Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tác dụng phụ của các thuốc ngủ thế hệ mới pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.94 KB, 6 trang )

Tác dụng phụ của các thuốc ngủ
thế hệ mới



Các thuốc ngủ thế hệ cũ thường có nhược điểm gây quen thuốc
như phenobarbital, gây hội chứng lệ thuộc thuốc như loại
benzodiazepin… vì vậy không thể dùng lâu dài cho các trường hợp mất
ngủ mạn.
Các thuốc ngủ thế hệ cũ thường có nhược điểm gây quen thuốc như
phenobarbital, gây hội chứng lệ thuộc thuốc như loại benzodiazepin… vì
vậy không thể dùng lâu dài cho các trường hợp mất ngủ mạn. Để khắc phục
tình trạng trên, thuốc ngủ thế hệ mới đã ra đời đưa vào thị trường từ năm
2007 và đã có mặt ở nước ta. Thế nhưng dùng thuốc ngủ thế hệ mới có thật
sự yên tâm như chúng ta nghĩ?
Ưu điểm của thuốc ngủ thế hệ mới
Thế hệ thuốc ngủ mới không có cấu trúc benzodiazepin gọi chung là
nhóm nonbenzodiazepin bao gồm: zolpidem (ambien, ivedal), eszopiclon
(lunesta), zalepon (sonatra, starnoc).
Các thuốc ngủ thế hệ cũ benzodiazepin tác dụng lên thụ thể GABA-A
ở type alpha-1 (chịu trách nhiệm về giấc ngủ), đồng thời ở type alpha 2-3-5
(chịu trách nhiệm về lo âu, quên, giãn cơ) nên có hiệu ứng gây ngủ, giải lo
âu, giãn cơ song lại gây trạng thái “quá thoải mái” (phởn phơ) nếu sử dụng
kéo dài hoặc bị lạm dụng như ma túy sẽ gây “hội chứng lệ thuộc thuốc”.
Các thuốc ngủ thế hệ mới, tuy không có cấu trúc benzodiazepin nhưng
cũng có tác dụng trên thụ thể GABA-A chủ yếu ở type alpha-1 nên có hiệu
ứng gây ngủ, nhưng ít tác dụng phụ hơn các benzodiazepin. Do vậy, có thể
dùng trong 2-6 tuần (Theo FDA) hay 4 tuần (Theo Australia). Trong thực tế
cũng có nghiên cứu dùng trong 6 tháng (đối với zolpidem) không ghi nhận
tai biến, nhưng chưa được ứng dụng trong lâm sàng.
Những nhược điểm cần lưu ý


