Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

so sánh nghệ thuật trong ca dao dân ca trử tình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.58 KB, 12 trang )

SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI.
Trường THPT Điểu Cải.
……… o0o………
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: SO SÁNH NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO DÂN CA
TRỮ TÌNH VIỆT NAM.

NGƯỜI THỰC HIỆN

1
Gv: Bùi Thò Phương Hoa
PHẦN MỘT: DẪN LUẬN
Ca dao dân ca (CDDC)trữ tình là “tiếng hát đi từ trái tim lên
miệng”, phản ánh trực tiếp những cảm xúc,tâm trạng của con người trức
thực tại cuộc sống. Nó là tiếng hát tiếng ngân vang của thế giới nội tâm
con người. Đó là tiếng hát của tình yêu quê hương , làng xóm, tình yêu
đôi lứa,tình cảm gia đình,tình cảm xã hội với tất cả những sắc thái, cung
bậc của nó: nhớ ,thương, yêu, ghét, giận hờn, hạnh phúc, cay đắng.
CDDC trữ tình là “hòn ngọc qúy”, là tài sản văn hóa vô giá của dân tộc
trong quá khứ.Nó sẽ luôn có mặttrong các nền văn hóa tương lai sau này
của chúng ta. Vì vậy đồng chí Lê Duẩn đã nhận đònh: “ và nay mai dù
cho đến khi chủ nghóa cộng sản thành công thì câu ca dao Việt Nam vẫn
rung động lòng người Việt Nam hơn hết”.
Sức sống mạnh mẽ, bất diệt của CDDC trữ tình được tạo nên bởi
nhiều giá trò, mà trước hết và chủ yếu là giá trò nội dung và nghệ thuật.
Trong các đặc trưng nghệ thuật của thể lọai này phải kể tới biện pháp so
sánh. Không phải ngẫu nhiên mà CDDC có nơi còn gọi là hát ví “ nhữnh
câu hát ví chất ba đình” đầy nghệ thuật so sánh đã tạo ra rất nhiều cách
nói,cách diễn đạt với nhiều sắc thái tinh tế khác nhau để biểu thò nội
dung ca dao, làm cho việc diễn đạt trở nên sâu sắc, phong phú, sinh
động, bóng bẩy và tế nhò. Bằng thế giới hình ảnh so sánh vừa đa dạng,


dồi dào vừa thân thuộc, gần gũi, những ý niệm trìu tượng, mơ hồ như
những cung bậc tình cảm: yêu, ghét… chẳng hạn được cụ thể một cách
độc đáo, sâu sắc và bình dò.
Biện pháp so sánh góp phần quan trọng trong việc tạo nên sức sống
mãnh liệt cho ca dao, chúng ta sẽ khám phá được những liên tưởng độc
đáo, bất ngờ và lối nói quen thuộc nhưng sắc sảo của người lao động, từ
đó cảm nhận được đặc thù về tư tưởng, tình cảm của họ.
2
Chính vì vậy, tìm hiểu và nghiên cứu các vấn đề thuộc thi pháp ca dao
mà cụ thể là biện pháp so sánh nghệ thuật là cần thiết và rất có ý nghóa
đối với việc nghiên cứu nội dung và nghệ thuật ca dao cũng như đối với
với việc giảng dạy thể lọai này ở trường phổ thông.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, tôi bắt đầu từ việc xác đònh khái
niệm so sánh nghệ thuật trong ca dao.
Biện pháp so sánh nghệ thuật trong ca dao dân ca sẽ được tôi
nghiên cứu theo quan điểm nghiên cứu ngành. Cụ thể là vận dụng những
tri thức, phương pháp của ngành nghiên cứu văn học, ngôn ngữ học và
văn học dân gian để tìm hiêu vấn đề.
3
PHẦN HAI: NỘI DUNG
HÁI NIỆM SO SÁNH NGHỆ THUẬT
I. Khái niệm so sánh nghệ thuật và so sánh nghệ thuật trong
CDDC.
Một trong những con đường chủ yếu nhất để nâng cao hiệu quả của
ngôn ngữ là việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật phù hợp với hòan
cảnh nói, viết.Trong các biện pháp tu từ, phải kể tới so sánh nghệ thuật.
So sánh nghệ thuật là một phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một
cách hình tượng dưa trên cơ sở đối chiếu hai hay nhiều đối tượng khác
lọai có dấu hiệu tương đồng nào đó, nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc
tính của đối tượng này qua đặc điểm,thu6ọc tính của đối tượng kia để

