Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Công ty bảo hiểm Chartis Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.64 KB, 25 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
Số: 45/KH-UBND
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Lạng Sơn, ngày 09 tháng 8 năm 2012
KẾ HOẠCH
Hành động thực hiện chiến lược dân số và sức khoẻ sinh sản Việt Nam
của tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2011 – 2015
Sau nhiều năm thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước về dân số (DS), kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) và chăm
sóc sức khoẻ sinh sản (SKSS) của tỉnh đã đạt những kết quả quan trọng. Mức
sinh và tỷ lệ tăng dân số đã giảm và đạt mức sinh thay thế; quy mô dân số ổn
định; tình trạng sức khỏe bà mẹ và trẻ em được cải thiện, góp phần đáng kể
vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân.
Tuy nhiên, nhiều vấn đề DS và SKSS vẫn là thách thức lớn đối với sự
phát triển bền vững của tỉnh như: Mức sinh chưa ổn định, tỷ lệ tăng dân số có
xu hướng tăng trở lại; cơ cấu dân số biến động mạnh, tỷ lệ người cao tuổi tăng
nhanh, mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng nghiêm trọng, chất lượng
dân số còn thấp, nhiều vấn đề về SKSS chưa được giải quyết.
Căn cứ tình hình thực tế trên địa bàn tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh xây
dựng kế hoạch hành động thực hiện chiến lược dân số và sức khoẻ sinh sản
Việt Nam của tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2011 – 2015, nhằm tập trung nâng cao
chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh thấp
hợp lý, chủ động kiểm soát cơ cấu dân số, trực tiếp góp phần nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC DÂN SỐ VIỆT NAM
VÀ CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE


SINH SẢN GIAI ĐOẠN 2001 – 2010
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Kết quả thực hiện các mục tiêu
1.1. Về quy mô dân số
Trong 10 năm qua (2001- 2010) quy mô dân số ổn định, đến năm 2010,
dân số trung bình Lạng Sơn là 736.294 (Mục tiêu năm 2010 là 776.500
người). Tỷ lệ phát triển dân số giảm dần theo thời gian. Lực lượng lao động
ngày càng tăng, chất lượng dân số của tỉnh từng bước nâng lên.
1.2. Về kết quả giảm sinh
Tỷ suất sinh thô (CBR) và tỷ suất chết thô đã giảm dần qua các năm,
điều đó chứng tỏ đời sống và việc chăm sóc sức khoẻ cho người dân được cải
thiện hơn trước. Mức giảm sinh bình quân hàng năm là 0,51%o/năm (giai
đoạn 2001-2005), 0,4%o/năm (giai đoạn 2006- 2010), đạt mục tiêu đề ra. Tỷ
lệ sinh con thứ 3 trở lên hàng năm giảm bình quân 0,6%/năm. Tổng tỷ suất
sinh (số con trung bình của 1 phụ nữ) năm 2010 là 1,84 con, đạt dưới mức
sinh thay thế. Tỷ lệ tăng dân số từ 4,8%o năm 2005 xuống còn 4,0%o năm
2010.
Kết quả thực hiện các biện pháp tránh thai (BPTT) qua các năm đều đạt
và vượt kế hoạch. Tỷ lệ các cặp vợ chồng áp dụng các BPTT hiện đại hàng
năm tăng từ 0,5-1% so với năm trước.
Tốc độ gia tăng dân số về cơ bản đã được kiểm soát và khống chế, nhờ
đó áp lực của quy mô dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã bắt đầu
được giảm nhẹ, đã tiết kiệm được một khối lượng lớn các nguồn lực mà lẽ ra
phải chi cho ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, chữa bệnh và việc làm.
1.3. Về nâng cao Chất lượng dân số
Chất lượng dân số của tỉnh đã được nâng lên rõ rệt cả về thể lực và trí
lực thông qua các chương trình chăm sóc sức khoẻ một cách toàn diện, cải
thiện môi trường, nâng cao dân trí, tăng cường giáo dục thể chất, trí tuệ và
tinh thần cho thế hệ tương lai...
Đời sống nhân dân trong tỉnh được cải thiện từng bước. Tỷ lệ hộ nghèo

