Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận: Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.97 KB, 15 trang )


Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn
đề nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế Việt Nam Hội nhập kinh tế quốc tế và
vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam ".
MỤC LỤC
• LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành
môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế
giới. Tuy thế, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự
khác biệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước toàn cầu hóa.
Những nước và các nhóm xã hội yếu thế thường bị thua thiệt do tác động từ những
mặt trái của toàn cầu hóa và luôn phản đối nó hoặc trong tâm thế thích ứng bị
động. Trong khi đó, những nước và những người có sức mạnh chi phối toàn cầu
hóa lại coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận dụng những mặt
tích cực của nó. Cho dù vậy, toàn cầu hóa vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới hình
thức này hay khác, với các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế và
xã hội của hầu hết các nước, nếu nhìn về dài hạn.
Hơn lúc nào hết quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế không
chỉ là sự quan tâm của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân
chúng ta. Chúng ta đã trải qua 17 năm thực hiện đường lối mở cửa, đổi mới và
hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với phương châm "đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt
Nam đã thiết lập các quan hệ thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật
với tất cả các nước, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới
và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta
hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng.
Có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành
trong nước và ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Đây là vấn đề rộng lớn và
phức tạp, có cả những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập


nhau.
Thông qua những tài liệu tham khảo cùng với những kiến thức đã được
lĩnh hội trong nhà trường, trong khuôn khổ báo cáo của mình, em xin phép được
trình bày tóm tắt về đề tài: " Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam ".
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ TOÀN CẦU HOÁ, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ
I. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế .
1) Toàn cầu hoá.
Ngày nay toàn cầu hoá mà trước hết và về thực chất là toàn cầu hoá kinh
tế đang trở thành một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện nay tuy
có rất nhiều những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá kinh tế nhưng
có thể thấy nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động
kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước, mang tính toàn cầu. Có
thể hiểu toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế
giới vượt qua khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực
lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật mạnh mẽ và sự phân công hợp
tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng
tăng.
2) Hội nhập quốc tế.
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là
mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế,
mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội
tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước.
- Các nước đều không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là
phải đề ra được những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức
thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong
thị trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả phải ra sức tăng cường nội lực, cải

cách và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh
tế trong nước để phù hợp với "luật chơi chung" của quốc tế.
Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến lược phát triển của
đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của
quá trình hội nhập. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập,
đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế .
- Hội nhập không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt mà
nhằm mở rộng các cơ hội kinh doanh , thâm nhập thị trường, có môi trường
pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội
nhập, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý
do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Các nước có thể sử
dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội
nhập để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
- Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh nhận
thức sâu sắc và ủng hộ hội nhập, chuẩn bị tốt mọi mặt để chủ động hội nhập
từng bước, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nước để cạnh tranh chiếm
lĩnh thị trường.
Nhận thức đúng về hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế đối với các nước có
ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và
giải pháp để chủ động hội nhập và tham gia giải quyết các vấn đề mang tính
toàn cầu nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.
II. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, thời cơ và thách thức.
1) Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những lợi ích.
Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn
sản xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển
thành một thị trường thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài
tiến trình này mà có thể tồn tại và phát triển được.
Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất mạnh, nhanh sự phát triển và xã hội
hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hoá kinh

tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ
trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu kinh tế
thế giới.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự hình thành và
gia tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố
sản xuất, được thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế
quốc tế và khu vực.
Toàn cầu hoá làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các
nền kinh tế các nước. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho kinh tế ở mỗi nước có thể
trở thành bộ phận của các tổng thể, hình thành cục diện kinh tế thế giới mới.
Toàn cầu hoá kinh tế cũng làm giảm thiểu các chướng ngại trong việc lưu
chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực… giữa các nền kinh tế các
nước, làm tăng vai trò kinh tế đối ngoại, mậu dịch và đầu tư nước ngoài đối với
sự phát triển kinh tế mỗi nước.
Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô càng lớn những
thành quả mới về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất
kinh doanh … dọn đường cho công nghệ hoá, hiện đại hoá.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và
cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên
kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá, vừa giúp các nước trong từng
khu vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng
làm cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt chưa từng có.
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế
thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy
việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc
phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế để từ đó phát huy cao độ
nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.
- Tự do luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc giảm hoặc xoá bỏ
hàng rào thuế quan, đơn giản hoá thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ

