Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

RÀNG BUỘC CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA PHẢI XỬ SỰ CÔNG BẰNG: ĐỀ XUẤT MỘT CƠ SỞ NGHIÊM NGẶT VỀ CHUYỀN GIÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.33 KB, 32 trang )

Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN MÔN: TÀI CHÍNH CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
Đề tài:
RÀNG BUỘC CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC
GIA PHẢI XỬ SỰ CÔNG BẰNG:
ĐỀ XUẤT MỘT CƠ SỞ NGHIÊM
NGẶT VỀ CHUYỀN GIÁ
Elizabeth Chorvat
GVHD : PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
SVTH : Nhóm 4
LỚP : TCDN - Đêm 4 – Khóa 19


TP.Hồ Chí Minh, 07/2011

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 1/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
I. GIỚI THIỆU VỀ BÀI NGHIÊN CỨU
1. Giới thiệu chung:
Hiện nay, vấn đề lớn nhất mà hệ thống thuế quốc tế đang phải đối mặt là sự
chuyển giá giữa các công ty con của công ty đa quốc gia (MNC) với nhau.
Chuyển giá đề cập đến giá trong những hoạt động mua bán qua lại giữa công
ty mẹ và công ty con hoặc giữa các công ty con của MNC với nhau. Giá bán của
hàng hóa dịch vụ trong các nghiệp vụ chuyển giá này được tính theo một cách chủ
quan mà không hề dựa trên giá trị thực tạo nên sản phẩm hay dịch vụ được cung


cấp. Thông qua hoạt động chuyển giá, các MNC sẽ thực hiện ý đồ trốn tránh việc
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (Income Corporate Tax) tại các quốc gia có thuế
suất cao – bằng cách chuyển thu nhập sang các quốc gia có mức thuế thấp hơn mà
MNC này có trụ sở.
Nếu không có biên pháp chế tài cho những hành vi này, thì toàn bộ thu nhập
của các MNC sẽ được đánh thuế ở mức thấp nhất trên thế giới, mức thấp nhất hiện
nay là 0%. Để hạn chế hành vi chuyển giá này, các quốc gia thiết lập một số quy
định về thuế để điều chỉnh giá cả trong giao dịch của các bên liên quan thông qua
nguyên tắc giá thị trường. Nguyên tắc ALP chính là cơ sở cho các nghiệp vụ mua
bán, trao đổi hàng hóa và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia. Nguyên tắc này đòi
hỏi các nghiệp vụ mua bán nội bộ trong các MNC phải được thực hiện như các
nghiệp vụ mua bán diễn ra giữa các bên độc lập với nhau nhằm thể hiện được tính
khách quan của quan hệ thị trường.
Các nhà phê bình chỉ tập trung vào những thiếu sót của tiêu chuẩn giá thị
trường để khuyến nghị các cơ quan thuế có hệ thống công thức phân bổ. Theo đó,
thu nhập được chia cho các thành viên khác nhau trong MNC dựa trên các nhân tố
như chi phí lao động, doanh số bán hàng, và giá trị của tài sản. Nhưng, các phương
pháp tính toán theo công thức phân bổ để đánh thuế sẽ dẫn đến tính thuế không
chính xác và rất có thể, nó sẽ vượt qua mức thuế của Công ty mẹ, mà bản thân các
Công ty mẹ không mong muốn và được xem như là một giải pháp không hiệu quả.
Hơn nữa, phương pháp này có thể sẽ dẫn đến giảm năng suất sản xuất.

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 2/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Thay vì là một công thức không chính xác và đơn giản hoặc một hệ thống
qui mô lớn còn bỏ ngõ (open-ended) chủ yếu dựa trên những so sánh và dẫn đến
các cuộc tranh luận kéo dài như các giao dịch đặc thù liệu có được so sánh hay
không, thì tốt hơn là áp dụng một hệ thống phân bổ thu nhập một cách chính xác
dựa trên các lý thuyết định giá tốt nhất hiện có. Ví dụ như là một hệ thống đạt được

lợi ích khi vận dụng cả hai hệ thống công thức phân bổ và theo tiêu chuẩn giá thị
trường.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Sử dụng các mô hình định giá tài sản vốn (CAPM), lý thuyết kinh doanh
chênh lệch giá, lý thuyết định giá quyền chọn, và các lý thuyết định giá hiện đại
khác để xác định chính xác giá trị tài sản đầu tư, lợi nhuận, mức độ rủ ro của công
ty con, để từ đó xem xét nguồn vốn đầu tư vào công ty con như là một danh mục
đầu tư đa quốc gia của tập đoàn. Tập đoàn vận dụng mô hình phân bổ thu nhập hợp
lý cho các công ty con ở từng quốc gia có mức thuế xuất khác nhau và tiến hành
xác định phân bổ lợi nhuận cho các công ty con hợp lý theo nguyên tắc tối đa hóa
lợi nhuận cho công ty mẹ bằng cách chuyển giá.
3. Vấn đề nghiên cứu – Chuyển giá:
Các nhà quản trị thừa nhận rằng chuyển giá là một công cụ hiệu quả trong
việc thao túng thu nhập được trì hoãn nộp thuế.
Hai phương pháp tiếp cận đến vấn đề chuyển giá đã được thừa nhận là tiêu
điểm trong bài nghiên cứu: phương pháp giá thị trường và phương pháp ấn định
theo công thức.
3.1Phương pháp giá thị trường:
Hầu hết các nước công nghiệp đều thừa nhận nguyên tắc giá thị trường,
nguyên tắc (ALP) này được đưa ra trong mục 482 Luật thuế về vấn đề chuyển giá
của Mỹ và trong các hướng dẫn của OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế).
Do tính chất khách quan của nguyên tắc ALP là phản ánh đúng bản chất thị trường,
quy luật thị trường, quy luật cung cầu hàng hóa dịch vụ và qui luật cạnh tranh của
thị trường nên nó gần như được chấp nhận toàn cầu.

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 3/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Các phương pháp hiện hành được áp dụng trong nguyên tắc ALP cho việc
chuyển giao tài sản có thể được chia thành 2 phương pháp: phương pháp dựa trên

giao dịch và phương pháp dựa trên lợi nhuận. Phương pháp giao dịch thường được
các cơ quan thuế ưa chuộng hơn vì các phương pháp này xác định chuyển giá bằng
cách tham chiếu việc xem xét được thanh toán trong các giao dịch tương tự không
được kiểm soát.
3.1.1 Phương pháp dựa trên giao dịch:
Có ba phương pháp giao dịch truyền thống được quy định trong các quy tắc
chuyển giá ở Mỹ:
- Phương pháp giá tự do có thể so sánh được (Comparable Uncontrolled
Price – CUP) (hoặc trong trường hợp chuyển giao tài sản vô hình, giao dịch tự do
có thể so sánh được - CUT): so sánh giá cả phải trả cho các hàng hoá hoặc dịch vụ
được chuyển giao so sánh giá cả phải trả cho các hàng hoá hoặc dịch vụ được
chuyển giá có kiểm soát với một nghiệp vụ chuyển giao tự do có thể so sánh được.
- Phương pháp chi phí tăng thêm (Cost – Plus): dựa vào giá vốn (hoặc giá
thành) của sản phẩm do doanh nghiệp mua vào từ bên độc lập để xác định giá bán
ra của sản phẩm đó cho bên liên kết. Giá bán ra của sản phẩm bằng giá vốn của sản
phẩm cộng thêm một khoản lợi nhuận hợp lý.
- Phương pháp giá bán lại (Resales Price ): dựa vào giá bán lại (hay giá
bán ra) của sản phẩm do doanh nghiệp bán cho bên độc lập để xác định giá mua
vào của sản phẩm đó từ bên liên kết, được xác định trên cơ sở giá bán ra của sản
phẩm trong các giao dịch độc lập trừ lợi nhuận gộp trừ các chi phí khác được tính
trong giá sản phẩm mua vào (nếu có) (ví dụ: thuế nhập khẩu, phí hải quan, chi phí
bảo hiểm, vận chuyển quốc tế).
Tuy nhiên, những thông tin về các giao dịch tương tự giữa các bên không
liên quan mà các phương pháp này đòi hỏi thường không công bố công khai. Cơ
quan thuế Mỹ đã cố gắng thích ứng với việc thiếu thông tin này bằng cách đưa ra
linh hoạt trong việc xác định tính so sánh có thể chấp nhận được. Ví dụ, các so
sánh nội bộ, đó là so sánh những giao dịch tự do được giữa một trong các bên được
kiểm soát và một bên thứ 3 không liên quan, được ưa chuộng vì chúng thường liên
quan đến hàng hóa, dịch vụ, hoặc tài sản vô hình cho giao dịch đã được kiểm soát.


SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 4/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Nhưng điều kiện để áp dụng các phương pháp này là các giao dịch đem ra so
sánh không có các khác biệt nào trọng yếu ảnh hưởng đáng kể đến giá của sản
phẩm và hàng hoá, dịch vụ. Nếu có sự khác biệt thì sư khác biệt này phải được tính
toán và điều chỉnh cho phù hợp. Thật không may cho những MNC, các cơ quan
thuế thiếu sự thống nhất khi nào điều chỉnh và điều chỉnh như thế nào. Kết quả là,
nhiều MNC không chắc chắn việc sử dụng phương pháp dựa trên giao dịch như thế
nào? Để giảm sức ép lên các công ty đa quốc gia, cơ quan thuế nên điều chỉnh
đồng nhất và công khai về thỏa thuận đa phương về tránh đánh thuế hai lần.
Tòa án thuế cho rằng những so sánh nội bộ hợp lý ngay cả khi những điều
chỉnh đòi hỏi đạt được sự tin cậy nên được tối ưu hóa trong phương pháp dựa trên
lợi nhuận. Ví dụ, trong tập đoàn máy tính Compaq. v . Commissioner, quyết định
của Compaq đã gửi một tín hiệu rõ đến những người nộp thuế và cơ quan thuế rằng
có một sự ưa chuộng phương pháp dựa trên giao dịch hơn là phương pháp dựa trên
lợi nhuận.
3.1.2 Phương pháp dựa trên lợi nhuận
Các phương pháp dựa trên lợi nhuận được cụ thể trong những qui định của
Mỹ có:
- Phương pháp so sánh lợi nhuận (CPM): dựa vào tỷ suất sinh lời của sản
phẩm trong các giao dịch độc lập được chọn để so sánh làm cơ sở xác định tỷ suất
sinh lời của sản phẩm trong giao dịch liên kết khi các giao dịch này có điều kiện
giao dịch tương đương nhau cho dù tiêu chuẩn so sánh của CPM tương đối lỏng
lẻo và có ích cho việc đánh giá thu nhập bằng những hàm thông thường.
- Phương pháp phân chia lợi nhuận: Việc phân chia lợi nhuận thì thích hợp
khi cả hai bên của các giao dịch tự do sở hữu tài sản vô hình có giá trị, và không có
phương pháp dựa trên giao dịch được so sánh nào đáng tin cậy. Những qui định
của Mỹ hướng dẫn hai cách phân chia lợi nhuận. Thứ nhất là phân chia so sánh lợi
nhuận, mà thực chất là dựa trên những giao dịch được so sánh. Thứ hai, là sự phân

chia lợi nhuận còn lại, dựa trên khái niệm của những hàm định giá thông thường,
trừ đi doanh thu thích hợp của những hàm này và phân phối lợi nhuận giữ lại.
Bước thứ nhất phân phối thu nhập liên quan đến mỗi công ty con tương ứng với
các chức năng hoạt động của mình. Bước thứ hai phân phối lợi nhuận còn lại bằng

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 5/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
cách tham chiếu đến những đóng góp liên quan đến tài sản vô hình cho hoạt động
kinh doanh không được tính toán trong bước thứ nhất.
Tóm lại, phương pháp dựa trên giao dịch theo lý thuyết thì tốt hơn phương
pháp dựa trên lợi nhuận trong việc thực thi giá thị trường, chi tiết thông tin về giao
dịch tương đương không phải luôn luôn có sẵn. Trường hợp không có dữ liệu đáng
tin cậy liên quan đến so sánh, hoặc khi việc điều chỉnh không đưa ra được sự so
sánh giữa các giao dịch có kiểm soát và không kiểm soát được, phương pháp giao
dịch không còn khả thi và các phương pháp dựa trên lợi nhuận được cho phép.
3.2Phương pháp ấn định theo công thức:
Mặt khác, phương pháp ấn định theo công thức, trong đó mỗi công ty con
được xem như là một chi nhánh hoặc bộ phận của doanh nghiệp, liên quan đến việc
phân bổ lãi lỗ đơn giản dựa trên các công thức định sẵn mà không tính toán được
những tình huống cụ thể của mỗi MNC. Sự ấn định theo công thức được áp dụng ở
Mỹ liên quan đến việc phân bổ lãi lỗ dựa trên các tỷ lệ tương đối của tài sản, tiền
lương và doanh thu. Tuy nhiên, cách tiếp cận này thường bị chỉ trích bởi vì việc
phân bổ sẽ dựa trên giá trị kinh tế của mỗi công ty con mang lại hơn một công thức
dựa trên sự sắp xếp tài sản, lao động và doanh thu. Những kỹ thuật phân bổ đơn
giản như là sự ấn định theo công thức không tính toán giá trị phân bổ hợp lý cho
những tài sản phi truyền thống như là tài sản vô hình (ví dụ: bí quyết kinh doanh,
quy trình, hoặc các phương pháp độc quyền) hoặc quyền lợi hợp đồng hoặc các rủi
ro kết hợp của cả tài sản truyền thống và phi truyền thống của mỗi doanh nghiệp.
3.3Hạn chế của cơ chế chuyển giá hiện tại

3.3.1 Giá thị trường đối nghịch với sự ấn định theo công thức
Phương pháp chuyển giá cần phản ánh giá trị thực được chuyển từ các bên
liên quan trong quá trình cung cấp hàng hoá, dịch vụ, hoặc chuyển nhượng tài sản
vô hình. Tuy nhiên, phương pháp chuyển giá hiện nay được dựa trên những giả
định về giá trị thường mâu thuẫn với lý thuyết tài chính hiện đại. Bởi vì phương
pháp chuyển giá của Mỹ dựa trên tiêu chuẩn giá thị trường, và hàm ý khái niệm
chủ thể độc lập, phương pháp chuyển giá hiện nay thất bại trong việc tính đến hành
vi của doanh nghiệp. Cụ thể, quy tắc chuyển giá ở Mỹ tính đến lợi nhuận hợp nhất
của các công ty trong cùng tập đoàn.

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 6/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Tiêu chuẩn giá thị trường xem từng đơn vị thành phần kinh doanh của một
nhóm công ty đa quốc gia như một doanh nghiệp (các "mô hình chủ thể riêng
biệt"), việc phân bổ thu nhập dựa trên các giao dịch tương tự giữa các bên không
liên quan. Tuy nhiên, mô hình hành vi dựa trên lý thuyết phát triển vào đầu thế kỷ
XX bởi Leon Walras, không tính đến các động lực của các MNC để sắp xếp các
giao dịch xuyên quốc gia để chuyển lợi nhuận đến nơi chịu thuế thấp nhất.
Hơn nữa, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp tăng cường hình
thành chiến lược liên minh hoặc quan hệ đối tác theo hướng tối đa hóa các lợi ích
kinh tế của tất cả các thành viên. Những chiến lược liên minh này cho phép tất cả
các thành viên gia tăng lợi nhuận mong đợi cũng như giảm rủi ro bằng cách chia sẻ
tổn thất giữa các thành viên.
Các phương pháp được định rõ trong các quy định của Mỹ có thể không nắm
bắt và phân bổ lợi nhuận hợp nhất. Bài viết này tranh luận cho việc sử dụng các
phương pháp định giá thay thế, để nắm bắt và phân bổ chính xác lợi nhuận hợp
nhất, trong trường hợp thiếu các giao dịch tương tự.
Thậm chí việc phân bổ hợp lý rủi ro còn quan trọng hơn việc phân bổ lợi
nhuận hợp nhất. Bởi vì các phương pháp chuyển giá hiện tại dựa trên các giao dịch

tương tự, do đó không đủ cơ sở để phân bổ rủi ro cho các giao dịch liên quan đến
tài sản vô hình. Trước đây, người ta không nghĩ là việc chuyển giao tài sản vô hình
bao gồm yếu tố rủi ro. Bài viết này đề xuất việc sử dụng các mô hình tài chính (ví
dụ: CAPM, lý thuyết chênh lệch giá, vv…) để phân bổ lợi nhuận giữa các bên liên
quan. Việc sử dụng các mô hình như CAPM cho phép lợi nhuận từ tài sản vô hình
được phân bổ dựa trên rủi ro được giả định. Việc phân bổ thu nhập dựa trên những
rủi ro mà mỗi chủ thể phải gánh chịu là phù hợp với lý thuyết kinh tế và hành vi
của doanh nghiệp
3.3.2 Các vấn đề tồn tại khi áp dụng phương pháp dựa trên giao dịch
Giống như bất kỳ mô hình nào, tiêu chuẩn giá thị trường có những hạn chế
khi những giả định cơ bản không phù hợp với những giao dịch đặc thù của công ty
đa quốc gia. Mặc dù tiêu chuẩn giá thị trường là phương pháp phổ biến nhất được
chấp nhận. Quy tắc chuyển giá được sử dụng để mô phỏng hành vi giá thị trường