theo chuẩn quốc gia hàng năm đều giảm, mức sống của người dân đã được
nâng cao hơn, GDP bình quân đầu người tăng đáng kể từ 3,443 triệu đồng
năm 2001 lên 16,013 triệu đồng năm 2010.
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu đánh giá về chất lượng dân số của tỉnh Lạng
Sơn còn thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước như: Thu nhập bình
quân đầu người, trình độ dân trí, các điều kiện về tinh thần, điều kiện chăm
sóc y tế, nạn tảo hôn, có thai ngoài ý muốn của vị thành niên, thanh niên làm
suy giảm chất lượng giống nòi còn xảy ra, tỷ số giới tính khi sinh có xu
hướng tăng đây là những thách thức đặt ra cho chương trình dân số hiện nay
và những năm tiếp theo.
1.4. Tình trạng Sức khỏe sinh sản của người dân được cải thiện
Tỷ lệ đẻ tại cơ sở y tế tăng gần gấp 3 lần từ năm 2001- 2010, đẻ do cán
bộ y tế đỡ đều tăng mỗi năm gần 3%. Tỷ số chết mẹ, tỷ suất chết sơ sinh, tỷ
suất chết trẻ em dưới 05 tuổi giảm qua từng năm. Số người khám phụ khoa
trung bình/người/năm tăng gấp đôi từ năm 2001 đến 2010. Tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em về cân nặng trên tuổi đã giảm trung bình mỗi năm trên 1%.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác chăm sóc SKSS vẫn còn
những hạn chế và khó khăn: Sự khác biệt lớn giữa các vùng về sức khỏe, bệnh tật, tử
vong bà mẹ và trẻ em. Gánh nặng kép về dinh dưỡng (Suy dinh dưỡng trẻ em còn ở
mức cao, tình trạng thừa cân béo phì có xu hướng gia tăng), ảnh hưởng đến việc cải
2
thiện tầm vóc trí tuệ của thế hệ sau. Các vấn đề SKSS/sức khỏe tình dục ở nhóm đối
tượng đặc thù chưa được quan tâm đúng mức, chưa có đủ nguồn lực, thiếu cán bộ
chuyên khoa dẫn đến hạn chế năng lực cung cấp dịch vụ của các cơ sở y tế.
2. Kết quả thực hiện các giải pháp
2.1. Truyền thông vận động chuyển đổi hành vi
- Tập trung tuyên truyền các văn bản của Đảng, Nhà nước về DS-
KHHGĐ. Tập huấn kiến thức pháp luật về Dân số cho Báo cáo viên pháp luật
các cấp, về nội dung và nghiệp vụ truyền thông cho cán bộ làm công tác dân
số và đội ngũ tuyên truyền viên của các ngành.

- Tuyên truyền với nhiều hình thức, kết hợp với truyền thông trực tiếp.
Mở rộng, nâng cao chất lượng các hình thức giáo dục, đưa nội dung DS
-KHHGĐ vào giảng dạy trong Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ, đưa nội
dung giáo dục về giới và giới tính vào trong nhà trường phổ thông. Biên soạn
và phát hành các sản phẩm truyền thông.
Công tác truyền thông, giáo dục đã được đổi mới cả về nội dung, hình
thức và cách tiếp cận, tạo ra sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành vi
của nhân dân, bao gồm cả người chưa thành niên và thanh niên. Quy mô gia
đình ít con ngày càng được chấp nhận rộng rãi; hiểu biết và thực hành về
KHHGĐ/SKSS trong các tầng lớp nhân dân được nâng lên; góp phần thúc
đẩy việc xây dựng chính sách, huy động nguồn lực và tạo môi trường xã hội
thuận lợi cho công tác DS và SKSS.
2.2. Mạng lưới và chất lượng cung cấp dịch vụ
Mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS và KHHGĐ được mở
rộng từ tỉnh đến cơ sở. Hệ thống y tế cơ sở ngày càng phát triển cả hai khu
vực Nhà nước và tư nhân; Trình độ cán bộ y tế được nâng cao thông qua các
hình thức đào tạo, giám sát lồng ghép; các Trung tâm y tế cấp huyện đều có
khoa sản và Đội bảo vệ bà mẹ trẻ em- KHHGĐ, 226/226 Trạm y tế xã đều có
nữ hộ sinh, y sỹ sản nhi thực hiện được dịch vụ KHHGĐ thường xuyên. Cán
bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số thực hiện tư vấn và cung cấp các
BPTT tại cộng đồng. Các chiến dịch tăng cường tuyên truyền, vận động lồng
ghép dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ đến các xã có mức sinh còn cao, xã
vùng sâu, vùng khó khăn của tỉnh (gọi tắt Chiến dịch) được tổ chức hàng năm
đã cải thiện rõ rệt tình trạng SKSS của phụ nữ, do đó tỷ lệ các cặp vợ chồng
áp dụng các BPTT tăng nhanh và giảm dần tỷ lệ nạo hút thai.
2.3. Thực hiện chính sách chế độ và xây dựng cơ chế chính sách của tỉnh
Những năm qua, tỉnh đã ban hành một số cơ chế, chính sách về công
tác Dân số- KHHGĐ: Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Lạng Sơn đã ban hành Chỉ thị
số 47-CT/TU ngày 25/5/2005 về "tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân
số, kế hoạch hoá gia đình"; UBND tỉnh ban hành Quyết định số 606-UB/QĐ

