Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt luận án tiến sĩ chuyên ngành quan hệ quốc tế quan hệ đối tác hợp tác chiến lược hàn quốc – việt nam và triển vọng trong bối cảnh thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu trong thế kỷ 21

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.19 KB, 27 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO


PARK NOH WAN

QUAN HỆ ĐỐI TÁC HỢP TÁC CHIẾN LƢỢC
HÀN QUỐC – VIỆT NAM VÀ TRIỂN VỌNG TRONG BỐI
CẢNH THAY ĐỔI HỆ THỐNG QUẢN TRỊ
TOÀN CẦU TRONG THẾ KỶ 21


Chuyên ngành : QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ : 62 31 0206


TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ


HANOI – 2014



Công trình được hoàn thành tại Học viện Ngoại giao



Người hướng dẫn khoa học:


PGS. TS. Nguyễn Thái Yên Hương





Phản biện 1:




Phản biện 2:




Phản biện 3:





Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Ngoại giao
vào hồi giờ ngày tháng năm 2014

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc năm 1991, trật tự thế giới và quản trị

toàn cầu đã và đang thay đổi nhanh chóng. Thế giới đang trải qua một giai
đoạn chuyển tiếp chưa từng có. Các chuyên gia dự đoán trong tương lai thế
giới sẽ bước vào “Kỷ nguyên G2 (Hoa Kỳ và Trung Quốc)”, hay “Kỷ
nguyên Năng lượng-Khí hậu”
Trong giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh, thế giới đã và đang thay đổi đáng
kể nhờ quá trình toàn cầu hóa nhanh chóng. Toàn cầu hóa có vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng GDP toàn cầu cũng như tăng cường
mối quan hệ giữa các quốc gia. Thế giới ngày càng trở nên thống nhất cũng
như thay đổi nhanh chóng. Cùng với bước tiến vượt bậc về tăng trưởng kinh
tế ở các nước mới nổi như BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và
Nam Phi), trật tự và hệ thống thế giới đang được đổi mới và tái cấu trúc.
Trong thế kỷ 21, những thay đổi trong quan hệ giữa các cường quốc sẽ trở
thành một trong những vấn đề trọng tâm trong nền chính trị thế giới. Nói
ngắn gọn, có 3 thay đổi chính như sau: i) thay đổi cấu trúc trong hệ thống
chủ nghĩa xã hội, ii) thay đổi quyền lực trong nền chính trị thế giới, iii) thay
đổi hành động của các quốc gia/tổ chức trên thế giới.
Trong bối cảnh phức tạp đó, sự thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu là
yếu tố có tính quyết định có ảnh hưởng toàn diện đối với quan hệ Hàn
Quốc-Việt Nam. Khoảng giữa thập niên 1980, Việt Nam và Hàn Quốc chịu
áp lực phải đổi mới và điều chỉnh chính sách ngoại giao nhằm nhanh chóng
thích ứng với thay đổi trật tự toàn cầu. Việt Nam và Hàn Quốc đã rất kịp
thời ứng phó với thay đổi trật tự toàn cầu, khẳng định chính sách ngoại giao
đổi mới và mở cửa nhằm tăng cường lợi ích quốc gia trong thế kỷ 21. Điều
này góp phần thúc đẩy sự phát triển quan hệ ngoại giao song phương được
thiết lập vào năm 1992 lên tầm cao mới chỉ trong vòng 20 năm.

2
Trong bối cảnh thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu, Việt Nam và Hàn
Quốc cần xây dựng khuôn khổ và mô hình hợp tác chiến lược mới. Do đó,
rất cần thiết phải tiến hành nghiên cứu về chính sách ứng phó của hai nước

đối với thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu, quan hệ hợp tác song phương
trên mọi lĩnh vực, cũng như định hướng quan hệ hai nước trong tương lai ở
thế kỷ 21.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều cuốn sách, bài báo và nghiên cứu về chủ đề quản trị toàn
cầu. Tuy nhiên định nghĩa và khái niệm về “quản trị toàn cầu” còn rất rộng
và mơ hồ. Nhìn chung, Nhiệm vụ Quản trị toàn cầu được định nghĩa là “sự
kết hợp của nhiều cách thức mà các cá nhân, tổ chức cộng đồng hoặc tư
nhân sử dụng để giải quyết các vấn đề chung. Đó là một quá trình liên tục
mà qua đó, những lợi ích khác nhau hoặc đối lập có thể được đáp ứng và
việc hợp tác hành động có thể được diễn ra.” Tuy nhiên, các định nghĩa về
thuật ngữ này tùy thuộc vào đối tượng và ngữ cảnh sử dụng, vẫn chưa có
một định nghĩa nào đạt được sự thống nhất.
Một số tác giả như James Rosenau đã dùng thuật ngữ “quản trị” để nói
về việc kiểm soát các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau khi thiếu vắng một
quyền lực chính trị bao quát, giống như trong hệ thống quốc tế. Ngoài ra
còn có nhiều nguồn tài liệu với các góc nhìn khác nhau về sự thay đổi trong
cơ chế quản trị toàn cầu, ví dụ như R. Gilfin với Thuyết ổn định bá quyền
(hegemonic stability theory - HST). Thuyết này cho rằng hệ thống quốc tế
sẽ ổn định hơn khi có một quốc gia trở thành bá chủ thế giới.
Về cơ chế quản trị toàn cầu sau Chiến tranh Lạnh, cũng có nhiều tài liệu
được viết dựa trên các quan điểm khác nhau theo nhiều phong cách đa dạng.
Joseph Nye cho rằng các mối liên kết phức tạp xuyên quốc gia và sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nước và các tổ chức đang ngày càng tăng, trong khi
việc sử dụng sức mạnh quân sự và cân bằng quyền lực đang ngày càng
giảm nhưng vẫn giữ vai trò quan trọng. Bài báo có tiêu đề “China: Rise,

3
Fall, and Re-emergence as a Global Power” lại thể hiện quan điểm khác:
Trung Quốc sẽ thế chỗ Hoa Kỳ để trở thành cường quốc về kinh tế hàng