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 7/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
giữa các bên liên quan bị phá vỡ khi một công ty đa quốc gia hoạt động theo cách
thức hợp nhất để đạt được hiệu quả kinh tế.
Phân tích giá thị trường sẽ cần thiết bỏ qua lợi nhuận hợp nhất trong công ty
đa quốc gia này. Các lợi nhuận này có thể liên quan đến việc giảm chi phí giao
dịch hoặc quá trình quản lý hợp nhất như công tác quản trị, lập ngân sách và lập kế
hoạch. Sự thất bại để đạt được những lợi nhuận hợp nhất này sẽ bóp méo thu nhập,
vì lợi ích cho việc hợp nhất chưa được phân bổ đúng cách.
Có lẽ một vấn đề quan trọng cho hệ thống chuyển giá là việc xác định giá
thích hợp của các tài sản vô hình giữa các bên liên quan. Tài sản vô hình là một
phần gia tăng giá trị của mỗi công ty đa quốc gia. Mô hình hiện tại của các công ty
đa quốc gia không còn là một nhà sản xuất mà còn là một nhà cung cấp các dịch vụ
tích hợp có giá trị cao. Khó có các giao dịch tương tự để xác định giá trị tài sản vô
hình lớn của các công ty đa quốc gia. Cũng giống như CUPs nó ít phát sinh các

điều chỉnh.
Khi việc áp dụng phương pháp CUP không khả thi, các quy định của Mỹ
cung cấp phương pháp giá bán lại và phương pháp chi phí tăng thêm như là một
phương pháp giao dịch thay thế. Các giả định cơ bản khi áp dụng những phương
pháp này là họ chỉ được áp dụng cho các giao dịch được điều chỉnh cho phù hợp và
các giá trị vô hình hoặc nguy cơ làm giảm giao dịch duy nhất là đúng do các bên
không được thử nghiệm. Kết quả là, bên được kiểm tra được giả định là tài sản vô
hình hoặc tài sản duy nhất có giá trị phân biệt so sánh với khả năng không kiểm
soát được.
Giả định này hạn chế đáng kể việc áp dụng phương pháp này cho những chủ
thể có chức năng, rủi ro và tài sản thông thường, sử dụng bên thứ ba tương đương
gần nhất hoặc chủ thể có giao dịch với bên thứ ba. Phương pháp giá bán lại và
phương pháp chi phí tăng thêm thích hợp nhất để áp dụng cho nhà phân phối, nhà
sản xuất, hoặc nhà cung cấp dịch vụ thực hiện chức năng thông thường, chịu rủi ro
thông thường, và sử dụng tài sản có sẵn. Do đó, khi thiếu các giao dịch tương tự
đáng tin cậy cần thiết thì yêu cầu sử dụng phương pháp dựa trên lợi nhuận.
3.3.3 Các vấn đề tồn tại của các phương pháp dựa trên lợi nhuận

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 8/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Quy định chuyển giá tại Mỹ cho phép áp dụng hai phương pháp dựa trên lợi
nhuận: phương pháp phân chia so sánh lợi nhuận và phương pháp phân chia lợi
nhuận còn lại. Tiền đề của những phương pháp này là không đủ cơ sở để phân bổ
lãi lỗ cho các tài sản vô hình quan trọng tự tạo của các công ty đa quốc gia thông
qua hoạt động toàn cầu của họ. Phương pháp phân chia so sánh lợi nhuận dựa trên
các tiêu chuẩn thị trường bên ngoài. Phân bổ lợi nhuận còn lại được mô tả trong
các quy định của Mỹ thì phù hợp với các bên đóng góp tài sản vô hình. Phương
pháp này phân bổ không chính xác trong tình huống mô hình kinh doanh hợp nhất,
nơi mà các đóng góp liên quan đến lợi nhuận có thể tạo ra từ việc đóng góp các

dịch vụ, tài sản, hoặc tài sản vô hình. Ví dụ như nếu lợi nhuận được tạo ra từ dịch
vụ, quy tắc này không đủ cơ sở để phân bổ lợi nhuận từ các dịch vụ đó.
II. LÝ THUYẾT ĐỊNH GIÁ HIỆN ĐẠI VÀ CHUYỂN GIÁ:
Việc áp dụng lý thuyết định giá hiện đại cho các vấn đề chuyển giá liên quan
đến phân bổ lợi nhuận hợp nhất, thu nhập từ tài sản vô hình, và tài sản phi truyền
thống khác, cũng như thu nhập từ việc chấp nhận rủi ro. Thêm vào đó phần này mô
tả:
- Các lý thuyết kinh tế cơ bản nhằm định giá chính xác hơn về giá trị tài
sản doanh nghiệp như: đề xuất của Modigliani – Miller, nguyên tắc kinh doanh
không chênh lệch giá, và lý thuyết mối liên hệ hợp đồng. Nguyên tắc định giá hiện
đại này có thể trợ giúp trong việc giải quyết các hạn chế của tiêu chuẩn giá thị
trường đối với các vấn đề phát sinh tại các công ty đa quốc gia hiện nay;
- Các lý thuyết kinh tế cơ bản hỗ trợ việc phân bổ nguồn thu nhập dựa trên
vốn đầu tư vào một đơn vị kinh doanh và những rủi ro mà nguồn vốn đầu tư đó gặp
phải;
- Các phương pháp định giá tài sản hiện đại và xác định những rủi ro có
liên quan đến đầu tư.
Việc kết hợp và mở rộng của các lý thuyết kinh tế và tài chính hiện đại, hệ
thống chuyển giá phản ánh kết quả của các giao dịch dưới giá trị thực chính xác và
do đó phân bổ thu nhập chính xách hơn.
Để bắt đầu phân tích cách tiếp cận mới này, chúng ta phải bắt đầu với đề
xuất rằng lợi nhuận tích lũy của một công ty đơn giản là lợi nhuận trên vốn đầu tư

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 9/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
của công ty đó. Thu nhập tích lũy của công ty có được từ vốn góp của các cổ đông.
Do đó, thu nhập của các cổ đông chính là lợi nhuận trên vốn.
2.1Lợi nhuận trên vốn là cơ sở cho việc phân bổ thu nhập:
Thu nhập của doanh nghiệp đơn thuần là lợi nhuận trên vốn đầu tư nhưng

đôi khi doanh nghiệp hoạt động bị lỗ nên doanh nghiệp không có lợi nhuận. Lợi
nhuận của tập đoàn được tạo ra từ lợi nhuận tổng hợp của các công ty con. Lợi
nhuận được phân bổ giữa các công ty con theo sự đồng thuận của các thành viên
góp vốn.
Nguyên tắc nền tảng của giá ấn định theo công thức là thu nhập được phân
bổ theo lao động, vốn, và doanh thu, do đó không gần đúng với lợi nhuận trên vốn.
Kết quả của vốn đầu tư là tiêu chí được sử dụng để phân bổ thu nhập giữa
các thành viên của tập đoàn. Các công thức phân bổ áp dụng giữa các bang tại Mỹ
được dựa trên tiền lương, doanh thu, và tài sản hữu hình. Trong đó, tiền lương,
doanh số bán hàng ít có mối quan hệ với vốn cho nên nó ít có mối quan hệ với việc
phân bổ lợi nhuận của công ty.
Công thức phân bổ cũng không tính đến các yếu tố như: tài sản vô hình, bí
quyết kinh doanh, quy trình kinh doanh và rủi ro của lợi nhuận trên vốn. Bằng cách
loại trừ phân tích rủi ro, phương pháp giá ấn định theo công thức thường không
nhắm đến đặc thù của bất kỳ doanh nghiệp cụ thể nào, và do đó không thể phản
ánh các giao dịch dưới giá trị thực của các công ty đa quốc gia.
Tiêu chuẩn giá thị trường hoàn toàn phù hợp cho việc phân bổ vốn giữa các
công ty thành viên trong tập đoàn. Nhiều giao dịch theo giá thị trường sẽ không
được thực hiện giữa các công ty thành viên trong cùng tập đoàn đa quốc gia. Các
công ty đa quốc gia tối đa hóa lợi nhuận bằng cách thực hiện chuyển giá dựa vào
việc phân bổ thu nhập trên vốn của các công ty con.
2.2Đo lường lợi nhuận trên vốn bằng sự phân bổ danh mục đầu tư:
Theo các lý thuyết kinh tế, thu nhập giữa các thành viên trong tập đoàn có
thể được phân bổ dựa trên sự phân bổ danh mục đầu tư.