Zolpidem cũng có tác dụng GABA-A yếu hơn ở type alpha 2-3,
không tác dụng với type alpha 4-6 và omega-5. Do tác dụng phức tạp này
trên não mà zolpidem có hiệu ứng phức tạp trên giấc ngủ: xuất hiện rất
nhanh giấc ngủ ở giai đoạn 1, song kém hiệu quả ở giấc ngủ giai đoạn 2.
Chất lượng giấc ngủ chưa tốt như giấc ngủ sinh lý. Hơn nữa do chu kỳ bán
hủy ngắn (2 giờ) nên tổng thời gian ngủ không nhiều. Eszopiclon cũng có cơ
chế tác dụng và tạo ra giấc ngủ tương tự zolpidem. Chỉ riêng zaleplon có cơ
chế tác dụng khác hơn tạo ra giấc ngủ giống giấc ngủ tự nhiên.
Tuy mức độ gây ra thấp hơn, không bằng benzodiazepin, song các
thuốc ngủ mới nonbezodiazepin cũng gây ra trạng thái “quá thoải mái” và bị
lạm dụng như ma túy, gây ra “hội chứng lệ thuộc thuốc”. Một số nghiên cứu
cho biết, dùng zolpidem chỉ trong vài tuần đã tăng tính “làm dịu” phát triển
thành sự lệ thuộc thuốc ở một số người. Nếu dùng lâu dài mà đột ngột ngừng
thuốc thì bị các phản ứng nghịch thường như mê sảng, co giật hay các triệu
chứng nghiêm trọng khác. Eszopiclon cũng gây ra hội chứng lệ thuộc thuốc
như zolpidem. Zaleplon có gây ra hội chứng này nhưng ở mức thấp hơn hai
chất trên.
Cả ba thuốc trong nhóm đều có thể gây ra một số trạng thái tâm thần
phức tạp như suy giảm trí nhớ, giảm khả năng phân tích lý luận, thay đổi
kiểu suy nghĩ, ảo giác (về thính giác, thị giác) ở các mức khác nhau, hoảng
sợ, mất điều hòa (suy giảm vận động và phối hợp vận động, dễ té ngã), tăng
tính bốc đồng, thoải mái quá mức hay khó chịu, thèm ăn, tăng tính dục, nhức
đầu (ở một số người), có hành vi bất thường, xa lánh thoát ly xã hội, xung
khắc đối lập với người khác, mất nhân cách. Riêng eszopiclon còn gây ra
trầm cảm, có ý nghĩ tự sát.
Tuy cả ba thuốc đều được chỉ định cho người già khó vào giấc ngủ
hay bị thức giấc rối loạn giấc ngủ mạn, nhưng vì cả ba đều gây ra các trạng
thái tâm thần nói trên, đặc biệt là làm suy giảm trí nhớ, dẫn đến trạng thái
thiếu tỉnh táo, lú lẫn, bị té ngã gây nguy hiểm cho người già nên phải thận
trọng dùng cho đối tượng này. Trong thực tế, việc nghiên cứu tính an toàn

dài hạn chưa đầy đủ, cần phải có những nghiên cứu thêm sau này. Ở nước ta,
các thuốc này được thầy thuốc khuyên dùng không nên quá 2 tuần.
Riêng zolpidem còn gây ra các hiệu ứng bất thường: nói chuyện, làm
việc trong lúc ngủ, đôi khi còn đáp ứng được một số câu hỏi như là tỉnh táo.
Sẽ rất dễ nhận thấy sự bất thường này vì lời nói thường không liên hệ với
thực tại, chứng tỏ chỉ là một sự rối loạn mà không xuất phát từ sự minh mẫn
của trí óc. Đây là trạng thái “sleepwwaking”, một trạng thái ghép
(schizophasíc), giống như các trạng thái thường gặp trong bệnh tâm thần
phân liệt (schizophrenia) nên rất nguy hiểm. Tại Australia, năm 2007 có một
người đàn ông đã chết do nhảy từ ban công xuống, điều tra cho biết, trước
đó người này đã dùng zolpidem. Tại Australia, zolpidem được đem ra xem
xét tại Ban tư vấn thực hành tốt điều trị (therapeupeutic good administration)
và đưa ra lời cảnh báo: “Zolppidem có thể tạo một giấc ngủ phức tạp, nguy
hiểm tiềm tàng liên quan đến hành vi “đi - ngủ”, “lái xe-ngủ” và các hành vi
kỳ dị khác. Không được uống rượu, thận trọng cần thiết với các thuốc trầm
cảm, các thuốc làm trầm suy hệ thần kinh trung ương khác khi dùng
zolpidem, cần có sự giám sát chặt chẽ của y tế và không dùng thuốc quá 4
tuần”.
Như vậy, thuốc ngủ thế hệ mới ít độc hơn phenobarbital,
benzodiazepin, có thể đáp ứng một phần nào mong muốn đề ra khi nghiên
cứu, nhưng không hẳn đã loại bỏ được hoàn toàn các nhược điểm của
thuốc cũ, nên vẫn chưa thể là một thuốc dùng dài hạn được, cần tránh sự
lạm dụng. Ngoài ra, đây là thế hệ thuốc mới, có thể còn có những công dụng
mới hay tác dụng phụ khác chưa ghi nhận hết. Vì thế, khi dùng thuốc cần có
sự theo dõi chặt chẽ.
DS. Bùi Văn Uy

×