ngụ một ý gì, hay gửi gắm một tâm sự gì.
Chính vì thế,so sánh thường có hai vế :
-Vế đầu (tạm gọi là vế A )là đối tượng cần được biểu đạt một cách
hình tượng,hay nói cách khác đi, là chủ thể so sánh.
- Vế sau (tạm gọi là vế B) là đối tượng được dùng để so sánh hay
gọi là hình ảnh so sánh.
Hai vế này thường được nối với nhau bằng các liên tư so sánh:
“như, bằng, hơn, kém, bao nhiêu, bấy nhiêu………”
Qua so sánh, đặc điểm của vế A sẽ được miêu tả, cụ thể hóa qua
đặc điểm, tính chất, màu sắc của hình ảnh ở vế B. Ngược lại, nhờ so
sánh, vế B cũng được nhìn nhận, soi sang từ chính đặc điểm của vế A.
Mối quan hệ ngược lại này còn ít được mọi người chú ý.
Ví dụ: Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em sắc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
4
Qua so sánh, vế A (cổ tay,con mắt, miệng cười, cái khăn ) được thể
hiện bằng những hình ảnh cụ thể. Đây là vấn đề đã được nhiều người
nhìn nhận. Nhưng còn một vấn đề khác, đó là: qua so sánh , vẻ đẹp của
ngà cũng đẹp hơn như vẻ đẹp của màu trắng da tay cô thôn nữ, vẻ đẹp
của hoa ngâu tươi tắn như vẻ đẹp của miệng cười và vẻ đẹp của hoa sen
cũng bình dò, dễ thương hơn như những nếp gấp của chiếc khăn đội
đầu.Rõ ràng hình ảnh ở vế B khi đem so sánh với đối tượng ở vế Athì trở
nên đẹp hơn, có hồn hơn.
So sánh là phạm trù của phong cách học. Hình ảnh so sánh (vế B)
chính là sự miêu tả. Nhiều trường hợp, ca dao không chỉ đưa ra hình ảnh
so sánh mà còn miêu tả cụ thể hình ảnh ấy. Những ví dụ sau đây cho
thấy rõ điều này:
Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày.
“ Hạt mưa” là hình ảnh so sánh. Nó được miêu tả cụ thể hơn ở câu
ca dao tiếp theo nhằm làm nổi bật thân phận vô đònh của nó.
Hay: Thân em như lá đài bi
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương.
“ lá đài bi” là hình ảnh so sánh. Và cuộc đời vất vả,cực nhọc của
nó được miêu tả rất rõ ở câu tiếp theo.
Ta thường gặp trong ca dao rất nhiều bài như vậy.
Có khi để miêu tả một sự vật, hiện tượng, tâm trạng, người ta
không dừng lại ở một hình ảnh so sánh mà mở rộng thành hai, thành ba…
Các hình ảnh này liên tiếp nhau, bổ sung nghóa cho nhau.
Xin dẫn ra một vài ví dụ:
- Nhớ chàng như bút nhớ nghiên
Như mực nhớ giấy, như thuyền nhớ sông.
Nhớ chàng như vợ nhớ chồng,
Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây.
- Trông em như lửa trông lư,
Như mực trông giấy, như ngư trông mồi.
5
- Đôi ta như chỉ mới xe,
Như trăng mới mọc, như tre mới trồng.
Trong ca dao, những bài sử dụng nhiều hình ảnh sosánh liên tiếp
như thế rất nhiều. Cách sử dụng này có tác dụng nhấn mạnh ý nghóa của
bài ca.
Nói gọn lại, so sánh là cách thức miêu tả các đối tượng ,sự vật một
cách hình ảnh, sinh động.Nhờ hình ảnh so sánh mà các ý tưởng trìu tượng
được cụ thể hóa bởi giữa hai đối tượng so sánh bao giờ cũng có một mối
liên hệ nội tại,một sự liên tưởng về ý niệm bên trong.
CDDC trữ tình sử dụng biện pháp so sánh rất nhiều. Ở thể lọai này,
người sáng tác sử dụng so sánh như một trong những phương thức chủ