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 10/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Các công ty đa quốc gia đang nỗ lực nghiên cứu cách thức phân bổ vốn cho
các danh mục đầu tư nhằm tối đa hóa lợi nhuận với giả định lợi nhuận biên có điều

chỉnh rủi ro sẽ bằng lợi nhuận của tất cả các công ty con trong tập đoàn. Dựa vào
vốn đầu tư và mức độ rủi ro của công ty con, công ty mẹ xác định số thu nhập sẽ
được phân bổ cho công ty con đó.
Phần tiếp theo nghiên cứu các phương pháp đang được sử dụng để định giá
tài sản và mức độ rủi ro của việc phân bổ vốn.
2.3Các phương pháp định giá hiện đại
Lý thuyết định giá hiện đại nổi bật nhất là Mô hình định giá tài sản vốn
(CAPM), lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá , lý thuyết định giá quyền chọn và lý
thuyết giá linh hoạt. Tất cả phương pháp này đều phân bổ giá trị dựa trên vốn và
rủi ro. Sự khác nhau cơ bản giữa các lý thuyết này là cách thức đo lường rủi ro.
Nhân tố quan trọng nhất để xác định thu nhập là các khoản đầu tư vốn. Phần này
thảo luận về các phương pháp và phân tích các điểm mạnh, điểm yếu của từng
phương pháp.
Một trong những mô hình cổ điển nhất cho việc định giá là mô hình phương
sai kỳ vọng. Mặc dù mô hình này không đặc biệt hữu ích cho sự phân bổ thu nhập
của các công ty đa quốc gia, tất cả các mô hình được thảo luận trong chủ đề này
đều dựa vào một phần của mô hình phương sai kỳ vọng.
Trong mô hình phương sai kỳ vọng, để định giá các khoản đầu tư, chúng ta
tính giá trị kỳ vọng và hiệp phương sai của lợi nhuận từ tài sản hoặc vốn và xác
định một danh mục tối ưu nhằm tối đa hóa lợi nhuận mong đợi trong khi tối thiểu
hóa rủi ro. Mô hình phương sai kỳ vọng giả định rằng sự phân phối lợi nhuận từ tài
sản xoay quanh giá trị mong đợi được mô tả bởi phân phối chuẩn. Điều này cho
phép phân tích mô hình tập trung vào giá trị mong đợi của lợi nhuận từ tài sản và
sự khác biệt có liên quan đến các khoản lợi nhuận này. Trong mô hình phương sai
kỳ vọng, căn cứ vào lợi nhuận mong đợi và hiệp phương sai của tất cả các tài sản,
có thể thu được một tập hợp các danh mục tối ưu. Danh mục đặc biệt mà nhà đầu
tư lựa chọn sẽ phụ thuộc vào khẩu vị rủi ro của mỗi nhà đầu tư.

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 11/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa

đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Tuy nhiên, mô hình phương sai kỳ vọng có hạn chế riêng của nó, trong mô
hình này, chỉ có các chứng khoán sơ cấp mới có thể được nắm giữ, các chứng
khoán phái sinh không được cho phép. Giả định rằng, lợi nhuận từ tài sản có phân
phối chuẩn chỉ hợp lý trong ngắn hạn. Trong khoảng thời gian này, bất kỳ một xu
hướng đi lên dài hạn nào về giá trị của các chứng khoán sơ cấp như cổ phiếu đều bị
ảnh hưởng bởi biến động giá. Nếu xem xét lợi nhuận trên tài sản trong thời gian
dài hơn thì việc phân bổ lợi nhuận sẽ không theo phân phối chuẩn.
Mô hình phương sai kỳ vọng cũng có những hạn chế vì nó bao gồm những
giả định xa rời giá trị thực của thị trường vốn. Ngoài giả định lợi nhuận có phân
phối chuẩn, mô hình còn giả định chỉ có duy nhất một nhà đầu tư trên thị trường.
Tuy nhiên, các mô hình định giá khác hữu ích hơn được phát triển từ mô hình này
bằng cách đưa ra các giả định thực tế hơn như: CAPM, lý thuyết định giá quyền
chọn, lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá và lý thuyết giá cả linh hoạt.
2.3.1 Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)
a. CAPM với những kỳ vọng thuần nhất:
Mô hình này có giả định rằng các nhà đầu tư có ưa thích đầu tư phụ thuộc
vào lợi nhuận mong đợi và sự biến động của tài sản, có cùng niềm tin về lợi nhuận
trung bình và hiệp phương sai của các khoản đầu tư tiềm năng, đó là kỳ vọng thuần
nhất. Về mặt lý thuyết, CAPM là mô hình hữu ích cho việc tính toán lợi nhuận trên
vốn, được sử dụng để tính các rủi ro vốn có trong tài sản hoặc tài sản trong một
danh mục đầu tư đưa ra.
Giả định rằng các nhà đầu tư phân bổ vốn để tối đa hóa lợi nhuận đã điều
chỉnh rủi ro của họ, họ sẽ đánh giá tài sản dựa trên CAPM. Theo CAPM, lợi nhuận
mong đợi của bất kỳ chứng khoán nào bằng tỷ suất sinh lợi phi rủi ro cộng với bê
ta lần phần chênh lệch giữa độ an toàn và rủi ro (phần bù rủi ro) từ việc đầu tư trên
danh mục thị trường, công thức:
Ra = Ro + βa(Rm – Ro)
Trong đó: β là hiệp phương sai giữa lợi nhuận tài sản và lợi nhuận thị
trường và phần chênh lệch rủi ro của thị trường là tổng lợi nhuận trên thị

trường trừ đi tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 12/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Ra là tổng lợi nhuận mong đợi trên tài sản
Ro là lợi nhuận phi rủi ro
Rm là lợi nhuận thị trường mong đợi
Mô hình này phân chia lợi nhuận trên tài sản thành lợi nhuận phi rủi ro và
lợi nhuận có rủi ro. Tuy nhiên, sự phân bổ lợi nhuận có thể khác nhau nếu rủi ro
của các hoạt động trong đó các tài sản sử dụng là khác nhau. Theo CAPM, tỷ suất
sinh lợi phi rủi ro sẽ là như nhau đối với tất cả tài sản nhưng tỷ suất sinh lợi dựa
vào rủi ro sẽ khác nhau.
Lợi nhuận của một tài sản sẽ không phụ thuộc vào phương sai riêng của nó,
nhưng sẽ khá phụ thuộc vào hiệp phương sai của nó với thị trường. Rủi ro duy nhất
tác động đến giá cả của một tài sản là rủi ro hệ thống. Bởi vì, các rủi ro không hệ
thống khác có thể được đa dạng hóa đi, chúng không ảnh hưởng đến giá tài sản.
Nếu tất cả nhà đầu tư đều đồng ý những rủi ro và lợi nhuận mong đợi của tất cả tài
sản, thì họ sẽ đồng ý phân bổ tương đối về vốn giữa các tài sản rủi ro. Ở trạng thái
cân bằng, sự phân bổ này là giống nhau như phân bổ vốn trên thị trường (thường
được gọi là danh mục đầu tư thị trường) bởi vì, nếu không thì cung và cầu đối với
tài sản đầu tư sẽ không bằng nhau dẫn đến không thể đạt được trạng thái cân bằng.
b. Lý thuyết CAPM với những kỳ vọng không thuần nhất
Thực tế các nhà đầu tư cũng khác nhau về kỳ vọng và phương sai của tài sản
trên thị trường nên khi thêm nhân tố những kỳ vọng không thuần nhất vào thì mô
hình CAPM trở nên phức tạp hơn. Ngoài ra, do việc tính giá của quyền chọn trong
mô hình CAPM với những kỳ vọng không thuần nhất dễ hơn so với mô hình
phương sai kỳ vọng hay CAPM với kỳ vọng thuần nhất nên việc thêm kỳ vọng
không thuần nhất vào mô hình cũng cho phép các nhà đầu tư nắm giữ không chỉ
chứng khoán sơ cấp (ví dụ như cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa,…) mà còn là chứng

khoán phái sinh. Nếu mỗi nhà đầu tư có sự phân bổ xác suất theo quan điểm chủ
quan hay hàm thỏa dụng của riêng mình và được phép giao dịch cả chứng khoán sơ
cấp và chứng khoán phái sinh thì trong trạng thái cân bằng, mỗi người sẽ nắm giữ
một danh mục chứng khoán khác nhau và công thức CAPM áp dụng cho danh mục
chứng khoán sơ cấp của mỗi cá nhân dựa trên xác suất chủ quan của họ.