đầu thế giới trong vòng một thập kỷ tới, tuy nhiên về khả năng tiến hành
chiến tranh thì Trung Quốc vẫn thua xa Hoa Kỳ. Hiện nay vai trò dẫn dắt
thế giới đang dần chuyển sang các quốc gia mới nổi, tuy nhiên bài báo “The
End of US hegemony: Legacy of 9/11” lại khẳng định Hoa Kỳ vẫn có sức
mạnh vượt trội dù không còn nắm bá quyền nữa.
Về định hướng đổi mới của Hoa Kỳ, cuốn sách “The United Nations and
Changing World Politics” đề cập ba vấn đề chính: hòa bình và an ninh quốc
tế, quyền con người và ảnh hưởng gia tăng của các tổ chức phi chính phủ,
và phát triển bền vững/phát triển sinh thái. Tuy nhiên cuốn sách chưa đưa ra
được một câu trả lời thỏa đáng cho vấn đề quan trọng mà Liên Hợp Quốc
đang phải đối mặt – đó là làm sao để cải tổ Hội đồng Bảo an. Khi toàn cầu
hóa được đẩy mạnh, nhiều vấn đề toàn cầu chưa từng có cũng theo đó phát
sinh. Một số cuốn sách, bài báo, tạp chí cũng đã đề cập đến các vấn đề toàn
cầu như biến đổi khí hậu, nghèo đói, khủng bố và quyền con người, đơn cử
như “UN International Panel Convention Climate Change (IPCCC) Report”
và “Stern Review on the Economics of Climate Change”.
Về Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Hàn Quốc-Việt Nam và triển
vọng quan hệ trong tương lai trong bối cảnh thay đổi hệ thống quản trị toàn
cầu, bài báo “Economic Cooperation between Vietnam and the Republic of
Korea in the East Asian Integration” cho biết quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam
đã bắt đầu từ nửa sau thập niên 1980, nhưng mới hạn chế ở trao đổi thương
mại. Vào giai đoạn đó Việt Nam và Hàn Quốc áp dụng chính sách ngoại
giao mới nhằm ứng phó với những thay đổi nhanh chóng trong môi trường
quốc tế. Về phía Hàn Quốc là chính sách “Ngoại giao hướng về phía Bắc”,
còn Việt Nam tiến hành “Đổi mới” vào năm 1986. Đây là hai nhân tố quan
trọng nhất thúc đẩy sự phát triển quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam cho tới nay.
Liên quan đến nội dung này, Alexander Lam Vuving tác giả của bài báo

4
“Quá trình hình thành chính sách đối ngoại của Việt Nam: Chiến lược lớn

của Việt Nam thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh” (The Shaping of Foreign
Policy: Vietnamese Grand Strategy after the Cold War) đã làm rõ sự điều
chỉnh trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong một thế giới mới, bài
báo “South Korea’s Northern Policy” của Charles K Amstrong nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc tham gia đối thoại và làm dịu căng thẳng với Triều
Tiên và các đồng minh cộng sản của nước này.
Từ khi Việt Nam và Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992,
có một số tài liệu được xuất bản tập trung vào sự phát triển của quan hệ
kinh tế và văn hóa, nhưng không đề cập quan hệ chính trị. Tạp chí
“Vietnam-Korea Strategic Cooperative Partnership” (The World and
Vietnam, 2012) và “Economic Cooperation between Vietnam and the
Republic of Korea in the East Asian Integration” cung cấp thêm những kiến
thức mới về sự phát triển to lớn của quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam trong
vòng 20 năm trở lại đây. Hai tài liệu này đều cho rằng sự phát triển vượt
bậc có được là nhờ hai nước cùng nằm trong “khu vực có chung văn hóa
Đông Á” với những đặc điểm nổi bật về tinh thần dân tộc, trí thông minh và
kĩ năng, tinh thần ham học hỏi và chăm chỉ trong lao động. Nhờ đó hai
nước đã nâng quan hệ “Đối tác hợp tác toàn diện” năm 2001 lên “Đối tác
hợp tác chiến lược” vào năm 2009.
Tuy nhiên mới có một số ít tác phẩm nghiên cứu về “quan hệ hợp tác
chiến lược và chiều hướng phát triển” trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam và
Hàn Quốc trong bối cảnh thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu trong thế kỷ
21. Cuốn sách “The Relationship between Vietnam and South Korea in the
New International Context” của tác giả Ngô Xuân Bình cung cấp những ý
tưởng mới nhằm nâng cấp quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược” trong thế kỷ
21. Tuy nhiên, cuốn sách lại không thể đưa ra những định hướng chiến lược
cụ thể, cũng như không đề xuất được những nguyên tắc cơ bản và định

5
hướng trên cơ sở khu vực và thế giới nhằm hướng tới “quan hệ đối tác hợp

tác chiến lược” trên mọi lĩnh vực trong thế kỷ 21.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu
Luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
1) Nghiên cứu tầm quan trọng của quá trình chuyển đổi và đặc điểm
của hệ thống quản trị toàn cầu dựa trên lịch sử thế giới đương đại
2) Phân tích các sự kiện và tình hình quốc tế/khu vực/song phương,
dựa trên lý thuyết chính trị quốc tế thông qua cách tiếp cận thực tế
3) Nghiên cứu sự tác động của các phát triển và những vấn đề liên
quan đến khu vực châu Á, nhất là hai nước Việt Nam và Hàn Quốc, nhằm
cuối cùng tìm ra được định hướng cho Việt Nam và Hàn Quốc trong việc
ứng phó với các vấn đề của quan hệ song phương trong tương lai
4) Làm rõ được vai trò của Hai nước trong quá trình đóng góp vào giải
quyết các vấn đề có tính khu vực và tòan cầu trong khi tiếp tục củng cố
quan hệ song phương
5) Trình bày các phương án hợp lý cho Việt Nam và Hàn Quốc nâng
cấp và phát triển quan hệ trên mọi lĩnh vực, bao gồm hợp tác chính trị và
quân sự
6) Đề xuất một số kiến nghị cho “tầm nhìn chiến lược Hàn Quốc-Việt
Nam trung hạn và dài hạn mới” như một hình mẫu phát triển chiến lược
trong những năm tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khung thời gian nghiên cứu sẽ được giới hạn từ sau khi Chiến tranh
Lạnh kết thúc năm 1991 đến năm 2020. Luận án cũng phân tích khái quát
cấu trúc quản trị toàn cầu được hình thành từ sau Thế chiến II năm 1945,
đồng thời nêu tổng quan những thay đổi trong hệ thống quản trị khu vực và
toàn cầu và những đặc điểm của chúng từ sau Chiến tranh Lạnh cho tới nay.
Luận án cũng phân tích những đối sách của Hàn Quốc và Việt Nam trong
giai đoạn này. Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Hàn Quốc-Việt Nam

6

trong thời gian 30 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992 cho
tới 30 cũng là một nội dung được nghiên cứu.
Về đối tượng nghiên cứu, luận án đề cập đến các mối quan hệ đang tái
định hình giữa các quốc gia, Hoa Kỳ, Trung Quốc, các tổ chức quốc tế khác
như UN, IMF, WB, OECD, APEC, ASEM và ASEAN. Luận án phân tích
khả năng và xu hướng phân chia quyền lực giữa các cường quốc, đồng thời
tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của các cường quốc đối với khu
vực Đông Á. Đặc biệt, luận án nghiên cứu chính sách đối ngoại của Việt
Nam và Hàn Quốc nhằm ứng phó với thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu từ
giữa thập niên 1980 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án hết sức tránh thảo luận ngoài đề và những vấn đề mang tính kĩ
thuật cao, mà đưa ra phân tích ngắn gọn về các thay đổi lớn trong trật tự thế
giới và hệ thống quản trị, những đặc điểm và ý nghĩa nổi bật của các thay
đổi đó. Vì vậy, luận án chủ yếu sử dụng học thuyết về kinh tế - chính trị và
quan hệ quốc tế để phân tích các xu hướng thích hợp tác động tới quan hệ
Hàn Quốc-Việt Nam trong bối cảnh thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu sau
Chiến tranh Lạnh.
Luận án cũng sử dụng nhiều phương pháp như: lịch sử, lô-gic, thống kê,
so sánh, theo niên đại, toán phân tích, v.v. Ngoài ra, phương pháp biện
chứng được dùng để chứng minh sự liên kết trong chính sách và hành động
của Hoa Kỳ trên thế giới cũng như trong khu vực Đông Á mà nhờ đó, Hoa
Kỳ có thể gây ảnh hưởng lên nền chính trị thế giới. Phương pháp so sánh
giúp chỉ ra những điểm khác biệt giữa chính sách của Hoa Kỳ về các vấn đề
song phương/khu vực/toàn cầu so với các quốc gia có liên quan. Phương
pháp thống kê giúp thu thập dữ liệu, khiến luận án trở nên thuyết phục hơn.
6. Đóng góp của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam cung cấp
những phân tích chuyên sâu về quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam trong bối cảnh