yếu để diễn đạt suy nghó, tình cảm của con người một cách sâu sắc, kín
đáo và tế nhò. “Thơ ca trữ tình dân gian là một hệ thống hình ảnh thiên
nhiên và lao động quyện lẫn với cảm nghó và tâm tình của con người. Nó
được sáng tạo ngẫu hứng theo những qui cách so sánh, liên tưởng, phóng
đại, ước lệ và trừng lặp. Thật khó lòng cách bạch được cảnh, tình, người
và việc trong đó”.
Xin dẫn một vài ví dụ:
Có chàng trai nào bày tỏ tình cảm của mình hay hơn, xúc động hơn
chàng trai trong bài ca sau:
Dừng chèo muốn ngỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.
Ai đăng đếm được nước sông bao giờ bởi nó mênh mông và dài
rộng lắm. Chính hình ảnh so sánh “Sông bao nhiêu nước ” với “bấy
nhiêu tình” đã tạo nên cái hồn của bài ca. Tình yêu không còn là một ý
niệm trừu tượng, mơ hồ nữa mà nó sống động dào dạt như chính dòng
nước mênh mông, dài rộng kia. Cũng nhờ hình ảnh so sánh mà các nhân
vật trữ tình diễn đạt được những điều khó nói nhất.
Và cũng khó ai có thể diễn tả dược cái day dứt, rạo rực, xao xuyến
của nỗi nhớ người yêu trong ca dao:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
6
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.
Nỗi nhớ cứ như thiêu như đốt không thôi.
Còn biết bao bài ca trữ tình về tình yêu đối lứa sử dụng biện pháp
so sánh, dú đã trải qua bao thế hệ vẫn thân thuộc gần gũi và luôn được
yêu thích như:
- Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương
-Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây
Như con chèo bẻo xa cạy măng vòi

- Đôi ta như lửa mới nhen,
Như trăng mới mọc như đèn mới khêu.
- Trông ai như cá trông mưa
Ngày đêm tưởng nhớ như đò đưa trông nồm.
Bậu ơi ! Bậu có nhớ không ?
Anh trông ngóng bậu như rồng ngóng mưa.
Cái hay, cái đẹp của những bài ca dao trên chính là nhờ những hình
ảnh so sánh khéo léo, độc đáo ấy. Thiếu những hình ảnh so sánh, những
bài ca này không còn là chúng nữa.
Như vậy có hể nói so sánh chính là một trong những biện pháp
nghệ thuật phổ biến, quan trọng tạo nên cái hay, cái đẹp, sức sống, sức
hấp dẫn của CDDC.
II. Phân biệt so sánh với ẩn dụ và biểu tượng.
n dụ và biểu tượng cũng là một trong những biện pháp nghệ thuật
đặc sắc, tiêu biểu của CDDC trữ tình. Vì vậy cần phân biệt sự khác nhau
giữa so sánh và các biện pháp nghệ thuật này.
n dụ cũng là một phương thức so sánh nhưng là so sánh gián tiếp
bằng cách chuyển đổi lâm thời tên gọi của đối tượng này sang đối tượng
khác trên cơ sở quan hệ liên tưởng về những nét tương đồng giữa hai đối
tượng. Về hình thức, ẩn dụ chỉ có vế so sánh, vì vậy người ta còn gọi ẩn
dụ là so sánh ngâm.
7
Ví dụ, khi diễn tả sự chờ đợi của cô gái với người yêu thì biện pháp
so sánh nói khá rõ ràng, đầy đủ chủ thể so sánh và đối tượng so sánh.
-Em trông anh như cá trông sao
Như lê trông lựu, như đào trông mưa.
Còn biện pháp ẩn dụ thì biểu hiện kín đáo, dường như chẳng nói gì
đến chủ thể của sụ chờ đợi:
-Thuyền ơi có nhớ bến chăng ,
Bến thì một dạ kkhăng khăng đợi thuyền.