góp phần giảm chi phí sản xuất, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho
người tiêu dùng.
- Tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều
kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu tư, nâng cao hiệu quả, hạn chế rủi ro
đầu tư.
- Thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng
quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước, đồng thời giúp các nước
tiếp nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển.
2) Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những thách thức.
- Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Nguồn tài chính được
phân bố không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các
nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới . Quá trình hội nhập và toàn cầu
hoá càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn và tất yếu rủi ro sẽ lớn hơn.
- Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nước nhất là các nước
đang phát triển phải giảm dần thuế quan và bỏ hàng rào phi thuế quan, nghĩa là
bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hoá dịch vụ nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào, bóp
chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển đã làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của
các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá
trình này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu
trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu… Các nước càng yếu
kém, các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với
các định chế quốc tế, hệ thống ngân hàng - tài chính càng lạc hậu… thì càng
chịu tác động nặng nề hơn.
- Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Trong quá trình hội nhập một số
quốc gia tranh thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài
chính quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng mở
rộng thương mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển thì một số
nước khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương mại,
thu hút vốn đầu tư tất yếu sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau.

- Mối đe doạ của quá trình toàn cầu hoá là xu hướng hình thành thế độc
quyền, tập trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển không chỉ có các lực lượng kinh tế
tiến bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, các tổ
chức khủng bố… Chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoạt
động phá hoại. Nhưng không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế sự
hội nhập của đất nước vào quá trình toàn cầu hoá.
Ngoài ra còn có những mặt tiêu cực khác nữa như sự chênh lệch về trình
độ giữa nước giàu và nước nghèo có thể tăng lên, sự xung đột giữa các nền văn
học…
nghiêm Quá trình toàn cầuhoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cho các nước
những cơ hội thuận lợi lớn đồng thời cũng đứng trước những khó khăn thách
thức trọng. Song những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ đến đâu
điều đó lại tuỳ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc gia. Một
chính sách hội nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp thì tác động của quá trình
này sẽ bị hạn chế và ngược lại.
CHƯƠNG II
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM:
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
I. TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM.
1. Yêu cầu hội nhập quốc tế.
Việt Nam chúng ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
trùng với thời điểm trên thế giới đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị
và kinh tế. Hoà bình, hợp tác, phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc
của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước đều ưu tiên phát triển kinh
tế, cần có môi trường hoà bình, ổn định và thực hiện chính sách mở cửa.
Không một quốc gia nào có thể phát triển trong một thế giới ngày càng
được toàn cầu hoá mà không lỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh
chính sách, giảm dần hàng rào thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, làm

cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật
trên phạm vi thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Việt Nam cũng không phải
là ngoại lệ. Vấn đề là phải hội nhập như thế nào và tiến trình hội nhập ra sao
cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện phát triển của mình. Ngay từ đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi
mới mà quan trọng là mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế. Đại hội VII (1992),
đại hội (1990) tiếp tục đường lối đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ.
Đại hội IX (2000) Đảng và Nhà nước càng nhấn mạnh tinh thần: “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Chủ trương này đã tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của
ta, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực
vào đời sống của cộng đồng quốc tế.
Chúng ta cũng nhận thức rõ hội nhập kinh tế quốc tế là việc một quốc
gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia vào các định chế tài chính, kinh
tế, thương mại quốc tế, mở rộng hợp tác kinh tế với bên ngoài, thực hiện tự do
hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư. Tham gia hội nhập quốc tế thực chất
là tham gia cuộc đấu tranh phưc tạp để góp phần phát triển kinh tế và củng cố
an ninh, chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của mỗi nước thông qua
việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen, nhiều chiều, ở
nhiều tầng nấc với các quốc gia khác.
Chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước, phục
vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
2.Một số vấn đề liên quan đến ViệtNam
Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Chính phủ Việt Nam ngày càng nhận
thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế và cạnh
tranh quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 nêu rõ, phải "Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển Trong quá trình
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng,

hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ".
Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4 (tháng 10-2003) Quốc hội khóa XI, cũng
thẳng thắn thừa nhận: Tăng trưởng kinh tế trong ba năm vừa qua (2001 - 2003) chủ
yếu vẫn theo chiều rộng, tăng về số lượng, nhưng chậm chuyển biến về chất
lượng Nhìn chung, sức cạnh tranh và hiệu quả của doanh nghiệp và nền kinh tế
đều thấp. Từ đó nhấn mạnh một trong các giải pháp lớn là "phải tạo bước phát triển
mới về kinh tế đối ngoại Năm 2004 phải có bước đi mạnh mẽ hơn, với quyết tâm
cao về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đi đôi với việc thực hiện cam kết về lộ
trình tham gia Khu vực Mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA) và phát triển các
quan hệ kinh tế song phương, cần đẩy mạnh đàm phán gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) với phương án thích hợp để sớm trở thành thành viên của tổ
chức này".
Như vậy, quyết tâm về mặt chính trị đối với vấn đề tham gia quá trình toàn cầu
hóa kinh tế của Việt Nam đã rõ. Nhưng phân tích về thực chất cho thấy Việt Nam
vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến việc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa
kinh tế.
Một là, những vướng mắc về nhận thức.
Hiện thời, ngay trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách ở cấp chiến lược,
vẫn còn nhiều bàn cãi về vấn đề nên hội nhập như thế nào. Gắn liền với câu hỏi lớn
này là hàng loạt vấn đề cụ thể vẫn chưa có đáp án mạch lạc: Tốc độ tự do hóa nên
như thế nào? Phải chăng cần trì hoãn quá trình tự do hóa để các doanh nghiệp hiện
tại có thời gian thực hiện cơ cấu lại và chuẩn bị sẵn sàng cho cạnh tranh quốc tế?
Nên hay không nên phân kỳ tự do hóa trên cơ sở căn cứ vào quá trình phát triển
các thể chế cần có cho một nền kinh tế thị trường hiện đại? Phương thức hội nhập
nên như thế nào: thông qua việc tham gia vào các hiệp định đa phương, khu vực và
song phương, thông qua việc đơn phương tự do hóa, hay thông qua việc kết hợp
các yếu tố này? Để bổ trợ cho tự do hóa thương mại và đầu tư nhằm tối đa hóa các
lợi ích và giảm thiểu các rủi ro thì cần có những biện pháp nào?
Hai là, những vướng mắc trên thực tế thể hiện ở một loạt chỉ tiêu so sánh khả
năng cạnh tranh.