7
thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay một
cách toàn diện và có hệ thống.
- Luận án trình bày các phân tích, bình luận rõ ràng về điểm mạnh, hạn
chế cũng như triển vọng hợp tác trong mỗi lĩnh vực giữa hai nước, cũng
như đề xuất nhiều ý kiến nhằm tăng cường tính hiệu quả trong hợp tác trong
những năm tới
- Luận án nghiên cứu quan hệ song phương Hàn Quốc-Việt Nam, cũng
như quan hệ của hai nước với Trung Quốc, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế
khác, giúp củng cố kiến thức cho người đọc về quan hệ quốc tế.
- Luận án là tài liệu tham khảo cho việc dạy và học lịch sử thế giới, lý
thuyết về quản trị toàn cầu, quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ giữa Việt
Nam và Hàn Quốc trong các trường đại học, cao đẳng, viện và trung tâm
nghiên cứu
- Luận án là nguồn tham khảo bổ ích cho các nhà hoạch định chính
sách về quan hệ Việt-Hàn.
7. Bố cục của luận án
Bên cạnh phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án bao gồm ba
chương như sau:
i. Chương 1 nghiên cứu “Những thay đổi trong hệ thống quản trị toàn
cầu và các đặc điểm” (bao gồm hình thức ban đầu và quá trình thay đổi)
ii. Chương 2 mô tả “Các chính sách ứng phó của Hàn Quốc và Việt Nam
đối với thay đổi hệ thống quản trị khu vực và toàn cầu từ năm 1991”
iii. Chương 3 phân tích “Quan hệ song phương Việt Nam- Hàn Quốc hiện
nay và triển vọng quan hệ trong tương lai trong bối cảnh thay đổi hệ thống
quản trị khu vực và toàn cầu trong thế kỷ 21”


8
CHƢƠNG 1

NHỮNG THAY ĐỔI TRONG HỆ THỐNG QUẢN TRỊ TOÀN
CẦU VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM
1.1. Khái niệm Quản trị toàn cầu và Khuôn khổ của nó
1.1.1. Khái niệm Quản trị toàn cầu và Tính hữu dụng trong phân tích
Nhìn chung, Ủy ban Quản trị toàn cầu (Commission on Global
Governance) định nghĩa quản trị toàn cầu là “sự kết hợp của nhiều cách thức
mà các cá nhân, tổ chức ecộng đồng hoặc tư nhân sử dụng để giải quyết các
vấn đề chung.” Theo định nghĩa của Thomas G. Weiss, Giám đốc Viện Nghiên
cứu Quốc tế Ralph Bunche, Trung tâm đào tạo sau Đại học, Trường Đại học
New York, “quản trị toàn cầu” là “những nỗ lực chung nhằm xác định, tìm hiểu
và giải quyết các vấn đề toàn cầu vượt quá khả năng giải quyết độc lập của Hoa
Kỳ”. Mặc dù định nghĩa về quản trị toàn cầu vẫn còn mơ hồ, chưa thống nhất,
nhưng quản trị toàn cầu vẫn là một công cụ hữu ích khi phân tích tình hình
chính trị quốc tế. Trong luận án này, tôi sử dụng khái niệm quản trị toàn cầu
theo định nghĩa của Thomas G. Weiss.
1.1.2. Thay đổi trong Quản trị toàn cầu và Cấu trúc
Dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố như toàn cầu hóa và chiến tranh thế
giới, phạm vi và quy mô của quản trị toàn cầu đã và đang thay đổi qua
nhiều thế kỉ cho tới nay. Sau Thế chiến thứ hai năm 1945, Mỹ và Liên Xô
giữ vị thế lớn trong nền chính trị thế giới. Ngoài ra còn có các thể chế lớn
đóng vai trò duy trì trật tự quốc tế: trụ cột về chính trị thế giới là Liên Hợp
Quốc, trụ cột về kinh tế và thương mại là Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại (GATT), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới
(WB). Liên hợp Quốc là tổ chức đã góp phần vào việc định hình hệ thống
quản trị tòan cầu thế giới. Sau chiến tranh Trung Đông năm 1971, sức mạnh
kinh tế của Hoa Kỳ suy giảm, trong khi có sự thay đổi về phân phối quyền
lực kinh tế do sức mạnh kinh tế tăng cường của các quốc gia và tổ chức mới

9
nổi như EU và Trung Quốc. Khuôn khổ quản trị toàn cầu nói trên được duy

trì liên tục đến khi Chiến tranh Lạnh kết thúc năm 1991.
1.2. Thay đổi về Cấu trúc quản trị và Đặc điểm
1.2.1. Bối cảnh Thay đổi cấu trúc: Chiến tranh Lạnh kết thúc
Năm 1991, Liên bang Xô Viết sụp đổ không chỉ tạo ra những thay đổi
trong hệ thống quản trị toàn cầu mà không cần đến chiến tranh mà còn kéo
theo sự sụp đổ của các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hầu hết các nước này
hội nhập với các nền kinh tế phương Tây, tập trung vào nguyên tắc “kinh tế
thị trường và dân chủ”. Cùng với toàn cầu hóa, thế giới dần trở nên hợp
nhất và liên kết chặt chẽ hơn. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc năm 1991,
trật tự thế giới bước vào thời đại Pax Americana (nền hòa bình thế giới do
Mỹ chi phối).
Cùng với bước nhảy vọt về kinh tế từ thập niên 2000, các nền kinh tế
mới nổi như BRICS xuất hiện, tạo nên sự tập hợp lực lượng mới ngày càng
có sức mạnh, dần dần mở rộng tầm kinh tế và nâng cao tiếng nói trong cộng
đồng quốc tế. Những diễn biến này gây áp lực lớn đối với sự điều chỉnh cấu
trúc quản trị toàn cầu khi phải tính đến mối quan hệ giữa các nước mới nổi
và các nước phát triển. Thêm vào đó, các vấn đề thách thức toàn cầu như
ma túy, khủng bố, biến đổi khí hậu ngày càng trở nên nghiêm trọng. Đây là
những vấn đề rất khó giải quyết một cách hiệu quả bởi chúng liên quan trực
tiếp với chủ quyền và quyền tự quyết của các quốc gia. Hơn nữa, cuộc
khủng hoảng tài chính hiện nay do Hoa Kỳ và châu Âu châm ngòi cũng là
một yếu tố gây áp lực tác động tới hệ thống quản trị toàn cầu.
1.2.2. Đặc điểm của Thay đổi Quản trị Toàn cầu hiện nay
1.2.2.1. Chuyển đổi sang Hệ thống phức hợp: Hoa Kỳ suy yếu và Trung
Quốc nổi lên
Từ sau Thế chiến II tới thập niên 1990, hệ thống quốc tế cơ bản có tính
hai cực, được gọi là “chiến tranh Lạnh” - cuộc đối đầu về ý thức hệ giữa
Hoa Kỳ và Liên bang Xô Viết. Năm 1991 Liên Xô sụp đổ, biến thế giới