Nhưng ai cũng có thể nhận ra chủ thể ấy dựa trên sự liên tưởng đến
những đặc trưng trong tính chất của thuyền và bến.
n dụ khác so sanh chính là ở chỗ không trực tiếp đề cập chủ thể
so sánh mà chỉ gián tiếp nêu ra hình ảnh đem so sánh và để người đọc
(người nghe) tự liên tưởng và tìm ra chủ thể.
n dụ và so sánh chính là một trong những con đường dẫn đến sự
ra đời của biểu tượng là thi liệu để tạo thành biểu tượng. Những hình ảnh
so sánh ẩn dụ được sử dụng nhiều lần với một ý nghóa tương đối ổn đònh,
được cộng đồng chấp nhận sẽ tạo nên biểu tượng.
Nếu ẩn dụ và so sánh nảy sinh nhất thời trong một ngữ cảnh nào đó
và có thể chỉ có ý nghóa trong ngữ cảnh đó thì biểu tượng mang giá trò ổn
đònh, bền vững và khu biệt về ý nghóa; nó khơi gợi một nhóm liên tưởng
về hình ảnh thơ ca trong hệ thống thơ ca cụ thể nào đó. Biểu tượng là
phạm trù không chỉ của phong cách mà của thế giới quan, không chỉ của
hình thửc mà của cả nội dung.
Thế giới biểu tượng trong CDDC trữ tình rất phong phú từ những
biểu tượng của thế giới các hiện tượng tự nhiên như trăng, sao, mây, cỏ
cây, hoa lá, rồng phượng, chim muông…… đến những biểu tượng của thế
giới các vật thể nhân tạo như gương, lược, khăn,áo, thuyền,cầu……
Hãy quan sát biểu tựợng “ con cò” trong các bài ca dao sau:
-Cái cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
8
Ôâng ơi, ông với tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
- Cái cò là cái cò vàng
Mẹ đi đắp đàng con ở với ai ?
- Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Cò vốn là lọai chim rất quen thuộc trên đồng ruộng Việt Nam, rất
gần gũi với cuộc đời lao động của người nông dân.Hình ảnh đó đã đi vào
CDDC.
Song với hình ảnh ẩn dụ trong bài ca dao sau:
-Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai
Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối chẳng ai cho nằm.
Thì “con cò” không mang ý nghóa về hình ảnh người nông dân, mà
nó chhỉ mang ý nghóa nhất thời trong ngữ cảnh này là hình ảnh đáng phê
phán của người chồng hay hành hạ vợ. Hình ảnh “con cò”như trong bài
ca dao này không nhiều và không đựoc trân trọng như “con cò” trong
những bài ca dao trên,không mang ý nghóa về người nông dân nên không
thể trở thành biểu tượng.
“Trúc,mai” cũng là một trong những biểu tượng quen thuộc của
CDDC. Khi thì trúc là hình ảnh của một cô gái xinh xắn:
-Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Có khi “trúc, mai”được dùng để thể hiện tình yêu đôi lứa thắm
thiết. Đó là nỗ nhớ mong da diết:
-Ai đi đường ấy hỡi ai
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm
Tìm em như thể tìm chim
9
Chim ăn bể bắc anh tìm bể đông.
Là niềm vui hội ngộ :
-Hôm nay sum họp trúc mai
Tình chung một khắc nghóa dài trăm năm.
-Trầu này: cúc, trúc, mai, đào