ngày 30/8/1996 "Quy định tạm thời về một số chủ trương, biện pháp thực
hiện chính sách Dân số- Kế hoạch hoá gia đình tỉnh Lạng Sơn"; Quyết định số
3
1366/QĐ-UB ngày 22/8/2000 của UBND tỉnh Lạng Sơn ban hành quy định 6
tiêu chuẩn xây dựng cơ quan, đơn vị có nếp sống văn hoá, trong đó có tiêu
chuẩn thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ; Quyết định số 02/2008/QĐ-
UBND ngày 11/01/2008 của UBND tỉnh Lạng Sơn ban hành Chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính
trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình;
Quyết định số 21/2008/QĐ-UBND ngày 29/8/2008 "Ban hành Quy định về
một số chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình áp dụng trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn".
Các chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác
viên cũng như cho các đối tượng thực hiện KHHGĐ đã được đảm bảo đầy đủ,
kịp thời.
2.4. Đầu tư và sử dụng kinh phí
Phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí. Thực hiện công
khai việc phân bổ chỉ tiêu kế hoạch và kinh phí hoạt động; thường xuyên
kiểm tra, hướng dẫn việc sử dụng và quyết toán kinh phí theo đúng quy định
trên tinh thần tiết kiệm, hiệu quả.
- Kinh phí của chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ đã được sử
dụng theo đúng quy định tài chính và hướng dẫn của Trung ương. Mức kinh
phí chi cho công tác dân số bình quân đầu người đã tăng từ 3.839 đồng năm
2001 lên 10.884 đồng vào năm 2010 (chưa kể nguồn phương tiện tránh thai
cấp miễn phí cấp hàng năm cho trên 100.000 người). Ngoài ra, tỉnh đã trích từ
ngân sách của địa phương hỗ trợ thù lao cho cộng tác viên dân số (từ năm
1997 đến 2003). Các xã, phường, thị trấn hàng năm đều hỗ trợ kinh phí cho
các đợt tổ chức Chiến dịch.
2.5. Xã hội hóa công tác Dân số và sức khoẻ sinh sản
Công tác DS và SKSS được đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội của từng địa phương và thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng ngành,
đoàn thể; Các chính sách về DS và SKSS được triển khai đồng bộ, được cụ
thể hóa và tổ chức triển khai tích cực, phát huy hiệu quả.
Việc xã hội hóa công tác DS và SKSS đã được chú trọng và có chuyển
biến tích cực. Nội dung DS và SKSS được đưa vào hương ước, quy ước của
cộng đồng, hoạt động của các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội. Mạng lưới
cung cấp dịch vụ về DS và chăm sóc SKSS tư nhân được mở rộng, đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
2.6. Nâng cao năng lực quản lý và tổ chức thực hiện
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các Ban, ngành từ tỉnh đến cơ sở
thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực
hiện các chủ trương chính sách về DS và SKSS trong toàn tỉnh.
Tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ các cấp đã được kiện toàn,
ổn định, duy trì hoạt động, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ từng giai đoạn.
4
Đội ngũ cán bộ làm công tác DS-SKSS các cấp hàng năm được tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên môn; trách nhiệm, tâm huyết với công việc được
giao. Ban chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ các cấp luôn được kiện toàn, phát
huy tốt vai trò phối hợp chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả công tác DS-SKSS.
Hệ thống thông tin dữ liệu dân số toàn tỉnh được duy trì và đảm bảo
cập nhật thường xuyên; chế độ báo cáo thống kê theo quy định giúp cho việc
chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền.
Công tác nghiên cứu khoa học được coi trọng đúng mức, tập trung vào
các lĩnh vực liên quan đến Dân số/ SKSS/KHHGĐ, tìm ra nguyên nhân và có
những giải pháp phù hợp để thực hiện chương trình có hiệu quả.
2.7. Lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
Để thực hiện các mục tiêu Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn
2001- 2010, tỉnh Lạng Sơn đã đưa các mục tiêu về giảm sinh, tỷ lệ phát triển
dân số vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, XIV và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm, 10 năm. Tỉnh đã ban hành các