10

thành một hệ thống bá quyền đơn cực chi phối bởi một siêu cường quốc duy
nhất là Mỹ. Hiện nay vai trò dẫn dắt trật tự thế giới đang dần nghiêng về
các nước mới nổi, thời đại bá quyền của Mỹ không còn nữa mặc dù nước
này vẫn là cường quốc trên thế giới. Theo dự đoán thì vào khoảng năm
2020, Trung Quốc có thể thay thế Mỹ trờ thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Cùng với bước nhảy vọt về kinh tế từ thập niên 2000, các nước mới nổi
như BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) không ngừng
mở rộng tầm ảnh hưởng và nâng cao tiếng nói trong cộng đồng quốc tế, trở
thành những thực thể chính trị đầy quyền lực. Các nước này cũng đang trở
thành động lực thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế thế giới.
1.2.2.2. Tăng cường Chủ nghĩa Khu vực: Sự mở rộng của các Khối kinh tế
Trong giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh, chủ nghĩa khu vực đang nổi lên
vốn là kết quả của sự giao thoa giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa toàn
cầu xét về địa – chính trị và địa – kinh tế. Với nhịp độ toàn cầu hóa và tính
phụ thuộc lẫn nhau ngày cáng tăng, thế giới đang trở nên hẹp hơn và các
quốc gia phụ thuộc lẫn nhau sâu sắc hơn. Hợp tác khu vực cũng được tăng
cường sau chiến tranh Lạnh. EU, NAFTA, APEC, ASEAN và
MERCOSUR trở thành các tổ chức khu vực có vai trò trong hệ thống kinh
tế thế giới.
Hiện nay trong bối cảnh diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước
phát triển nhằm thúc đẩy Hiệp định Tự do Thương mại FTA, các nền kinh
tế khu vực có điều kiện tăng trưởng nhanh hơn. Trong tương lai, một khối
FTA mới sẽ được hình thành giữa ba trục là Hoa Kỳ, châu Âu và châu Á.
Hơn nữa, có nhiều thể chế kinh tế đa quốc gia và khu vực được thành lập
nhằm tăng cường thương mại và đầu tư giữa các nước.Thời gian gần đây
thế giới đang thúc đẩy vòng đàm phán Doha nhằm xây dựng trật tự thương
mại thế giới hoàn chỉnh và sâu sắc hơn.


11

1.2.2.3. Các vấn đề toàn cầu và Hạn chế trong vai trò của Liên Hợp Quốc
và G8
Ngày nay trên thế giới có nhiều vấn đề lớn như nạn buôn bán ma túy,
khủng bố, nghèo đói, biến đổi khí hậu… cần được khẩn trương giải quyết
thông qua hợp tác hữu nghị và tăng cường giữa các chủ thể quốc tế. Tuy
nhiên rất khó để đạt được sự đồng thuận giữa các nước bởi các vấn đề này
có liên quan chặt chẽ đến chủ quyền và quyền tự quyết của mỗi quốc gia.
Trong khi đó, vai trò và chức năng của Liên Hợp Quốc và G8 trong việc
giải quyết các vấn đề được nêu đang trở nên suy yếu, và các tổ chức này
đang bị chỉ trích là không có khả năng ứng phó với các vấn đề toàn cầu một
cách kịp thời và hiệu quả. Điều này đặc biệt đúng với các vấn đề cấp bách
mang tính toàn cầu cần sự hợp tác như cuộc khủng hoảng tài chính gần đây,
biến đổi khí hậu, xóa đói giảm nghèo.
1.3. Thay đổi Quản trị Toàn cầu và Triển vọng
1.3.1. Khả năng Thay đổi Quản trị Toàn cầu
Hệ thống Quản trị toàn cầu đang phải đối mặt với khủng hoảng kép: thứ
nhất là tính hợp pháp, thứ hai là tính hiệu quả. “Tính hợp pháp” cho thấy hệ
thống quản trị toàn cầu hiện nay vốn xuất hiện từ thời kỳ “phương Tây đang
trỗi dậy” chưa giải quyết được khoảng cách chính trị ngày càng lớn giữa thể
chế toàn cầu hiện có và thực tế phân chia quyền lực đang thay đổi trên thế
giới do sự trỗi dậy của BRICs thành một thực thể chính trị đầy sức mạnh.
“Tính hiệu quả” cho thấy hệ thống quản trị toàn cầu hiện nay không thể
kiểm soát và duy trì một cách hiệu quả nền hòa bình và thịnh vượng chung
trên thế giới đang có chiều hướng ngày càng suy yếu. Thế giới đã và đang
tìm kiếm một cấu trúc quản trị toàn cầu bao gồm cả các nước phát triển và
các quốc gia mới nổi. Đã có nhiều đề xuất thay thế cho cấu trúc cơ bản của
trật tự thế giới và biện pháp cải cách hệ thống quản trị toàn cầu được các
nhà lãnh đạo trên thế giới đề xuất. Gần đây, G20 đã thảo luận một số biện
pháp nhằm quản lý hệ thống tiền tệ quốc tế một cách ổn định và hiệu quả.