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 13/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Mặc dù mô hình này xuất hiện phù hợp khá nhiều với hành vi của nhà đầu tư
nhưng rất khó để xác định tính chính xác của mô hình. Đối với bất kỳ danh mục
nào được nắm giữ bởi nhà đầu tư cá nhân, rất khó để tách riêng lợi nhuận kỳ vọng
của thị trường ra khỏi chi phí rủi ro và điều này cũng đúng cho toàn thị trường. Kết
quả là CAPM dự báo tốt hành vi của nhà đầu tư.
Một trong những tranh luận nhiều nhất về CAPM là nó chỉ dựa trên giả định
phù hợp với hành vi hợp lý của nhà đầu tư. Nó giả định rằng các nhà đầu tư muốn
giảm bớt rủi ro và kiếm thu nhập cao hơn. Nếu những giả định về mô hình chính
xác thì nó cần mô tả giá của tài sản do thị trường quyết định. Ngay cả khi vẫn tồn
tại những vấn đề tiềm ẩn, CAPM là một phương pháp được sử dụng nhiều nhất để
định giá tài sản tài chính.
2.3.2 Lý thuyết định giá quyền chọn:
Như được mô tả ở trên, mô hình CAPM với những kỳ vọng không thuần
nhất đã không thực sự tính đến các chứng khoán phái sinh như các quyền chọn
một cách đặc biệt. Để trả lời cho vấn đề này, Fischer Black, Myron Scholes và
Robert Merton đã phát triển một lý thuyết cho việc định giá các quyền chọn dựa
trên ý tưởng rằng trong một thị trường hiệu quả nó không nên để cho ai đó có thể
kiếm lợi nhuận mà không cần gánh chịu một rủi ro tương xứng. Điều này thường
được gọi là nguyên tắc kinh doanh không chênh lệch giá. Black và Scholes cho
rằng các điều kiện không chênh lệch giá phải tồn tại giữa giá của một cổ phiếu,
quyền chọn mua cổ phiếu, và một trái phiếu phi rủi ro là nguyên nhân khiến cho

giá của ba tài sản sẽ tương quan với nhau trong một cách thức dự đoán.
Mô hình Black-Scholes có thể được sử dụng để tính toán các giá trị quyền
chọn từ giá trị của chứng khoán sơ cấp. Ngoài ra, nó còn có thể được dùng để tính
toán các tham số trong các mô hình khác, như hệ số betas trong mô hình CAPM.
Các phiên bản nâng cao của mô hình Black-Scholes đã được phát triển để tính toán
các loại chứng khoán đặc biệt với các tham số rủi ro khác thường. Trong khi các
mô hình này có thể có một mức độ phức tạp cao hơn mô hình Scholes đơn giản,
chúng đều bắt nguồn từ lý thuyết cơ bản giống nhau.
2.3.3 Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá:

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 14/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá được mở rộng dưới góc nhìn khác về
nguyên tắc không chênh lệch. Stephen Ross nhận xét rằng, nếu nguyên tắc không
chênh lệch được áp dụng, nhà đầu tư không cần phải tính hiệp phương sai của tất
cả các tài sản với tất cả các tài sản khác để nhận biết được giá một tài sản riêng biệt
nào đó. Ví dụ, để biết giá cổ phiếu của Exxon, nhà đầu tư không cần phải tính
phương sai của cổ phiếu Exxon với mỗi chứng khoán được mua bán trên các thị
trường trên thế giới. Những hành vi có hệ thống đối với lợi nhuận từ tài sản có thể
giải thích được bằng một số lượng tương đối nhỏ của các yếu tố, nó kết hợp các sự
kiện kinh tế vĩ mô cũng như các sự kiện đặc biệt của ngành.
Ross cho rằng phần lớn giá tài sản biến động cùng với nhau, hay nói cách
khác có một hiệp phương sai cao giữa các giá tài sản. Từ đó, ông lập luận rằng các
nhà đầu tư có thể tính lợi nhuận chỉ từ một vài yếu tố thông thường. Ví dụ, nếu chỉ
có hai yếu tố, mô hình sẽ là:
Ra = b0a + b1af1 + b2af2 + εa với a = 1, , A
Trong đó:
- Ra là lợi nhuận trên tài sản;
- fn là những yếu tố kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh

tế;
- bns là các hệ số khác nhau - nói lên mức độ mà giá của tài sản có
liên quan với một yếu tố;
- εa là yếu tố rủi ro đặc biệt.
Mô hình này giả định rằng các yếu tố trong phương trình là độc lập với
nhau. Đây là một mô hình đa biến của CAPM.
Rõ ràng, điểm mấu chốt của lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá là việc lựa
chọn các yếu tố thích hợp. Đối với mỗi loại tài sản khác nhau thì nhà đầu tư có thể
chọn lựa các yếu tố khác nhau.
2.3.4 Lý thuyết định giá tài sản linh hoạt:
Tất cả các lý thuyết trên đây dựa trên một mô hình hai thời kỳ đơn. Trong
các mô hình này, nhà đầu tư quyết định đầu tư trong thời kỳ tiếp theo, lợi ích sau
cùng của việc đầu tư được xác định. Ít nhất ban đầu, nó dường như không thay thế
các mô hình này từ một nền kinh tế hai thời kỳ đến một nền kinh tế n thời kỳ hoặc
thậm chí một nền kinh tế với thời gian liên tục sẽ đòi hỏi bất kỳ giả định mới một

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 15/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
cách cơ bản. Nguyên tắc không chênh lệch giá cùng với các giả định khả năng
phương sai kỳ vọng vẫn sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, các mô hình không hỗ trợ
phân tích này. Trước hết, mô hình CAPM không hiệu quả trong bối cảnh nhiều giai
đoạn vì nhà đầu tư sẽ phải cân bằng lại danh mục đầu tư của mình sau mỗi thời kỳ
mà nó cơ bản làm thay đổi các giả định ban đầu về điểm cân bằng. Thứ hai, mô
hình Black-Scholes, là một mô hình thời gian liên tục, không kết hợp với các kỳ
vọng không thuần nhất.
Mô hình lý thuyết định giá linh hoạt nỗ lực để giải quyết việc đầu tư trong
nhiều thời kỳ bởi sử dụng những kỹ thuật toán học phức tạp. Hơn nữa, các mô hình
nhiều thời kỳ đặt ra nhiều câu hỏi mới như: bằng cách nào mà các nhà đầu tư cập
nhật những kỳ vọng của họ khi thông tin mới được công bố. Vấn đề cơ bản với giá

cả tài sản linh hoạt là trong tương lai sẽ ước tính giá trị thêm vào, một lượng lớn độ
bất ổn tiềm năng sẽ phát sinh. Khi nhà đầu tư nhìn xa hơn về tương lai, càng có
nhiều sự kiện bất khả kháng có thể xảy ra, bao gồm cả những sự kiện hoàn toàn
thay đổi mô hình mà các khoản đầu tư có giá trị.
III. ÁP DỤNG KỸ THUẬT ĐỊNH GIÁ HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI VIỆC
CHUYỂN GIÁ
Như đã phân tích, các phương pháp chuyển giá hiện tại không xác định đầy
đủ lợi nhuận hợp nhất cũng như không phân bổ đầy đủ thu nhập có rủi ro của các
công ty đa quốc gia. Vì vậy, bài nghiên cứu đề xuất áp dụng các kỹ thuật định giá
được mô tả ở trên để xác định số thu nhập có thể phân bổ cho các thành viên của
tập đoàn. Theo đó, thu nhập sẽ được phân bổ dựa trên giá trị của tài sản thuộc sở
hữu của công ty con và các rủi ro mà các tài sản này phải gánh chịu.
Vì luồng hàng hóa và dịch vụ trong các công ty đa quốc gia ngày càng trở
nên phức tạp hơn, nên các phương thức giao dịch khó áp dụng hơn. Vì vậy cần một
cách tiếp cận mới cho việc phân bổ thu nhập trong một công ty đa quốc gia.
Rõ ràng là phương pháp dựa trên phần đóng góp của các thành viên vào tổng
lợi nhuận của tập đoàn là cách tiếp cận hợp lý nhất. Nếu chúng ta giả định rằng
mỗi tập đoàn phân bổ vốn theo hướng tối đa hoá lợi nhuận, tương tự như cách các