văn bản để thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam (nêu tại mục 2.3) được các
cấp, các ngành quán triệt, triển khai đạt kết quả.
Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá được tăng cường theo định kỳ
hàng năm hoặc chuyên đề, do đó đã kịp thời có các biện pháp lãnh đạo, chỉ
đạo để nâng cao hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho công tác DS, SKSS.
II. NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP
1- Tỷ lệ giảm sinh chưa vững chắc, có sự khác biệt giữa các vùng. Tỷ
lệ sinh con thứ 3 trở lên có giảm nhưng không thật sự ổn định. Tỷ số giới tính
khi sinh có chiều hướng gia tăng. Quy mô dân số ổn định nhưng phân bố dân
cư chưa hợp lý.
2- Chất lượng dân số chậm được cải thiện. Tỷ lệ người lao động đã qua
đào tạo thấp, năng suất lao động không cao. Tình trạng tảo hôn chưa giảm ở
nông thôn, vùng sâu, vùng khó khăn.
3- Nhiều vấn đề về chăm sóc SKSS chưa được giải quyết tốt. Chất
lượng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ còn hạn chế, đặc biệt ở vùng sâu,
vùng xa; việc điều phối cung ứng phương tiện tránh thai (PTTT) chưa linh
hoạt, chưa chủ động được nguồn cung cấp. Chương trình tiếp thị xã hội PTTT
chưa được áp dụng. Việc đáp ứng nhu cầu thông tin, kiến thức, dịch vụ về
SKSS, sức khoẻ tình dục cho các nhóm dân số đặc thù như người dân tộc
thiểu số, người chưa thành niên, thanh niên, nam giới, người di cư, người
khuyết tật, người có HIV còn rất hạn chế...
4- Nội dung, hình thức truyền thông chưa thật phù hợp đối tượng và đặc
điểm từng vùng; Việc phối hợp giữa truyền thông và cung cấp dịch vụ DS và
SKSS vẫn còn những điểm yếu kém, đặc biệt ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
5
5- Thông tin, số liệu, nghiên cứu khoa học, phân tích, dự báo các vấn
đề về DS và SKSS chưa đáp ứng nhu cầu quản lý, xây dựng kế hoạch, chính
sách và công tác điều hành. Việc lồng ghép các biến dân số vào công tác quy
hoạch, kế hoạch phát triển chưa trở thành quy trình bắt buộc đối với các
ngành, các địa phương.

III. NGUYÊN NHÂN
1. Nguyên nhân đạt được
- Các mục tiêu, giải pháp được xác định đúng đắn, phù hợp tình hình
thực tế của địa phương và được đưa vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thực hiện; đồng
thời phù hợp với nguyện vọng, đem lại lợi ích kinh tế, tinh thần, sức khoẻ cho
nhân dân nên được nhân dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện.
- Công tác DS-SKSS được Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân luôn quan tâm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo; Nâng cao vai trò và trách
nhiệm gương mẫu của đảng viên, cán bộ trong thực hiện chính sách DS-
KHHGĐ.
- Sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ của các Ban, ngành, đoàn thể, các tổ
chức xã hội trong quá trình triển khai thực hiện chương trình DS-SKSS.
- Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác DS-SKSS từ tỉnh đến cơ sở tâm
huyết, nhiệt tình, trách nhiệm đã tham mưu tích cực cho lãnh đạo Đảng, chính
quyền các cấp tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình.
Có thể khẳng định sự thành công của công tác DS-SKSS đã góp phần
đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, xóa đói giảm nghèo
và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
2. Nguyên nhân chưa đạt
- Một số cấp uỷ Đảng, chính quyền ở cơ sở chưa nhận thức đầy đủ tính
chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác DS-SKSS, có nơi còn chủ
quan, thoả mãn với kết quả đạt được, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu
quan tâm nên mức giảm sinh chưa thực sự bền vững, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở
lên giảm chưa nhiều. Việc xã hội hoá công tác DS-SKSS chưa được quan tâm
và đẩy mạnh.
- Số lượng phụ nữ bước vào độ tuổi 15-49 lớn, là áp lực không nhỏ đối
với vấn đề gia tăng dân số, thêm vào đó là yếu tố dân trí, tâm lý, tập quán và
tư tưởng phong kiến về việc kết hôn, sinh con của người dân muốn có đông
con, có con trai còn nặng nề. Hiện tượng một số ít cán bộ, đảng viên sinh con