12
1.3.2. Triển vọng Thay đổi Quản trị Toàn cầu
Với quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, quản trị toàn cầu xuất hiện
những điểm bất ổn. Các cuộc khủng hoảng tài chính lặp lại nhiều hơn tạo
nên sự bấp bênh trong thị trường thế giới. Những thực tế này tạo áp lực
ngày càng lớn đối với việc điều chỉnh cấu trúc quản trị toàn cầu giữa các
nước mới nổi và các nước phát triển. Với tiềm lực và vị thế kinh tế ngày
càng tăng, các nước mới nổi mà trung tâm là BRICS sẽ cố gắng cải cách bộ
máy quản trị hiện nay vốn được điều hành bởi các nước phương Tây như
Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Người ta cũng dự đoán rằng trước sự trỗi dậy của
các quốc gia mới nổi, vị thế bá quyền của Hoa Kỳ sẽ bị lung lay, cũng như
vai trò của G8 sẽ trở nên suy yếu. Thay vào đó, G20, bao gồm các nước
BRICS, sẽ chiếm lấy vai trò kiểm soát trật tự kinh tế thế giới với tư cách là
thể chế kinh tế đa phương có vị thế cao nhất trên thế giới. Hơn nữa, thế giới
có thể chuyển sang trật tự hai cực – G2 – trong đó Hoa Kỳ và Trung Quốc
có vai trò kiểm soát. Các vấn đề toàn cầu như ma túy, khủng bố, nghèo đói,
biến đổi khí hậu đang xảy ra, có thể gây ảnh hưởng tới sự thay đổi quản trị
toàn cầu.
1.4. Thay đổi Quản trị khu vực tại Châu Á-Thái Bình Dƣơng
1.4.1. Tình hình chung
Thế kỷ 21 được gọi là kỷ nguyên của khu vực Đông Á. Từ năm 1992,
Đông Á đã đóng vai trò là động cơ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới.
Trong vòng 20 năm trở lại đây, song song với thay đổi quản trị toàn cầu,
quản trị khu vực tại Đông Á cũng trải qua quá trình thay đổi to lớn.
1.4.2. Đông Bắc Á: thay đổi về sự hợp tác trong khu vực
Trong vòng 20 năm kể từ thập niên 90, Đông Bắc Á đã chứng kiến sự
phát triển kinh tế ngoạn mục trong bối cảnh không có người lãnh đạo giải
quyết những mâu thuẫn, sự khác biệt về thể chế chính trị cũng như các vấn
đề lịch sử. Tuy nhiên, gần đây mối bất ổn chính trị ngày càng nghiêm trọng
do vấn đề vũ khí hạt nhân của Triều Tiên, vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa


13
Trung Quốc và Nhật Bản, và tư tưởng bảo thủ của Nhật. Bên cạnh đó, khu
vực Đông Bắc Á cũng đang không ngừng nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng
trên trường quốc tế.
1.5.2. Đông Nam Á: thay đổi về sự hợp tác trong khu vực
Đông Nam Á là một trong những khu vực năng động nhất và đa dạng
nhất trên thế giới. Sự đa dạng được thể hiện trong các mức độ phát triển
kinh tế, thu nhập, chế độ kinh tế và cả các thách thức chính trị. Dù vậy,
nhiều sáng kiến đã được áp dụng nhằm hướng tới hội nhập trong khu vực.
Từ thập niên 90 đến nay, Đông Nam Á đã và đang đóng vai trò đầu tàu
trong việc duy trì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á-Thái Bình Dương. Về
lĩnh vực an ninh, ASEAN đã thành lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF)
năm 1994 để thảo luận các vấn đề an ninh trong khu vực. ASEAN cũng nỗ
lực thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư, cũng như trao đổi nhân lực
trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

CHƢƠNG 2
CÁC CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ CỦA HÀN QUỐC VÀ VIỆT NAM
ĐỐI VỚI THAY ĐỔI HỆ THỐNG QUẢN TRỊ KHU VỰC VÀ TOÀN
CẦU TỪ NĂM 1991
2.1. Các chính sách ứng phó của Hàn Quốc và Việt Nam đối với thay
đổi hệ thống quản trị khu vực và toàn cầu
2.1.1. Lý do đưa tới sự ứng phó của Hàn Quốc và Việt Nam
Hiện nay, Hàn Quốc và Việt Nam đang ứng phó linh hoạt với những
thay đổi mang tính toàn cầu, cũng như củng cố vị thế kinh tế và chính trị
trên trường quốc tế. Cả hai nước đều trải qua chiến tranh trong thời kỳ
Chiến tranh Lạnh và bắt đầu tăng trưởng kinh tế gần như không có hạ tầng
cơ sở thiết yếu. Tuy nhiên, đến nay hai nước đã đạt được những thành tựu
to lớn. Ngược lại, Bắc Triều Tiên do không thể đối phó linh hoạt với sự

biến đổi của hệ thống quản trị toàn cầu nên đã trở thành một trong các quốc

14
gia lạc hậu nhất trên thế giới. Rõ ràng “ứng phó tích cực với những thay đổi
toàn cầu” có tầm quan trọng rất lớn trong tình hình hiện nay.
2.1.2. Đối sách của Hàn Quốc
Sau Thế chiến II, chính sách ngoại giao khu vực của Hàn Quốc chịu ảnh
hưởng của Chiến tranh Lạnh. Nhằm mục tiêu bảo vệ an ninh quốc phòng và
phát triển kinh tế, Hàn Quốc trở thành một trong những đồng minh thân cận
nhất của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Khi Chiến tranh Lạnh sắp
kết thúc vào giữa thập niên 1980, Hàn Quốc áp dụng chính sách “Ngoại
giao phương Bắc”. Một mặt, Hàn Quốc theo đuổi chính sách ngoại giao
đồng minh thân cận với Hoa Kỳ, mặt khác bình thường hóa quan hệ với các
nước xã hội chủ nghĩa, áp dụng chính sách ngoại giao đa phương cân bằng
với các nước khác. Hàn Quốc đã ứng phó rất tích cực và hiệu quả với sự
thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu. Kết quả là quốc gia này đã thành công
trong việc chuyển đối từ một xã hội lạc hậu, kém phát triển trở thành một
nền kinh tế hiện đại chỉ trong một thế hệ.
2.1.3. Đối sách của Việt Nam
Sau thống nhất năm 1975, ưu tiên hàng đầu của chính sách ngoại giao
Việt Nam là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Chính phủ Việt Nam buộc phải áp dụng chính sách cải cách kinh tế-chính
trị (Đổi Mới), bắt đầu từ năm 1986. Chính sách ngoại giao theo đó cũng
từng bước trở nên thực tế, linh hoạt hơn và bớt nặng về ý thức hệ. Việt Nam
không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa dạng hóa, đa phương
hóa, cũng như đưa ra những chính sách ngoại giao nhằm tích cực ứng phó
trước sự thay đổi nhanh chóng của trật tự thế giới. Kết quả là, trong vòng 25
năm trở lại đây, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển to lớn.
2.2. Hàn Quốc và Việt Nam ứng phó với Khủng hoảng kinh tế toàn cầu
2.2.1. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và xu hướng mang tính cấu trúc

Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và cuộc khủng hoảng tài chính theo sau
đó đã mang lại nhiều thay đổi đối với nền kinh tế thế giới. Trước hết, khủng