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 16/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
nhà đầu tư phân bổ vốn để tối đa hoá lợi nhuận, chúng ta có thể áp dụng các
phương pháp định giá hiện đại để phân bổ thu nhập cho từng thành viên.
3.1 Phân bổ lợi nhuận hợp nhất: Lựa chọn phương pháp tốt nhất:
Mặc dù phương pháp dựa trên giao dịch - tiền đề của các quy luật chuyển
giá hiện tại - khá toàn diện và cụ thể, nhưng vẫn chưa đủ cơ sở để phân bổ thu
nhập của các công ty đa quốc gia hoạt động theo cách thức hợp nhất. Chúng dựa
trên quan điểm không phù hợp với cách các doanh nghiệp hiện đại đang áp dụng.
Nếu xem xét các thực thể như là một thể tổng hợp - phù hợp với thực tiễn

kinh doanh hiện đại - chúng ta áp dụng phương pháp phân bổ thu nhập dựa trên
phần đóng góp của các thành viên vào thu nhập cũng như tổn thất của tổng thể.
Phần này làm rõ thêm hệ thống công thức phân bổ. Tuy nhiên, phương pháp này
còn nhiều hạn chế trong cách phân bổ thu nhập và bỏ qua các yếu tố như rủi ro và
vốn thuộc sở hữu của các thành viên.
Về mặt lý thuyết, cách tốt nhất tiếp cận vấn đề lợi nhuận hợp nhất là phương
pháp chuyển giá mà phân bổ thu nhập dựa trên tài sản của tập đoàn. Nếu giao dịch
giữa các bên liên quan không xảy ra, thì rất khó để phân bổ lợi nhuận dựa trên giá
thị trường. Mặc khác, nếu chúng ta quan niệm doanh nghiệp phân bổ vốn theo cách
mà các nhà đầu tư phân bổ vốn nhằm tối đa hoá lợi nhuận, lợi nhuận hợp nhất sẽ
được phân chia giữa các thành viên trong tập đoàn dựa trên việc phân chia vốn và
rủi ro phân chia. Đây là cách tiếp cận hợp lý nhất, giả định không có bên nào có
đặc quyền lớn hơn và thu nhập được phân bổ trên tỷ lệ đóng góp của các thành
viên.
3.1.1. Các vấn đề chung:
Thực tế không có phương pháp duy nhất nào áp dụng hoàn hảo cho tất cả
các tình huống. Vì vậy, cần cẩn thận khi lựa chọn phương pháp tốt nhất áp dụng
cho từng tình huống.
Căn cứ vào phần đóng góp của các thành viên vào thu nhập của tập đoàn,
việc phân bổ thu nhập trở nên dễ dàng hơn. Đầu tiên, nó không chờ sự thống nhất
của các thành viên trong việc phân bổ rủi ro. Nếu không có những thỏa thuận
tương tự, hoặc các thành viên tuân thủ các thoả thuận, bộ phận phân phối doanh

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 17/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
thu nội bộ nên tiến hành một cuộc điều tra thực tế các thành viên nào gây ra rủi ro
(ví dụ như cách phân bổ vốn sẽ được thay đổi nếu có một sự tổn thất trong kinh
doanh)
3.1.2. Áp dụng mô hình cho vấn đề có liên quan đến giá:

Một số phương pháp định giá có thể được áp dụng để phân bổ thu nhập giữa
các thành viên. Mỗi phương pháp điều có những điểm mạnh và điểm yếu
riêng. Trong phần này chúng ta sẽ thảo luận từng phương pháp và cách áp dụng để
phân bổ thu nhập giữa các thành viên.
a. Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)
Tất cả các quyết định tài chính liên quan đến việc xem xét các rủi ro và lợi
nhuận. Thu nhập của một công ty là lợi nhuận trên tài sản chủ sở hữu dựa trên
những rủi ro doanh nghiệp gánh chịu. Do đó, có thể phân bổ lãi lỗ của một tập
đoàn đa quốc gia cho các thành viên dựa trên tỷ suất sinh lợi mong đợi hoặc tài sản
mà các thành viên đang nắm giữ. Nếu hai tài sản có cùng tỷ suất sinh lợi mong đợi
nhưng rủi ro khác nhau, các tài sản rủi ro thấp hơn sẽ có lợi nhuận mong đợi thấp
hơn so với tài sản rủi ro cao hơn cùng giá trị. Do đó, việc phân tích rủi ro là rất cần
thiết để xác định tỷ suất sinh lợi trên tài sản.
Trong việc phân bổ thu nhập, lợi thế của CAPM là nó phân bổ thu nhập cho
tài sản riêng theo tỷ suất sinh lợi trên tài sản bất chấp mô hình tổ chức của công ty
đa quốc gia. Như vậy, CAPM là cách phù hợp nhất để phân bổ lợi nhuận của các
công ty đa quốc gia hoạt động theo cách hợp nhất.
Trong phân bổ tỷ lệ lợi nhuận phi rủi ro giữa các công ty thành viên, yếu tố
quan trọng là tỷ lệ vốn góp vào doanh nghiệp. Tỷ lệ lợi nhuận phi rủi ro sẽ không
khác nhau trong nhóm và sẽ không phụ thuộc vào hoạt động mà trong đó tài sản
được sử dụng. Để phân bổ tỷ lệ lợi nhuận phi rủi ro, người ta chỉ nhìn vào tổng tài
sản của tập đoàn, xác định tỷ lệ lợi nhuận phi rủi ro, và phân bổ lợi nhuận này đến
mỗi đơn vị kinh doanh dựa trên quyền sở hữu tài sản.
Ngoài lợi nhuận phi rủi ro còn lợi nhuận có rủi ro. Lợi nhuận này nên được
phân bổ dựa trên hoạt động của từng thành viên và những rủi ro vốn có trong các
hoạt động đó. Những rủi ro này có thể được đo lường một phần bằng sự biến động
của các doanh thu từ các hoạt động này.

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 18/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa

đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Theo nguyên tắc giá thị trường, rủi ro phân bổ cho các thành viên cụ thể
chịu rủi ro đó. Những rủi ro này bao gồm cả rủi ro tiền tệ cũng như các rủi ro kinh
doanh. Khi xem xét những rủi ro này là rủi ro hệ thống và phân bổ dựa trên tài sản
bỏ qua khái niệm chủ thể độc lập cho các lợi nhuận có rủi ro, phần quan trọng nhất
của tổng lợi nhuận. Do đó, phân bổ rủi ro từ hoạt động tại một khu vực cụ thể đến
các thành viên hoạt động trong khu vực đó là rất quan trọng. Rủi ro quốc gia nên
được bao gồm trong việc xác định rủi ro có liên quan đến hoạt động của công ty đa
quốc gia trong một khu vực đó.
CAPM đo lường rủi ro (đại diện bởi một hệ số beta duy nhất) bằng cách
hiệp phương sai của lợi nhuận trên tài sản với thị trường vốn. Việc đo lường rủi ro
của mô hình CAPM chính xác hơn khi "thị trường vốn" trở nên rộng lớn hơn. Ví
dụ, nếu các thị trường vốn bao gồm các thị trường bất động sản, vàng, trái phiếu,
và các kim loại quý, ngoài thị trường cổ phiếu của các công ty nội địa, việc đo
lường rủi ro sẽ chính xác hơn. CAPM được sử dụng tốt nhất tại các tập đoàn mà có
công ty mẹ là công ty đại chúng hoặc lợi nhuận trên cổ phiếu của công ty mẹ có
một hiệp phương sai lớn với thị trường. Trong trường hợp này, hệ số beta sẽ tách
thành các bêta cho từng đơn vị thành viên.
b. Lý thuyết định giá quyền chọn:
Lý thuyết định giá quyền chọn đo lường rủi ro của một quyền chọn bằng
cách tách bất kỳ tài sản nào thành quyền chọn kèm theo. Hiện nay, lý thuyết định
giá quyền chọn được sử dụng bởi IRS để đo lường giá quyền chọn cổ phiếu ưu đãi
(compensatory stock option) vì mục đích chia sẻ chi phí. Lý thuyết này được áp
dụng tốt nhất cho các tập đoàn có các công ty thành viên có đòn bẩy cao. Nếu công
ty có đòn bẩy cao, giá trị công ty thể hiện bởi vốn cổ phần trở thành một quyền
chọn mua hiệu quả. Khi công ty có tỷ lệ nợ lớn, nhà đầu tư sẽ nhận được toàn bộ
các giá trị tăng thêm nhưng chỉ mất hạn chế phần vốn họ đầu tư. Trong trường hợp
này, vốn cổ phần trong các công ty này sẽ được định giá tốt nhất như là một quyền
chọn mua hơn là kỹ thuật định giá truyền thống.
Lý thuyết định giá quyền chọn cũng rất hữu ích cho việc định giá vốn cổ