thứ 3 đã ảnh hưởng không tốt đến quần chúng nhân dân trong việc chấp hành
thực hiện chính sách dân số.
- Chính sách DS-SKSS còn chậm thay đổi; Việc ban hành thực hiện thu
viện phí đối với các đối tượng thực hiện dịch vụ kỹ thuật KHHGĐ hiện nay là
không phù hợp gây không ít khó khăn trong thực hiện chỉ tiêu kế hoạch.
6
- Nguồn lực đầu tư (Kinh phí, phương tiện) còn thiếu, một số giải pháp
chưa được đầu tư tương xứng và đáp ứng đủ với mục tiêu kế hoạch đề ra.
- Tổ chức bộ máy thường xuyên thay đổi không ổn định; Biên chế cán bộ
làm công tác Dân số-SKSS từ tỉnh đến cơ sở còn thiếu chưa đáp ứng được chức
năng, nhiệm vụ hiện nay; chất lượng và năng lực cán bộ còn bất cập và hạn chế.
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC DÂN SỐ
VÀ SỨC KHỎE SINH SẢN VIỆT NAM CỦA TỈNH LẠNG SƠN
GIAI ĐOẠN 2011 – 2015
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
1. Cơ sở pháp lý
- Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình;
- Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 22/3/2005 của của Bộ Chính trị về công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới;
- Kết luận số 44-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3
năm thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị (Khóa
IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số- kế hoạch hóa gia đình”;
- Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 18/8/2010 của Chính phủ về ban hành
Kế hoạch hành động của Chính phủ giai đoạn 2011-2015 thực hiện kết luận
số 44- KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3 năm thực hiện
Nghị quyết 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách dân số- kế hoạch hóa gia đình”;
- Quyết định số 2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê

duyệt Chiến lược Dân số- Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020;
- Chỉ thị số 47-CT/TU ngày 25/5/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Lạng
Sơn về “tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình”;
- Quyết định số 02/2008/QĐ-UBND ngày 11/01/2008 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Lạng Sơn ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số
47-NQ/TW, ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình”;
- Nghị quyết số 08/2008/NQ-HĐND ngày 21/7/2008 của HĐND tỉnh "Về
một số chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình áp dụng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn;
- Quyết định 21/2008/QĐ-UBND ngày 29/8/2008 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Lạng Sơn Ban hành Quy định về một số chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình áp dụng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
2. Những vấn đề cần giải quyết trong giai đoạn 2011-2015
2.1. Quy mô dân số và mức sinh:
7
Tỉnh Lạng Sơn đã đạt mức sinh thay thế nếu tiếp tục thực hiện mục tiêu
giảm sinh như trước đây sẽ có khả năng làm cho mức sinh giảm xuống quá
thấp; tuy nhiên dân số tỉnh vẫn đang trong giai đoạn nhạy cảm với các yếu tố
tác động, chưa loại trừ được khả năng mức sinh tăng trở lại; bên cạnh đó Lạng
Sơn còn đối diện với nguy cơ quy mô dân số không ổn định có thể sụt giảm
do ảnh hưởng của di dân tự do đi tìm việc làm hoặc tăng nhanh do không có
việc làm phải quay trở lại địa phương.
2.2. Cơ cấu dân số:
Dân số trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) tăng nhanh là cơ hội tốt cho
phát triển, song cũng tạo ra thách thức về giáo dục, đào tạo nghề, giải quyết
việc làm cho người lao động, đặt biệt là thanh niên.
Di cư diễn ra với sự dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố,
và từ địa phương khác nhập cư vào, đòi hỏi phải tăng cường và đổi mới
phương thức quản lý dân số, đáp ứng nhu cầu xã hội cơ bản cho người nhập
cư.