Trầu này thục nữ anh hào sánh đôi.
Là lời nhắn gửi đằm thắm:
-Đợi chờ trúc ở với mai
Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng.
Là lời giận hờn trách móc:
-Những là lên miếu xuống nghè
Để tôi đánh trúc đánh tre về trồng.
Tưởng rằng nên đạo vợ chồng
Nào ngờ nói thế mà lhông có gì.
Nhưng nhìn chung , “trúc ,mai”trong những bài ca trên đều được
dùng với ý nghóa tương trưng cho đôi bạn trẻ trong những câu chuyện
tình thắm thiết.
Nói tóm lại, biểu tượng ẩn dụ và so sánh đều là những biện pháp
nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở của mối quan hệ liên tưởng.Mỗi
biện pháp đều có những đặc trưng riêng rõ rệt: so sánh là đối chiếu trực
tiếp , ẩn dụ là đối chiếu gián tiếp và cả hai chỉ có ý nghóa trong từng văn
cảnh,còn biểu tượng mang ý nghóa ổn đònh trong từng văn cảnh và được
tạo nên bởi chính những hình ảnh so sanh, ẩn dụ.
Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối.
10
PHẦN BA: KẾT LUẬN
Trong đề tài này, tôi đã khảo sát và tìm hiểu về biện pháp so sánh
nghê thuật trong ca dao dân ca trữ tình Việt Nam- một vấn đề thú vò chưa
được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức. Từ các nội dung trình bày
có thể rút ra một số kết luận sau đây:
So sánh nghệ thuật là phương pháp nghệ độc đáo và chủ yếu của ca
dao dân ca để diễn đạt tư tưởng, tình cảm. Nó cụ thể hóa những ý niệm
trừu tượng và làm cho ca dao trở nên sinh động, sâu sắc mà dễ nhớ, dễ
hiểu.
So sánh nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở của sự liên tưởng độc

đáo qua quá trình quan át sự vật, hiện tượng và tìm ra nét tương đồng
nào đó về cảm súc, tâm trạng của con người.
So sánh nghệ thuật có những đặc trưng riêng biệt khác với các biện
pháp nghệ thuật khác. Đó là vì nó bao gồm: Chủ thể so sánh, thế giới
hình ảnh so sánh, các công thức so sánh đặc thù và các liên từ so sánh.
Đặc biệt là hệ thống các hình ảnh so sánh hế sức phong phú, được lặp lại
nhiều lần trong ca dao dân ca góp phần tạo nên các mẫu đề, các công
thức truyền thống cũng như tính dân tộc, tính đòa phương của ca dao dân
ca trữ tình.
Với những đặc điểm ấy, so sánh nghệ thuật đã đóng góp một phần
rất lớn trong việc tạo ra giá trò và sức sống của ca dao dân ca. Nó cũng
góp phần tô đậm đặc điểm tư duy và ngôn ngữ của người Việt Nam: Đó
là kiểu tư duy và ngôn ngữ thích ví von, so sánh.
11
So sánh nghệ thuật trong ca dao mang 03 chức năng chủ yếu: Nhận
thức, thẩm mỹ và biểu cảm.Ba chức năng này có mối quan hệ khăng khít
với nhau trong mỗi bài ca dao và tạo nên cái hồn trong bài ca dao ấy.
Trong đề tài này, bước đầu tôi đã lập từ điển ngữ nghóa cho thế giới
hình ảnh so sánh nghệ thuật trên cơ sở tìm ra những nét nghóa cơ bản và
hệ thống hóa theo những nhóm ý nghóa nhất đònh. Hình ảnh so sánh nghệ
thuật trong ca dao dân ca không phải chỉ có chừng này, ở đây tôi mới
thống kê và hệ thống thử nghiệm. Tôi hy vọng sẽ có điều kiện so sánh,
thống kê tư liệu đầy đủ hơn để từ điển ngữ nghóa này sẽ là tư liệu cần
thiết đối với tôi và những ai muốn tìm hiểu nghệ thuật của kho tàng ca
dao Việt Nam.Trên đây là toàn bộ về khái niệm so sánh nghệ thuật…
12

×