15
hoảng đang diễn ra nghiêm trọng và lan rộng nhanh hơn bao giờ hết. Thứ
hai, bắt đầu nổi lên nghi vấn về niềm tin vào chính phủ và thị trường. Thứ
ba, xuất hiện cả hi vọng và mối quan ngại về các thị trường mới nổi – vốn
đang là lực lượng dẫn đầu sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu. Thứ tư,
xuất hiện sự thận trọng trong đánh giá tốc độ toàn cầu hóa nhanh chóng
hiện nay. Chỉ có hợp tác quốc tế mới mang lại cho thế giới đủ sức mạnh để
vượt qua cuộc khủng hoảng này.
2.2.2. Đối sách của Hàn Quốc và Việt Nam
Hàn Quốc đã thành công khi vượt qua khủng hoảng tài chính năm 1998,
cũng như tranh thủ khủng hoảng tài chính năm 2008 để xây dựng chiến
lược đón đầu để đáp ứng với trật tự kinh tế thế giới mới. Hàn Quốc cũng kết
nối khá hiệu quả với thế giới thông qua toàn cầu hóa. Kết quả là quốc gia
này đã đạt được những thành tựu to lớn về cả kinh tế và mức độ toàn cầu
hóa. Trong khi đó, là một nền kinh tế mở quy mô nhỏ, phụ thuộc vào FDI
và xuất khẩu, Việt Nam không thể tránh khỏi những ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính cuối năm 2008. Tuy nhiên, Việt Nam đã vượt qua khá thành
công trước những cú sốc bên ngoài của cuộc khủng hoảng này. Chính phủ
đã nhanh chóng điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô, nhờ đó đã đạt được
một số thành tựu về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, và giữ vững
tăng trưởng ổn định. Việt Nam được tin tưởng sẽ có triển vọng phát triển
tương sáng trong tương lai.
2.3. Ứng phó của Hàn Quốc và Việt Nam trƣớc Thay đổi Quản trị ở
khu vực
2.3.1. Sự nổi lên của Trung Quốc và Thay đổi Quản trị ở khu vực
Nhằm tích cực ứng phó với trật tự thế giới đang thay đổi, Trung Quốc
công bố chính sách đổi mới và mở cửa năm 1978. Từ đó đến nay, Trung

Quốc đã đạt được nhiều thành tựu phát triển vượt bậc về mọi mặt. Sự nổi
lên của một Trung Quốc giàu mạnh và quyền lực đang làm thay đổi tính
năng động của thế giới. Trung Quốc đã nâng cao vị thế của mình thành một

16
nước lớn về kinh tế, ngoại giao, quân sự và trở thành nền kinh tế thứ hai thế
giới. Với sự “trỗi dậy của Trung Quốc” trật tự Đông Á hiện nay phải tái
định hình. Một số người dự đoán về một khu vực nơi quyền lực Trung
Quốc sẽ thay thế Hoa Kỳ, dẫn đến thay đổi vai trò bá quyền – và có thể gây
xung đột. Hiện nay, chính quyền Hoa Kỳ đang tái cân bằng về phía châu Á
nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực châu Á-Thái
Bình Dương. Ngày nay tại châu Á-Thái Bình Dương có một loạt các hiệp
định khu vực, và dự đoán còn tăng thêm trong vài năm tới. Trong bối cảnh
đó, cần hiểu biết đầy đủ về các xu hướng hiện tại trong phát triển quan hệ
và dự đoán xu hướng tương lai trong những năm tới.
2.3.2. Hàn Quốc và Việt Nam ứng phó với thay đổi Quản trị khu vực
Thành tựu đáng kể nhất của ngoại giao Hàn Quốc là “Chính sách Ánh
dương”, trong đó khuyến khích hợp tác hơn là chính sách đối đầu và ngăn
chặn trong mối quan hệ liên Triều cuối thập niên 90. Gần đây nhất Hàn
Quốc đã công bố chính sách “ngoại giao châu Á mới” vào năm 2009, thể
hiện tham vọng cạnh tranh ảnh hưởng khu vực với Trung Quốc và Nhật
Bản. Hàn Quốc thường điều chỉnh chính sách ngoại giao và ứng phó tích
cực với môi trường quản trị khu vực đang thay đổi để thúc đẩy lợi ích quốc
gia, góp phần đáng kể vào việc nâng cao vị thế của đất nước.
Chiến tranh Lạnh kết thúc, Việt Nam cũng là một nước ứng phó tích cự
với thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu. Năm 1989, Việt Nam đóng vai trò
quan trọng trong thay đổi hệ thống quản trị khu vực khi rút quân đội khỏi
Campuchia. Việt Nam xây dựng khuôn khổ hợp tác khu vực mới bằng cách
gia nhập ASEAN năm 1995 và thúc đẩy ngoại giao đa phương dựa trên việc
gia nhập APEC năm 1998. Gần đây, Việt Nam đang chủ động và tích cực

hội nhập kinh thế quốc tế. Đồng thời thông qua đàm phán TPP năm 2011
và thúc đẩy ký kết FTA với Hàn Quốc, EU và Nga, Việt Nam cũng tích cực
ứng phó với chủ nghĩa khu vực đang thay đổi.


17

CHƢƠNG 3
QUAN HỆ SONG PHƢƠNG HÀN QUỐC-VIỆT NAM VÀ CHIỀU
HƢỚNG QUAN HỆ TRONG BỐI CẢNH THAY ĐỔI HỆ THỐNG
QUẢN TRỊ KHU VỰC VÀ TOÀN CẦU TRONG THẾ KỶ 21
3.1. Tổng quan về Quan hệ song phƣơng Hàn Quốc-Việt Nam
3.1.1. Quan hệ song phương Hàn Quốc-Việt Nam trước năm 1992
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã bắt đầu khởi nguồn từ 800
năm trước. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, hai nước không thể thiết lập
quan hệ hợp tác do sự khác nhau về ý thức hệ. Đến nửa cuối thập niên 1980,
quan hệ hai nước được hình thành nhưng không chính thức, chỉ hạn chế ở
trao đổi thương mại. Tới năm 1992 hai nước mới chính thức thiết lập quan
hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ hai nước,
hướng tới tương lai và chung tay xây dựng quan hệ bạn bè, hợp tác hữu
nghị vì lợi ích và thịnh vượng chung trong thế kỷ 21.
3.1.2. Sự phát triển của Quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam từ sau năm 1992
Từ khi được thiết lập, quan hệ ngoại giao Hàn Quốc-Việt Nam ngày
càng mang tính xây dựng cao và hướng tới tương lai, dựa trên nền tảng tin
cây lẫn nhau. Hai nước đã nâng cấp quan hệ song phương từ “Đối tác hợp
tác toàn diện” năm 2001 lên “Đối tác hợp tác chiến lược” năm 2009. Trao
đổi thương mại và đầu tư song phương được tăng cường đáng kể. Hàn Quốc
cũng là đối tác tài trợ vốn ODA lớn thứ hai cho Việt Nam, còn Việt Nam là
nguồn xuất khẩu lao động chính cho Hàn Quốc. Quan hệ giữa Việt Nam và
Hàn Quốc được coi như là “quan hệ anh em” thậm chí như “thông gia”.