Dân số Lạng Sơn đang trong quá trình già hóa chung của cả nước, số
lượng người cao tuổi ngày càng tăng, cùng với bối cảnh mức sinh thấp, quy
mô gia đình nhỏ, nhu cầu đảm bảo an sinh xã hội đòi hỏi phải có các loại hình
chăm sóc nói riêng cho nhóm dân số này ngày càng bức thiết.
Tỷ số giới tính khi sinh tăng nhanh và liên tục, nếu không có giải pháp
tích cực, thì tỷ số này không thể giảm ở mức 110 vào năm 2020. Tình trạng
này sẽ tác động xấu đến trật tự, an ninh xã hội, gây khó khăn trong việc xây
dựng gia đình của các thế hệ tương lai.
Để tránh những biến động bất lợi cho việc ổn định quy mô dân số ở
mức phù hợp, để có được cơ cấu dân số hợp lý, kéo dài thời gian của cơ cấu
“dân số vàng”, đòi hỏi phải duy trì mức sinh thấp, hợp lý và cần có chính sách
linh hoạt, thích hợp với những diễn biến của mức sinh và vấn đề di dân tự do.
2.3. Chất lượng dân số:
Chất lượng dân số của tỉnh tuy từng bước đã được cải thiện, nhưng vẫn
ở mức thấp, sức khỏe và thể lực của người dân còn hạn chế so với mức chung
của cả nước, đặc biệt là chiều cao, cân nặng, sức bền. Cơ cấu bệnh tật ngày
càng có diễn biến phức tạp, vấn đề lạm dụng và sử dụng các chất gây nghiện,
căng thẳng về tâm lý, tự ý gây thương tích, vi phạm pháp luật ngày càng trở
nên nghiêm trọng đối với một bộ phận giới trẻ.
Vẫn còn một số nơi xảy ra tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống;
kiến thức và kỹ năng về SKSS/KHHGĐ còn nhiều hạn chế.
2.4. Sức khỏe sinh sản- kế hoạch hoá gia đình:
Tình trạng sức khỏe bà mẹ còn nhiều vấn đề thách thức, còn có sự khác
biệt giữa các địa phương; mức độ thụ hưởng các dịch vụ KHHGĐ và chăm
sóc SKSS còn hạn chế nhất là ở những vùng sâu, xa. Tình trạng nạo, phá thai
8
(bao gồm cả vị thành niên và thanh niên) chưa giảm, phá thai không an toàn
vẫn còn xảy ra.
Tình trạng nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường
tình dục- HIV và ung thư đường sinh sản chưa được quan tâm đúng mức,

thiếu sự tham gia của cộng đồng. SKSS, sức khỏe tình dục ở các nhóm đối
tượng đặc thù còn nhiều thách thức.
Kiến thức, thái độ và hành vi về DS, SKSS, sức khỏe tình dục trong
cộng đồng và của ngay bản thân cán bộ y tế còn rất hạn chế; dịch vụ chăm sóc
SKSS nam giới, người cao tuổi chưa sẵn có, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày
càng cao của cuộc sống. Tình dục được coi là vấn đề tế nhị, nhạy cảm, rất ít
được thảo luận trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các chương
trình nghị sự; nhận thức về giới trong cộng đồng còn rất hạn chế.
Cung ứng các PTTT gặp khó khăn do không còn bao cấp trong những
năm tới; số phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ vẫn tiếp tục gia tăng đều hàng
năm, nhu cầu sử dụng các BPTT hiện đại sẽ tiếp tục tăng và luôn giữ ở mức
cao; vấn đề tiếp thị và cung cấp các PTTT cũng là một thách thức trong công
tác DS- KHHGĐ.
2.5. Năng lực kế hoạch hóa, lồng ghép biến dân số
Dân số và phát triển có mối quan hệ chặt chẽ, việc lồng ghép các biến
dân số vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là yêu cầu khách quan. Tuy
nhiên, việc lồng ghép vào kế hoạch của các sở, ngành, địa phương chưa thật
sự chặt chẽ và quan tâm đúng mức, điều này dẫn đến tình trạng vừa lãng phí,
vừa thiếu hụt trong đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội.
Căn cứ vào bối cảnh nêu trên, định hướng phát triển kinh tế - xã hội,
thực trạng và thách thức của vấn đề DS và SKSS đối với sự phát triển bền
vững của tỉnh, đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với việc thực hiện các chiến
lược thuộc lĩnh vực: giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, đào
tạo nghề và giải quyết việc làm, an sinh xã hội…Kế hoạch hành động của tỉnh
Lạng Sơn thực hiện Chiến lược DS và SKSS giai đoạn 2011 – 2020 sẽ giải
quyết những vấn đề sau:
+ Nâng cao chất lượng dân số giai đoạn đầu đời, tạo cơ sở nâng cao
chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần.
+ Duy trì mức sinh thấp, hợp lý để sớm ổn định quy mô dân số, giải
quyết tốt một số vấn đề cấp bách về cơ cấu dân số.