Về khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu và du lịch
Về khả năng cạnh tranh đầu tư :tổng đầu tư nội địa của Việt Nam đạt tỷ lệ 25%
GDP, tuy có cao hơn mức trung bình của khu vực ASEAN (23 - 24%), nhưng đầu
tư nước ngoài (FDI) còn thấp hơn rất nhiều so với nhiều nước trong khu vực, như
Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Singapore. Suất đầu tư cho tăng trưởng (hệ số
ICOR) của Việt Nam tăng nhanh và ở mức cao.
Về khu vực tài chính :khu vực tài chính trong nước hiện nay vẫn ở tình trạng
kém phát triển, chưa có khả năng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của
khu vực tư nhân. Tín dụng trong nước được khu vực ngân hàng cung cấp còn ở
mức thấp; mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế xếp ở mức 79/127 nước.
Về môi trường vĩ mô :phần lớn các chỉ số về chính sách vĩ mô của Việt Nam
được đánh giá ở mức trung bình, riêng thuế nhập khẩu vẫn ở mức 26% - mức quá
cao so với yêu cầu của WTO (từ 13 đến 15%).
Về quy chế môi trường kinh doanh .Theo phân loại của Diễn đàn Kinh tế thế
giới, Việt Nam được xếp ở nhóm thấp về thành tích trong quy chế hành chính, bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ, về sự quan liêu hành chính và mức độ mở cửa của nền
kinh tế. Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước (sửa đổi),
nhưng dư luận xã hội cho rằng luật này chưa đáp ứng được các đòi hỏi bức xúc của
thực tiễn hiện nay: chưa tăng quyền tự chủ, tự hạch toán kinh doanh của các doanh
nghiệp nhà nước, chưa xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cơ chế bao cấp, "xin cho" và
các đặc quyền đặc lợi khác (khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lãi suất tiền vay ). Đây
chính là những kẽ hở, là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý phổ biến của các doanh
nghiệp nhà nước là trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, không muốn
vươn lên bằng cạnh tranh lành mạnh.
Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ :Theo đánh giá của Diễn
đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công nghệ. Hoạt
động nghiên cứu khoa học - công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước.
Chưa phân biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được Nhà nước tài trợ với hoạt
động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm nghiên cứu phải trở thành hàng hóa, được
tạo nguồn kinh phí từ người sử dụng các sản phẩm đó. Môi trường kinh doanh và

sự phát triển ít coi trọng chất lượng và còn mang nhiều yếu tố bao cấp nên chưa tạo
được động lực và sức ép buộc mọi doanh nghiệp chăm lo đổi mới công nghệ, tìm
đến các cơ sở khoa học, công nghệ.
Về công nghệ thông tin và truyền thông: Nếu so với trước đây, tốc độ tăng
trưởng công nghệ thông tin của Việt Nam những năm qua là khá nhanh; nhưng so
với các nước khu vực ASEAN và nhất là các nước phát triển, Việt Nam vẫn được
Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp ở mức thấp về công nghệ thông tin và truyền thông,
do chưa sẵn sàng để kinh doanh điện tử, ít sử dụng thư điện tử và chi phí bình quân
của các cuộc gọi trong nước và quốc tế còn cao
Về kết cấu hạ tầng: Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn
để phát triển kết cấu hạ tầng, nhưng vẫn chỉ được xếp ở mức 76/100 nước, chỉ số
về tiêu dùng điện bình quân đầu người/năm mới đạt 391 kWh (trong khi Canada là
17.000 kWh/năm, Mỹ là 14.000 kWh/năm, Trung Quốc là 926 kWh/năm, Hồng
Công là 5.700 kWh/năm, Nhật Bản là 8.200 kWh/năm, Malaysia là 2.800 kWh,
Thái Lan là 1.600 kWh, Singapore 8.100 kWh, Campuchia 20 kWh).
Về nhân lực: Trong năm 2003, Việt Nam mới chỉ đạt trình độ trung bình yếu về
nhân lực, xếp thứ 3,79/10 - đứng cuối cùng trong 13 nước ở khu vực; đáng lo ngại
hơn là trình độ tiếng Anh và trình độ tiếp cận công nghệ cao đều còn ở mức cuối
bảng. định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Theo chúng tôi, nguyên nhân khách quan mang tính bao trùm của tình hình là do
Việt Nam hiện nay vẫn chưa ra khỏi giai đoạn khởi động của quá trình chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng chủ yếu
vẫn là do nguyên nhân chủ quan bắt nguồn trực tiếp từ những khiếm khuyết trong
hoạt động quản lý nhà nước: Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế chưa đủ sức hấp
dẫn, do chưa đủ quyết tâm chuyển mạnh và đồng bộ sang thể chế kinh tế thị
trường. Khung pháp lý hiện có chưa đáp ứng kịp nhu cầu hình thành và phát triển
của các thị trường thiết yếu, bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến địa
phương chưa đủ sức kiểm soát và ngăn chặn được các "thị trường ngầm" gây nhiều
tiêu cực. Trong việc thiết kế và áp dụng các công cụ điều tiết vĩ mô, nhiều cơ quan