phần các doanh nghiệp đang gặp khó khăn. Mặc dù công ty được xem là khó khăn

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 19/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
tài chính, nhưng không có nghĩa vốn chủ sở hữu không có giá trị. Vốn chủ sở hữu
ở các doanh nghiệp khó khăn có thể được mô tả như một quyền chọn mua.
c. Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá:
Việc áp dụng lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá có nhiều phương diện
giống với mô hình CAPM. Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá tổng quát hơn (đa
nhân tố), có thể áp dụng trong nhiều tình huống khó tìm được hệ số beta cho mô
hình CAPM. Các phiên bản khác nhau của mô hình này được sử dụng trong nhiều
trường hợp khác nhau. Những nhân tố khác nhau được áp dụng cho các loại hình
doanh nghiệp khác nhau. Mô hình APT cũng được áp dụng trong việc phân bổ thu
nhập trong tập đoàn khi không có công ty thành viên nào được niêm yết hoặc
những công ty thành viên chịu rủi ro cao riêng biệt.
d. Các phương pháp bổ sung (khác):
Các phương pháp định giá ở trên là những mô hình định giá nổi bật và tiên
tiến nhất với nhiều kết quả đáng kể. Các mô hình định giá mới luôn được phát
triển. Khi những mô hình này được phát triển và bắt đầu có được độ tin cậy là có
khả năng áp dụng phương pháp mới này. Ví dụ về một loại mô hình nổi tiếng là lý
thuyết định giá tài sản linh hoạt. Như đã thảo luận ở trên, nó vẫn chưa đạt được sự
ổn định mà người ta hy vọng cho một cơ sở cho hệ thống thuế, nhưng nếu nó phát
triển xa hơn, nó sẽ là một mô hình định giá tốt hơn bất kỳ mô hình nào nêu trên.
Tuy nhiên, khi mô hình định giá tài sản linh hoạt được phát triển tốt hơn, có thể
được vận dụng vào vấn đề chuyển giá. Trong đó, những lý thuyết định giá linh
hoạt được áp dụng vào các doanh nghiệp có mức độ biến động giá trị lớn và đòi
hỏi áp dụng mô hình toán học phức tạp.
e. Lựa chọn phương pháp
Mỗi phương pháp có vẻ phù hợp với tài sản này nhưng không phù hợp với

tài sản khác. Ví dụ, tài sản tương tự như tài sản được giao dịch công khai thì áp
dụng mô hình CAPM. Tài sản tương tự một quyền chọn, áp dụng lý thuyết định giá
quyền chọn. Tài sản ít cạnh tranh trong thị trường tương đối hạn chế, lý thuyết kinh
doanh chênh lệch giá thích hợp hơn. Ví dụ, nếu giá tài sản thay đổi đáng kể so với
chỉ số GDP (như giá trị công ty xây dựng), rõ ràng là các phương pháp định giá có

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 20/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
ưu thế đáng kể so với việc ấn định theo công thức. Chúng ta có cảm giác hai
phương pháp có ý nghĩa như nhau. Cả hai phương pháp cho thấy việc để áp dụng
tiêu chuẩn giá thị trường vào tình huống có thể không phát sinh giữa các bên
không liên quan, không phải là cách tốt để thực hiện một hệ thống định chuyển giá.
Tuy nhiên, việc áp dụng lý thuyết định giá gần với thực tế kinh tế hơn là phân bổ
dựa trên bố trí lao động, doanh số … Hơn nữa, nếu một trong các yếu tố trong
công thức là giá trị của tài sản, thì công thức phân bổ tương đương với các phương
pháp định giá này, đặc biệt khi định giá tài sản vô hình trong một khu vực cụ thể.
3.1.3. Mô hình định giá vấn đề tương lai:
Một vấn đề tiềm ẩn trong các phương pháp được đề xuất là các phương pháp
định giá tài sản này dựa trên sự tính toán trước những gì sẽ xảy ra, trong khi thu
nhập tính thuế gần như được xác định bởi sự tính toán dữ liệu quá khứ. Người ta
cho rằng một sự tính toán trước những gì sẽ xảy ra là không công bằng vì nó có thể
làm cho một thành viên cụ thể phải chịu một khoản lỗ ngay cả khi toàn bộ tập đoàn
có thu nhập ròng. Do đó, thu nhập có thể được phân bổ cho một thành viên thực sự
đã có lỗ ròng trong năm. Vì vậy, những phương pháp này có thể mang lại kết quả
không chính xác.
Để giải quyết các vấn đề chưa xảy ra chúng ta nên sử dụng lợi nhuận kỳ
vọng như phương pháp mặc định, giả định lãi lỗ được phân bổ dựa trên lợi nhuận
kỳ vọng. Tuy nhiên, nếu người nộp thuế cho rằng sự phân bổ này không đúng, họ
có nghĩa vụ chứng minh rằng sự phân bổ này là sai và đề xuất một phương pháp

khác. Điều này sẽ hiếm khi xảy ra vì những phương pháp này chỉ áp dụng cho
những trường hợp mà phương pháp chuyển giá không mang lại kết quả đáng tin
cậy.
Hơn nữa, phương pháp dự báo gần như đưa ra giá trị chính xác. Vì tất cả các
quyết định đầu tư thực hiện trên cơ sở dự đoán trước những gì sẽ xảy ra (nghĩa là
chúng ta phải quyết định nơi chúng ta sẽ đầu tư tiền trước khi bạn biết thu nhập
nhận được là gì) và phương pháp định giá chính xác dựa trên cơ sở dự đoán các
vấn đề xảy ra sẽ có ít biến dạng đầu tư. Ngoài ra, đối với các tập đoàn đa quốc gia
lớn hoạt động ở nhiều nước, thuế suất trung bình sẽ gần thuế suất trên toàn thế
giới.

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 21/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Quan trọng là tổng thu nhập của tập đoàn được tính toán trên cơ sở những gì
đã xảy ra. Việc phân bổ thu nhập giữa các thành viên là chỉ dựa trên lợi nhuận kỳ
vọng từ phần vốn đã đầu tư vào các thành viên khác nhau.
3.2 Phân bổ lợi nhuận ròng:
Khi chúng ta sử dụng mô hình xác định giá trị doanh nghiệp để phân bổ lợi
nhuận dựa trên thu nhập xuất phát từ tài sản nào thuộc thành viên nào, sẽ gặp vấn
đề khó định giá và phân bổ tài sản vô hình.
Trong khi đa số các thử nghiệm của các phương pháp định giá khác nhau có
liên quan đến tài sản giao dịch công khai, thường giả định sau những phương pháp
này là chỉ nên được áp dụng với tài sản không được giao dịch công khai.
Yếu tố chính khi áp dụng CAPM là tỷ suất sinh lợi từ tài sản có tương quan
với thị trường. Trong khi điều này phức tạp hơn đối với tài sản không giao dịch
công khai hơn là đối với tài sản giao dịch công khai, do đó phân tích trên khó có
thể đạt được độ chính xác hợp lý bằng cách phân tích độ biến động tỷ suất sinh lợi
từ một tài sản vô hình hoặc một nhóm tài sản. Điều này liên quan đến sự phân tích
gồm hai bước:

