả đầu tư
Hiệu quả giá trị
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


179
Hình 2. Quan điểm của Porter về chính sách cluster và chính sách ngành
Vấn đề đặt ra là các nhà phân tích chính sách muốn biết cluster nào là quan
trọng, và hầu hết các nhà hoạch định chính sách đều tin rằng phân tích cluster được thiết
kế để nhận diện những cluster cho phát triển kinh tế khu vực.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển cluster ngành
- Môi trường kinh doanh
- Các ngành phụ trợ
- Dịch vụ phát triển kinh doanh (BDS)
- Định hướng chung trong phát triển quần thể ngành ngành
3. Xác định cụm ngành du lịch Huế - Đà Nẵng – Qu
ảng Nam
3.1 Du lịch Huế - Đà Nẵng – Quảng Nam

Khu vực Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam là khu vực có vị trí địa lý nằm trên tuyến
du lịch miền Trung – Tây Nguyên, nơi tập trung 6 di tích được thế giới công nhận. Để
khai thác tiềm năng du lịch, nơi hội tụ các di sản văn hóa và thắng cảnh thiên nhiên
thuận lợi cho sự phát triển du lịch văn hóa di sản và du lịch sinh thái, chính quyền địa
phương và các doanh nghiệp nhậ
n thức lợi ích và nhu cầu liên kết để cung cấp sản phẩm
du lịch đa dạng, hoàn chỉnh nhằm gia tăng giá trị cho khách hàng, lợi nhuận cho doanh
nghiệp, và nguồn thu ngân sách cho khu vực.
Du lịch Thừa Thiên Huế
Du lịch văn hoá được coi là thế mạnh lâu dài của ngành du lịch, Quần thể di tích
Cố đô Huế đặc biệt các công trình trong Hoàng Thành, các lăng tẩm đã được chú trọng
trùng tu, tôn tạo và khai thác có hiệu quả phục vụ
du khách trong và ngoài nước. Nhã
Chính sách
ngành truyền thống
Chính sách
cluster ngành
• Nhắm đến các ngành và lĩnh vực
mong đợi
• Tập trung vào các công ty nội địa
• Can thiệp vào cạnh tranh thị
trường (bảo hộ, khuyến khích
ngành, trợ cấp)
• Tập trung hóa các quyết định ở
cấp quốc gia
• Tất cả cluster đều góp phần phát
triển chung
• Tăng cường năng lực các công ty
nội địa và nước ngoài
• Ít gặp trở ngại hay ràng buộc về

năng lực
• Nhấn mạnh vào các liên kết chéo
giữa các ngành/bổ sung.
• Khuyến khích năng lực ở cấp địa
phương hay khu vực
Hạn chế cạnh tranh
Thúc đẩy cạnh tranh
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


180
nhạc cung đình đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại.
Với 02 di sản được UNESCO công nhận là tiền đề để thu hút du khách trong và ngoài
nước.
Về du lịch sinh thái: việc khai thác các tài nguyên du lịch tự nhiên, du lịch sinh
thái cũng bắt đầu được chú trọng. Các bãi biển Thuận An, Lăng Cô, Vườn Quốc Gia
Bạch Mã, nước khoáng nóng Thanh Tân, Mỹ An, các điểm du lịch sinh thái ở các huyện
cũng được đầu tư và đưa vào khai thác, thu hút được ngày càng đông khách đến nghỉ
vào các ngày cuối tuần, góp phần mở rộng dần các tuyến điểm du lịch ra ngoại vi thành
phố Huế, giảm sức ép về mật độ khách du lịch ở khu vực trung tâm.
Du lịch Đà Nẵng
Đà Nẵng là thành phố lớn của khu vực miền Trung, có lợi thế về vị trí địa lý,
giao thông liên lạc, đặc biệt là cảng biển và sân bay quốc tế; với nguồn tài nguyên du
lịch biển và là trung tâm của con đường di sản văn hóa thế giới.
Biển Đà Nẵng, ở miền Trung Việt Nam, được tạp chí Forbes bình chọn là một
trong những bãi biển đẹp nhất trên thế giới (World’s Most Luxurious Beaches). Biển Đà
Nẵng cũng được hưởng lợi do nằm ở trung tâm của bốn địa danh di sản thế giới: Cố đô
Huế, Nhã nhạc cung đình, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, và Vườn quốc gia Phong
Nha-Kẻ Bàng. Các điểm thu hút này hình thành và phát triển thành “Con đường di sản
thế giới” (“The World Heritage Road”).

Hiện tại Đà Nẵng có 10 khu, điểm du lịch đón tiếp và phục vụ khách du lịch
như: Khu danh thắng Ngũ Hành Sơn, Bà Nà-Suối Mơ, Sơn Trà, Suối Lương, Suối Hoa,
Bãi Biển Đà Nẵng, Cổ viện Chàm, Đèo Hải Vân, Bảo tàng Đà Nẵng, Bảo tàng Hồ Chí
Minh.
Du lịch Quảng Nam
Quảng Nam là một vùng đất được thiên nhiên ưu ái và ban tặng cho rất nhiều
tài nguyên du lịch tự nhiên độc đáo và hấp dẫn, bên cạnh đó tài nguyên du lịch nhân
văn ở Quảng Nam cũng rất nhiều và hai trong số đó đã được UNESCO công nhận là
di sản văn hóa thế giới.
− Phố cổ Hội An được UNESCO đưa vào danh sách di sản văn văn hóa thế giới
vào năm 1999. Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng 30 km. Kiến trúc
cổ Hội An là sự kết hợp phong cách truyền thống của Việt Nam, Nhật và Trung
Hoa.
− Thánh đại Mỹ Sơn là quần thể tháp Champa của Việt Nam, cách Đà Nẵng 70
km. Các đền tháp được vua Champa xây dựng từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13.
Thánh địa Mỹ Sơn là một trường hợp của sự kết hợp văn hóa kiến trúc Hindu
của Ấn Độ với văn hóa Đông Nam Á.

Du lịch sinh thái ở Quảng Nam rất đa dạng bao gồm du lịch biển, và du lịch
sinh thái. Các điểm du lịch đặc trưng như:
Bãi biển Cửa Đại nằm cách đô thị cổ
Hội An 5 km về phía đông. Cù Lao Chàm là quần đảo nằm ngoài khơi đô thị cổ

×