nhà nước vẫn thiên về lợi ích cục bộ của chính mình, chưa thực sự coi trọng lợi ích
và nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và nhân dân. Tình trạng phân biệt đối xử
với các thành phần kinh tế vẫn còn khá phổ biến. Những hình thái biến tướng của
bao cấp, bảo hộ và độc quyền kinh doanh đang kìm hãm khả năng phát triển của
đất nước, nhưng chưa có biện pháp đủ mạnh để khắc phục. Trong một số lĩnh vực,
sự độc quyền của Nhà nước bị các tổng công ty lợi dụng để biến thành đặc quyền
riêng, biểu hiện ở giá cả của hầu hết sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mang tính độc
quyền đều cao hơn giá quốc tế, dẫn đến làm tăng chi phí "đầu vào" của các doanh
nghiệp. Trong khi đó, chúng ta chưa xây dựng được khuôn khổ pháp lý bảo đảm
cho sự cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng. Áp lực của hội nhập kinh tế và cạnh
tranh quốc tế ngày càng mạnh, nhưng nhiều địa phương và doanh nghiệp vẫn
"đủng đỉnh" để trông đợi vào sự đầu tư và bảo hộ của Nhà nước. Nguồn vốn ngân
sách đang khan hiếm và tín dụng ưu đãi bị sử dụng dàn trải, thậm chí vẫn bao cấp
tràn lan kéo dài cho nhiều doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn không có hiệu quả.
Cơ quan quản lý nhà nước các cấp nhìn chung vẫn can thiệp sâu vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, trong khi lại bỏ qua hoặc thực hiện không tốt những
chức năng đích thực của mình. Biểu hiện cụ thể là: quy hoạch vừa kém chất lượng
vừa thiếu hiệu lực, chưa xây dựng được hệ thống thể chế mang tính đồng bộ và
thống nhất phù hợp với yêu cầu khách quan của cơ chế cạnh tranh thị trường trong
điều kiện toàn cầu hóa, quản lý và sử dụng tài chính cũng như tài sản công còn rất
lãng phí - nhất là đối với đất đai, đầu tư công cộng và mua sắm bằng tiền ngân
sách
Những thiếu sót nêu trên cùng với sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật có ảnh
hưởng rất tiêu cực đến khả năng tham dự toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc
tế của Việt Nam.
Để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa đang ngày càng tác động mạnh mẽ cần phối hợp trí tuệ của
nhiều nhà khoa học và quản lý ở nhiều cấp, nhiều ngành. Ở đây, chúng tôi chỉ xin
nêu một số vấn đề chủ yếu.
Trước hết, cần thống nhất nhận thức ưu thế lớn nhất của nền kinh tế thị trường