3.1.2.1. Quan hệ chính trị và ngoại giao
Trong lĩnh vực chính trị, chỉ chưa đầy 20 năm sau khi thiết lập quan hệ
ngoại giao, hai nước đã nâng cấp lên quan hệ “Đối tác Toàn diện trong Thế
kỷ 21” vào tháng 8 năm 2001 và “Đối tác Hợp tác Chiến lược” vào tháng
10 năm 2009. Các chuyến viếng thăm và trao đổi đoàn lãnh đạo cấp cao

18
thường xuyên giữa hai nước đã trở thành thông lệ tốt đẹp trong quan hệ
song phương. Cả hai nước đã xây dựng và duy trì nhiều cơ chế đối thoại và
hội đàm chính trị hiệu quả nhằm tăng cường hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau.
Hiện nay, hai nước có quan hệ đa dạng và tốt đẹp ở mức song phương và đa
phương theo nhiều các cách đa dạng. Cả hai có cùng mối quan tâm về hòa
bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực.
3.1.2.2. Hợp tác Kinh tế
Quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam không ngừng phát triển với việc mở rộng
thương mại và tăng cường giao lưu nhân dân. Trong vòng 20 năm trở lại
đây, Việt Nam đã trở thành một đối tác chiến lược cho các doanh nghiệp
Hàn Quốc, là điểm đến hấp dẫn cho vốn đầu tư từ Hàn Quốc. Thêm vào đó
là mối quan hệ bổ trợ lẫn nhau giữa FDI và thương mại. Một dòng vốn FDI
lớn do Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam gần đây có thể được coi là nguồn
vốn chính cho việc mở rộng thương mại giữa hai nước.
Hiện nay Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lao động lớn thứ hai của
Việt Nam. Các nhà tuyển dụng Hàn Quốc chuộng lao động Việt Nam bởi
họ thật thà, chăm chỉ và thích ứng nhanh với công nghệ và văn hóa Hàn
Quốc. Tuy nhiên, vấn đề lao động bất hợp pháp đang làm giảm cơ hội của
nhiều lao động Việt Nam muốn sang Hàn Quốc làm việc. Chính phủ hai
nước cần tích cực hợp tác xây dựng chính sách để giải quyết các vấn đề này.
3.1.2.3. Viện trợ Phát triển (ODA)
Hiện nay, Hàn Quốc đã thành công khi từ một nước nhận việc trợ trở
thành nước cung cấp viện trợ. Việt Nam là một trong những đối tác chiến

lược nhận viện trợ và vay vốn trung hạn của Hàn Quốc, đồng thời cũng là
nước nhận viện trợ ODA nhiều nhất từ Hàn Quốc. Từ gói viện trợ ODA đầu
tiên trị giá 100 nghìn đôla năm 1993, tới nay Hàn Quốc đã cung cấp tới 150
triệu đô la cho Việt Nam. Bốn năm trước Hàn Quốc cũng chọn Việt Nam là
đối tác hưởng lợi lớn nhất từ “Chương trình Chia sẻ Tri thức” (KSP). Việt
Nam không chỉ được chuyển giao công nghệ từ Hàn Quốc và được chia sẻ

19
các tri thức về phát triển, mà còn có điều kiện xây dựng chiến lược phát
triển hiệu quả để xây dựng đất nước giàu mạnh trong tương lai.
3.1.2.4. Hợp tác Văn hóa
Việt Nam và Hàn Quốc có một điểm tương đồng đặc biệt, đó là trong
suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, hai nước đã trải qua nhiều biến cố và
khủng hoảng trong nước cũng như quốc tế, nhưng vẫn tự hào khi bảo tồn
được truyền thống và văn hóa của riêng mình. Quan hệ Hàn Quốc-Việt
Nam trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch đã phát triển vượt bậc trong
vòng 20 năm nay, đặc biệt là 10 năm gần đây nhất, đúng thực chất và đúng
định hướng, cân bằng và đa dạng về mức độ, tăng cường về mức độ, phạm
vi và chiều sâu. Các chuyến viếng thăm giữa hai nước ngày càng được tăng
cường một cách ấn tượng tương ứng với trao đổi kinh tế. Bên cạnh các hoạt
động hữu nghị, hai nước cũng chú trọng kêu gọi sự trợ giúp của các tổ chức
phi chính phủ Hàn Quốc.
Thời gian gần đây, Việt Nam là một trong số các nước có công dân kết
hôn với người Hàn Quốc đông nhất. Tuy nhiên, nhiều vấn đề nảy sinh trong
các gia đình đa văn hóa, xuất phát từ sự khác biệt ngôn ngữ, văn hóa ẩm
thực và nhận thức của người phụ nữ về địa vị xã hội của họ. Với tầm nhìn
hướng tới một xã hội toàn cầu hóa tiến bộ trong thế kỷ 21, người Hàn Quốc
cần nhận thức rõ rằng đất nước họ phải trở thành một xã hội đa dân tộc, đa
văn hóa và đa ngôn ngữ. Để làm được điều này, cần tăng cường giáo dục và
nâng cao nhận thức cho người dân, xây dựng chính sách hỗ trợ các cặp vợ

chồng và con cái họ để họ có thể trở thành những nhân tố xây dựng nền
tảng đa văn hóa trong gia đình, đóng vai trò quan trọng trong quan hệ Hàn
Quốc-Việt Nam trong tương lai.
3.1.2.5. Động lực đằng sau sự Phát triển nhanh chóng của Quan hệ song
phương
Thứ nhất, hai nền kinh tế của hai nước có tính tương hỗ lẫn nhau. Thứ
hai, Hàn Quốc và Việt Nam có vị trí địa lý gần nhau. Thứ ba, Hàn Quốc và

20
Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về văn hóa. Cuối cùng là “sự đồng
thuận chiến lược” – cả Hàn Quốc và Việt Nam đều có chung mối quan tâm
đối với hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung trong khu vực Đông Bắc Á
và Đông Nam Á.
3.2. Cơ hội và Thách thức đối với Quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam hiện nay
3.2.1. Cơ hội trong Quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam
Mối quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam hiện tại không còn “bình thường” nữa
mà đã trở nên hết sức đặc biệt – theo cách nói của các lãnh đạo cấp cao và
nhân dân hai nước, đó là sự kết hợp giữa tình bạn, tình anh em và thậm chí
là quan hệ thông gia. Việt Nam đang trở thành đối tác quan trọng nhất của
Hàn Quốc tại khu vực Đông Nam Á. Trong khi đó đối với Việt Nam, Hàn
Quốc có vai trò là hình mẫu về phát triển kinh tế cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tới năm 2020. Hơn nữa, giữa hai quốc gia
có mối quan hệ tương hỗ, phức hợp và liên kết chặt chẽ. Đặc biệt, chính
tình cảm ấm áp và nhiệt huyết giữa nhân dân hai nước đã dẫn đường cho sự
phát triển rực rỡ của mối quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam trong vòng 20 năm
trở lại đây. Trong bối cảnh quốc tế mới, ưu tiên hàng đầu trong chính sách
ngoại giao của hai nước là thúc đẩy quan hệ thông qua hợp tác chính sách
cân đối và hài hòa. Nhằm đạt được các mục tiêu trên, hai nước cần hợp tác
xây dựng đường lối cho quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện, lâu dài”
3.2.2. Thách thức đối với quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam

3.2.2.1. Thách thức tầm khu vực và toàn cầu
Nói ngắn gọn, có 5 thách thức chính mà hai nước cần cùng nhau vượt
qua trong tương lai như sau:
1) Tái cấu trúc của trật tự thế giới và quản trị toàn cầu
2) Sự lớn mạnh của Trung Quốc trong khi Mỹ dần suy yếu
3) Viễn cảnh bất ổn của nền kinh tế thế giới
4) Những vấn đề mới nổi trong quan hệ ngoại giao truyền thống tại khu
vực Đông Á