+ Cải thiện sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe sinh sản, đặc biệt là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
II. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu tổng quát
Nâng cao chất lượng dân số và chỉ số phát triển con người của tỉnh; cải
thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt
9
những vấn đề về cơ cấu dân số, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng nhu cầu đổi mới của tỉnh.
2. Mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể: (Chi tiết tại phụ lục 1)
Mục tiêu 1: Phấn đấu tốc độ tăng dân số và quy mô dân số ổn định.
Chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức trung bình chung của cả nước; Duy
trì mức sinh hợp lý.
Chỉ tiêu 1: Tốc độ tăng dân số ổn định ở mức 0,82% để dân số trung
bình đạt 768.700 người vào năm 2015.
Chỉ tiêu 2: Duy trì mức sinh hợp lý. Tổng tỷ suất sinh (số con trung bình
của một cặp vợ chồng) ở mức 1,9 con vào năm 2015.
Chỉ tiêu 3: Tỷ suất sinh ở mức 17‰ vào năm 2015.
Mục tiêu 2: Giảm mạnh tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh, tiến tới
đưa tỷ số này trở lại mức 105-106 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm
2030. Can thiệp giảm thiểu tảo hôn và kết hôn cận huyết thống
Chỉ tiêu 1: Tỷ số giới tính khi sinh ở mức 124 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ
sinh gái vào năm 2015 và 110 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm
2020.
Chỉ tiêu 2: Giảm thiểu tảo hôn và kết hôn cận huyết thống 5%/năm, ở
những địa bàn đang triển khai mô hình.
Mục tiêu 3: Tăng cường tiếp cận các dịch vụ có chất lượng về chăm
sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em trước, trong và sau sinh.
Chỉ tiêu 1: Tỷ số tử vong mẹ là 64/100.000 sơ sinh sống vào năm 2015.
Chỉ tiêu 2: Đến năm 2015, tỷ lệ phụ nữ đẻ được quản lý thai là 94%; tỷ

lệ phụ nữ đẻ được khám thai ít nhất 3 lần trong 3 thời kỳ là 80%; tỷ lệ phụ nữ
có thai được tiêm phòng uốn ván đủ mũi là 97,5%; tỷ lệ phụ nữ đẻ tại cơ sở y
tế 96%; tỷ lệ phụ nữ đẻ được nhân viên y tế đã qua đào tạo đỡ là 99%.
Chỉ tiêu 3: Đến năm 2015, tỷ lệ bà mẹ và trẻ sơ sinh được chăm sóc
trong 42 ngày đầu sau đẻ đạt 80%; Tỷ số phá thai/tổng số trẻ đẻ sống là
0,27%.
Mục tiêu 4: Tăng cường tiếp cận các dịch vụ có chất lượng về chăm
sóc SKSS
Chỉ tiêu 1: Đến năm 2015, giảm tỷ suất tử vong trẻ dưới 1 tuổi/1000 sơ
sinh sống là 14%o; tỷ suất tử vong trẻ dưới 5 tuổi/1000 trẻ đẻ sống là 22%o.
Chỉ tiêu 2: Đến năm 2015, giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh <2500g còn 5%; tỷ lệ
trẻ sơ sinh được chăm sóc tại nhà trong tuần đầu đạt 70%; Tỷ lệ trẻ sơ sinh
được tiêm/uống vitamin K1 ngay sau đẻ đạt 85%; tỷ lệ trẻ được bú mẹ trong
giờ đầu sau đẻ đạt 75%.
10

×