- Khảo sát sự tương quan của tỷ suất sinh lợi của một thành viên so với tỷ
suất sinh lợi của toàn tập đoàn.
- So sánh sự tương quan của tỷ suất sinh lợi của tập đoàn với tỷ suất sinh lợi
của toàn bộ thị trường.
Tỷ suất sinh lợi từ một tài sản vô hình được sử dụng hoặc được bán bởi một
thành viên sẽ được đo lường dựa vào điều kiện β của thành viên. Ví dụ, để xác
định tỷ lệ bản quyền về thương hiệu, người ta sẽ kiểm tra sự biến động về tỷ suất
sinh lợi của sản phẩm khi có thương hiệu.
3.3 Đa dạng hóa rủi ro và phân bổ các khoản lỗ:
Tất cả các mô hình đều phân chia lợi nhuận thành: lợi nhuận rủi ro và lợi
nhuận phi rủi ro. Việc tính toán tỷ suất sinh lợi rủi ro dựa trên sự biến động của các
đơn vị kinh doanh khác nhau. Phương pháp tiếp cận tinh vi này cùng với các công

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 22/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
cụ phân tích cho thấy rằng quá trình kinh doanh ảnh hưởng tới rủi ro của những tài
sản nêu trên. Những tài sản có rủi ro càng lớn có tỷ suất sinh lợi càng cao.
Ví dụ, hàng tồn kho của nhà phân phối không phải chịu nhiều rủi ro như
hàng trong tay những nhà bán lẻ địa phương. Một khi tài sản đã tới thị trường nội
địa thì có rủi ro cao hơn bởi vì có những rủi ro riêng biệt của thị trường nội địa
trong khi nhà phân phối thì có thể đa dạng hóa rủi ro trên nhiều thị trường. Những
tài sản này có thể chứa đựng những rủi ro riêng đồng thời chịu những rủi ro mang
tính hệ thống. Trong khi người ta không thể đa dạng hóa những rủi ro hệ thống, đa
dạng hóa tài sản sẽ giảm những rủi ro riêng. Vì thế, với sự đa dạng hóa cao trong
tài sản hàng tồn kho của nhà phân phối sẽ nhận lợi nhuận thấp hơn so với một nhà
bán lẻ. Điều này là một ví dụ cho thấy qui trình kinh doanh ảnh hưởng tới lợi
nhuận và rủi ro như thế nào.
Theo những quy định hiện hành của Mỹ, lợi nhuận phân chia còn lại có thể
được coi như là “thu nhập hệ thống”, bởi vì nó có thể phân bổ nhiều hơn lợi nhuận

và lỗ cho các cổ phiếu của doanh nghiệp. Ví dụ, nếu có một doanh nghiệp hoạt
động lỗ và được sở hữu bởi bên thứ ba không liên quan, phương pháp chia nhỏ lợi
nhuận còn lại của doanh nghiệp như sẽ tạo ra lợi nhuận nếu như tập đoàn tạo ra lợi
nhuận. Phương pháp phân chia lợi nhuận chỉ mang tính chất lý thuyết, bởi khi áp
dụng hệ thống phân chia lợi nhuận và lỗ này sẽ không tạo ra hệ thống thu nhập.
IV. KẾT LUẬN
Nếu một hệ thống chuyển giá hoạt động một cách chính xác nó phải phản
ánh chính xác sự ảnh hưởng qua lại giữa các công ty con. Phương pháp chuyển giá
đã được đề xuất và thông qua cho đến nay đã được sử dụng quá đơn giản cho các
mô hình hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi đó những mô hình đơn giản này
không thực hiện tốt việc phân bổ lợi nhuận trong quá khứ, sự gia tăng độ phức tạp
của những tập đoàn đa quốc gia làm cho chúng ta phải kiểm chứng lần nữa đối với
phương pháp chuyển giá.
Bằng cách kết hợp chặt chẽ các thuyết kinh tế vào việc phân tích, tác giả có
thể nhận ra phương pháp chuyển giá phản ánh một cách chính xác hơn những giao
dịch dưới giá trị thực của nền kinh tế.
Bài viết này đã kết hợp chặt chẽ những chuẩn mực của tài chính hiện đại và
thuyết định giá thành những quy tắc chuyển giá. Đặc biệt, nó gây ra tranh cãi về

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 23/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
vấn đề phân bổ thu nhập giữa những thành viên của một hệ thống tập đoàn đa quốc
gia dựa trên những quy tắc giống nhau phân bổ danh mục đầu tư dưới giá. Sự gia
tăng này chỉ yêu cầu chúng ta giả định rằng những doanh nghiệp đa quốc gia đang
dự định tối đa hóa lợi nhuận của tổ chức cũng như của cả hệ thống hơn là đang tối
đa lợi nhuận của từng thành viên. Bởi vì vấn đề phân bổ danh mục đầu tư đang
được nghiên cứu sâu, tất cả những lý thuyết của bài viết này phân tích việc chuyển
giá có thể làm gia tăng một cách đáng kể sự phức tạp trong việc phân tích lẫn tính
chính xác của kết quả phân bổ lợi nhuận.

Bài viết này chỉ ra cách chúng ta có thể kết hợp những ưu điểm mới nhất
trong thuyết định giá thành những nguyên tắc chuyển giá. Khi những hiểu biết
phân bổ danh mục đầu tư của chúng ta ngày càng phát triển, khi đo chúng ta nên
kết hợp những thành tựu đó vào hệ thống chuyển giá của chúng ta tốt hơn.
V. LIÊN HỆ THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM
1. Môi trường pháp lý và tình hình thu hút vốn FDI:
Pháp luật về kiểm soát chuyển giá tại Việt Nam vẫn đang trong lộ trình hoàn
thiện, cụ thể: Chính phủ đã ban hành những quy định khá sát với các thông lệ về
chống chuyển giá của tổ chức Hợp Tác Kinh Tế và Phát Triển (OECD) đang được
nhiều nước trên thế giới áp dụng. Những quy định này dựa trên nguyên tắc giá thị
trường (ALP) và các phương pháp định giá chuyển giao mà tổ chức OECD đưa ra.
Tuy đã có lộ trình mở cửa kinh tế sớm, nhưng pháp luật của Việt Nam đến
năm 2005 mới bắt đầu có những quy định về vấn đề chuyển giá. Năm 2005 là năm
đánh dấu cho bước chuyển biến mạnh trong vấn đề này là sự ra đời của Thông tư
117/2005/TT-BTC ngày 19/12/2005, có hiệu lực từ ngày 26/01/2006. Nó quy định
một số vấn đề về hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong các giao
dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết.
Cùng với sự thay đổi của các luật thuế và những thay đổi rõ ràng trong quy
trình quản lý, kiểm tra, thanh tra thuế trong vài năm gần đây, ngày 22/04/2010, Bộ
Tài chính đã ban hành Thông tư 66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác
định giá trị thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết.
Trong những năm gần đây, tình hình thu hút vốn đầu tư FDI của Việt Nam
gia tăng đáng kể, cụ thể được thể hiện qua biểu đồ:

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 24/32
Bài làm: Ràng buộc các công ty đa quốc giá phải xử sự công bằng: GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
đề xuất một cơ sở nghiêm ngặt về chuyển giá
Vấn đề này đã có nhiều tác động đến vấn đề chuyển giá tại Việt Nam trong thời
gian gần đầy.
2. Thực trạng chuyển giá tại VN:

Theo thống kê của Cục thuế Thành Phố Hồ Chí Minh, trong năm 2009 có
trên 1.100 doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) khai lỗ, con số này
đã tăng gần gấp đôi so với năm 2007 mặc dù các doanh nghiệp này làm ăn tốt và
tăng trưởng cao, điều này cho thấy đã xảy ra hiện tượng chuyển giá trong các
doanh nghiệp FDI là rất nghiêm trọng. Với lợi thế về quy mô vốn, thiết bị công
nghệ, trình độ quản lý, tay nghề, nguyên tắc tiếp thị và sự hỗ trợ của công ty mẹ từ
nước ngoài, cộng thêm các ưu đãi của Việt Nam, cùng với chi phí nhân công rẻ,
chi phí bảo vệ môi trường còn thấp thì kết quả đầu tư của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư FDI không thể lỗ, mà trái lại là có lãi và lãi lớn là tất yếu. Mặt khác,
nếu lỗ lớn và lỗ tăng như vậy, thì chẳng có chuyện nhiều nhà đầu tư nước ngoài coi
Việt Nam là “thiên đường đầu tư” để đổ vốn vào các dự án mới hoặc tăng vốn cho
các dự án cũ như trong thời gian qua, cụ thể được thể hiện qua đồ thị.

SVTH: Nhóm 4 – TCDN – Đêm 4 – Khóa 19 Trang 25/32

×