21
5) Vấn đề vũ khí hạt nhân trên bán đáo Triều Tiên
3.2.2.2. Thách thức trong Khuôn khổ Quan hệ Song phương
1) Thâm hụt Thƣơng mại
Giá trị thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc đang ngày
càng tăng, nhưng cũng gây ra thâm hụt thương mại mặc dù ngành xuất khẩu
của Việt Nam không ngừng phát triển. Nhằm giảm thâm hụt thương mại,
Hàn Quốc cần tăng vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp phụ trợ và lĩnh
vực phân phối nông lâm thủy sản tại Việt Nam. Xúc tiến thương mại trong
các lĩnh vực này cũng cần được tăng cường. Việt Nam cần thúc đẩy xuất
khẩu các mặt hàng nông, thủy sản có chất lượng cao tới thị trường Hàn
Quốc.
2) Gia đình đa Văn hóa
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, số lượng các gia đình văn hóa ngày càng
tăng. Hiện nay Việt Nam là một trong số các nước có công dân kết hôn với
người Hàn Quốc đông nhất. Hôn nhân quốc tế gia tăng nhanh chóng chỉ
trong vài năm gần đây phần nào gây ra những xung đột và tai nạn đáng tiếc
do khác biệt văn hóa trong gia đình. Đây là vấn đề nhạy cảm, có thể ảnh
hưởng tiêu cực đến quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam về lâu dài. Do đó các cơ
quan có liên quan của hai nước cần tìm ra giải pháp khả thi để giải quyết
vấn đề này.

3) Thiếu cân bằng trong Trao đổi văn hóa
Ở Việt Nam ngày nay tràn ngập làn sóng Hàn Quốc và tư tưởng “học hỏi
tấm gương Hàn Quốc”. Trong vòng một thập kỉ nay, ảnh hưởng của làn
sóng Hàn Quốc, đặc biệt là đối với giới trẻ Việt Nam, đang trở thành một
hiện tượng. Trái lại, văn hóa Việt Nam chưa được phổ biến rộng rãi tại Hàn
Quốc. Người dân Hàn Quốc mới chỉ biết đến một số nét văn hóa nổi bật của
Việt Nam như áo dài hoặc phở. Do đó, Việt Nam cần tăng cường tổ chức
các hoạt động văn hóa tại Hàn Quốc để phổ biến văn hóa Việt Nam ngang
tầm với làn sóng Hàn Quốc tại Việt Nam.

22
3.3. Triển vọng Quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam trong thế kỷ 21: Tầm
nhìn mới
3.3.1. Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược và Triển vọng
Hiện tại Việt Nam đang tập trung tìm kiếm giải pháp thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Về đối ngoại, Việt Nam đang tăng cường hội nhập với kinh
tế thế giới, ví dụ như tham gia vào TPP. Việt Nam cũng cố gắng củng cố
lĩnh vực tài chính trong nước thông qua các biện pháp như tái cơ cấu các cơ
quan tài chính yếu kém và tái thiết doanh nghiệp nhà nước với “chương
trình cải cách thứ hai”.
Trong khi đó, Hàn Quốc vẫn phải đối mặt với những di sản lỗi thời của
Chiến tranh Lạnh còn tồn tại trên bán đảo Triều Tiên. Vấn đề hạt nhân tại
Bắc Triều tiên đang trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất tới hòa
bình và an ninh thế giới. Hàn Quốc cần sự trợ giúp của Việt Nam về vấn đề
thống nhất hai miền Triều Tiên. Rõ ràng Hàn Quốc cần nỗ lực tái định hình
và cải cách chính sách đối ngoại nhằm thích ứng nhanh chóng với trật tự thế
giới đang thay đổi và tối đa hóa lợi ích quốc gia trong thế kỷ 21. Và dĩ nhiên
Việt Nam cũng cần làm điều tương tự trong quá trình phát triển kinh tế. Dựa
trên xây dựng niềm tin, hai nước cần tham gia tích cực vào “đối thoại chiến
lược”, và thảo luận về những vấn đề có thực một cách thẳng thắn, cởi mở,

ngay bây giờ và trong tương lai. Lãnh đạo hai nước cần có tầm nhìn xa hơn
những việc họ cần làm khi còn trong nhiệm kỳ. Họ cần có tầm nhìn dài hạn
tới 20 hoặc 50 năm để thúc đẩy quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam.
3.3.2. Các nguyên tắc chung
Nhằm đạt được quan hệ “Đối tác Hợp tác Chiến lược” dài hạn trong thế
kỷ 21, quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam cần được xây dựng dựa trên nguyên tắc
cơ bản về lợi ích chung và tôn trọng lẫn nhau, phục vụ nền hòa bình, ổn
định, an ninh và thịnh vượng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và
thế giới nói chung. Quan hệ giữa hai nước cần được củng cố theo cách mà
không gây ảnh hưởng đến quan hệ với các cường quốc trên thế giới như

23
Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Nga. Cơ sở cho mối quan hệ lâu dài
Việt-Hàn là nâng cấp quan hệ về các lĩnh vực kinh tế, chính trị và an ninh.
Đồng thời luôn phải đặt vấn đề lợi ích quốc gia lên trên hết trong mọi
trường hợp. Cũng cần xem xét các yếu tố lịch sử và quan hệ hữu nghị
truyền thống. Nói cách khác, Việt Nam cần tránh những suy nghĩ quá cứng
rắn và duy vật về quá khứ khi Hàn Quốc tham chiến tại Việt Nam. Có thể
lạc quan về điều này. Nhân dân Việt Nam, dù không bao giờ lãng quên quá
khứ, vẫn muốn khép lại quá khứ, hướng về tương lai với hi vọng hòa giải và
hòa hợp với các quốc gia khác trên thế giới.
3.3.3. Những kiến nghị nhằm làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác Chiến lược
1) Vạch ra tầm nhìn dài hạn dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau
2) Nỗ lực phát huy điểm mạnh và khắc phục hạn chế trong các cơ chế
hợp tác hiện nay, xây dựng cơ chế hợp tác dựa trên sự hỗ trợ và giúp đỡ lẫn
nhau nhằm phục vụ lợi ích của cả hai nước và thúc đẩy quan hệ bền vững
lâu dài.
3) Nỗ lực củng cố quan hệ hợp tác trong khu vực Đông Á, xây dựng
cầu nối cho đối thoại và hiểu biết lẫn nhau giữa các cường quốc như Mỹ và
Trung Quốc.

4) Hỗ trợ Bắc Triều Tiên trên con đường bình thường hóa đất nước và
hội nhập với cộng đồng quốc tế thông qua đổi mới và cải cách.
5) Hợp tác ứng phó với các vấn đề toàn cầu như an ninh năng lượng,
biến đổi khí hậu và an ninh lương thực.

×