chính là ở tính cạnh tranh. Nói cách khác, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị
trường. Vì thế, thủ tiêu hay hạn chế cạnh tranh tức là triệt phá sức sống của nó.
Muốn có kinh tế thị trường theo nghĩa đích thực phải bảo vệ và duy trì cạnh tranh
bằng các thể chế cần thiết, đặc biệt là bằng các quy định pháp luật minh bạch, dễ
hiểu, dễ làm.
Hai là, nhanh chóng xác lập những điều kiện tiền đề cho chính sách cạnh tranh.
Theo đó cần xác định rõ chủ thể thị trường, vạch rõ ranh giới giữa thị trường và
Nhà nước; đồng thời, hình thành được hệ thống thị trường đồng bộ và hoàn thiện.
Ba là, có "công nghệ" xây dựng chính sách cạnh tranh theo chuẩn mực hiện đại,
phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế.
Theo đó, kết hợp hợp lý và có hiệu quả các biện pháp pháp chế, với kinh tế và biện
pháp hành chính cần thiết. Về các biện pháp pháp chế, xác định rõ chủ thể thị
trường và đưa ra những quy định thật khách quan và chặt chẽ để bảo đảm các chủ
thể đó luôn được đối xử bình đẳng - đó là điều kiện quan trọng hàng đầu để duy trì
cạnh tranh một cách công bằng; đồng thời phải chú trọng tăng cường hiệu lực của
pháp luật đối với trật tự thị trường, thúc đẩy việc thực hiện Luật Phá sản, sớm xây
dựng và ban hành Luật Cạnh tranh và chống độc quyền - làm cho luật này của Việt
Nam ăn khớp với các quy tắc thống nhất của khu vực và thế giới. Về các biện pháp
kinh tế, cần bảo đảm nguyên tắc không mâu thuẫn với các biện pháp pháp chế, trên
cơ sở đó xây dựng những nguyên tắc khách quan trong việc sử dụng các đòn bẩy
kinh tế như thuế, giá cả, tín dụng để thúc đẩy cạnh tranh, đồng thời, tất cả các
chính sách khác có liên quan đều phải có tác dụng bảo vệ và khuyến khích cạnh
tranh, như chính sách phát triển các ngành, chính sách tài chính, chính sách đầu tư,
chính sách thương mại, chính sách việc làm và tiền lương Về các biện pháp hành
chính, cần chú ý đến mối quan hệ giữa nó với các biện pháp pháp chế và các biện
pháp kinh tế; trên cơ sở đó, xác định rõ chức năng và quyền hạn của các cơ quan
chuyên trách và các chủ thể khác khi họ trực tiếp dùng quyền lực hành chính để
can thiệp, giám sát và quản lý các hành vi thị trường của các doanh nghiệp. Các
chức năng và quyền hạn đó đều phải được quy định rõ ràng trong luật hành chính
và có những điều khoản tương ứng trong Luật Cạnh tranh.

Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu và thực hiện việc quốc tế hóa chính sách cạnh
tranh. Việt Nam sớm có các tổ chức chuyên trách xây dựng luật và chính sách cạnh
tranh. Trong quá trình này, cần chú trọng tính quốc tế hóa của luật và chính sách
cạnh tranh của Việt Nam (chú trọng các đối tác quan trọng như ASEAN, Mỹ, Nhật
Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc và các tổ chức quốc tế lớn như WTO, OECD,
UNDP, UNCTAD ), đồng thời, đặc biệt lưu ý đến mối quan hệ giữa chính sách và
Luật Cạnh tranh của Việt Nam với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
III. KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế có rất nhiều mặt thuận lợi, nhưng cũng đề ra cho chúng
ta nhiều thách thức.Để đứng vững trên đấu trường quốc tế,chúng ta phải có những
đối sách phù hợp và thiết thực nhất.
Việt Nam là một nước đang phát triển,mọi mặt đều còn non trẻ và yếu kém, cần
phải từng bước tiến lên,tiến lên một cách vững vàng,đừng vì phấn đấu những mục
tiêu trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài.Hiện nay Việt Nam đã là thành viên của
WTO,và nhiều tổ chức quốc tế khác,điều này đem đến cho Việt Nam nhiều lợi
ích,nhưng cũng không ít thách thức được đề ra, đòi hỏi nhà nước phải có những
chính sách phù hợp nhất.
Trên đây là những nhận định, phân tích và đánh giác của em về vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam,mong rằng sẽ giúp ích được phần nào.
Bài viết còn nhiều thiếu sót,mong thầy cô đưa ra ý kiến đóng góp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên:
Hoàng Văn Ngọ

×