Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

vấn đề nghiên cứu biểu tượng thơ ca trữ tình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.61 KB, 59 trang )

Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
“ Muốn biết tinh thần Việt Nam chân chính, muốn tìm hiểu cái nguồn
sống chảy trong máu dân tộc, chúng ta phải tìm đến văn chương của dân
chúng tuy bình dị nhưng bộc lộ được hết những ý nghĩ tình cảm và hoạt động
của mọi người” (Nguyễn Đình Thi)
Ca dao trữ tình Việt Nam đã hấp dẫn người đọc qua bao thời đại, tìm về
với ca dao là tìm về cội nguồn dân tộc, tìm về kho nhân văn có mồ hôi, nước
mắt và nụ cười của bao thế hệ. Trong hành trình trở về với cội nguồn ấy,
không thể nào bỏ qua việc tìm hiểu nghệ thuật thơ ca dân gian.
“Văn học nhận thức thế giới qua hình tượng nghệ thuật”. Thế giới
nghệ thuật trong ca dao cũng phong phú nhờ thủ pháp ẩn dụ và xây dựng biểu
tượng nghệ thuật. Cũng với những thủ pháp nghệ thuật này, trường liên tưởng
ngữ nghĩa được mở rộng đem lại mầu sắc đa dạng trong những lời ca dao dân
ca. Đây cũng chính là thủ pháp nghệ thuật mang nét đặc trưng tiêu biểu của
thể loại thơ ca trữ tình dân gian. Một hệ thống những biểu tượng thiên nhiên
đã ra đời, trong các biểu tượng về các loài vật nổi bật lên hệ biểu tượng chim.
“Ngay từ buổi đầu dựng nước, con người đã luôn nuôi ước vọng được
vượt ra khỏi không gian quanh mình, được tung cánh lên bầu trời, được tự
do như loài chim trong không trung. Hình ảnh loài chim Lạc đã gắn bó với
người VN ngay từ thuở ban đầu ấy”. (Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải và Karen
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
Phillipps, "Chim Việt Nam") Và hình ảnh những cánh chim trời tự do bay
trong không trung, hay cặm cụi kiếm mồi dưới mặt đất đã rất quen thuộc với
hình ảnh làng quê Việt Nam xưa, và rất tự nhiên,những cánh chim ấy bay vào
trong những câu ca dao trữ tình, thành những mô tip nghệ thuật đầy ý nghĩa.
Chọn phân tích hệ biểu tượng chim trong thơ ca dân gian, người viết muốn
bước đầu tìm hiểu đặc trưng nghệ thuật của thể loại ca dao trữ tình Việt Nam,


từ đó thực hiện “một cuộc du ngoạn trong tâm hồn nhân dân”, để hiểu được
tài năng, trí tuệ sáng tạo và vẻ đẹp tâm hồn tinh tế, phong phú, đầy chất thơ
của con người Việt Nam. Bên cạnh đó, “ca dao là kho trí tuệ của nhân dân”
nên việc tìm hiểu biểu tượng chim trong ca dao cũng góp phần trau dồi vốn
sống, kiến thức, hiểu biết về nhiều phương diện, phục vụ cho thực tiễn sau
này của bản thân.
2. Lịch sử vấn đề:
Sự đa dạng và đặc sắc về hình ảnh và ngôn ngữ ca dao đã thu hút nhiều
công trình nghiên cứu nhìn từ nhiều góc độ: Văn hóa, văn học, ngôn ngữ.
Từ những năm 50, nhà nghiên cứu văn học dân gian Vũ Ngọc Phan đã
đặt ra vấn đề biểu tượng trong cuốn: “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam”, cụ
thể là trong bài viết về hình ảnh con cò cái bống biểu tượng cho người nông
dân Việt Nam”
Cũng từ góc độ văn học, Nguyễn Xuân Kính trong “ thi pháp ca dao”
đã chia các biểu tượng đa dạng trong ca dao thành:
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
- Thế giới tự nhiên (hiện tượng thiên nhiên, thế giới động vật, thực vật )
- Thế giới vật thể nhân tạo (theo bài viết “giá trị biểu trưng nghệ thuật
của các vật thể nhân tạo trong ca dao Việt Nam của Trương Thị Nhàn)
Tác giả cũng đã phân tích một số biểu tượng như: cây trúc – mai, con
cò trên cơ sở so sánh với văn học viết)
Tác giả Phạm Thu Yến trong “ Những thế giới nghệ thuật ca dao cũng
đã bàn về “ Vấn đề nghiên cứu biểu tượng thơ ca trữ tình Việt Nam”
Bàn về từng biểu tượng cụ thể, cũng có những nghiên cứu là những báo cáo
khoa học hoặc đăng trong các tạp chí về biểu tượng “ con cò”, biểu tượng
hoa, biểu tương gừng cay muối mặn…
Dưới góc độ ngôn ngữ, có rất nhiều nghiên cứu về biểu tượng, trong đó
có một loạt nghiên cứu về sự biến đổi ý nghĩa biểu tượng của Ts Nguyễn Thị
Ngân Hoa.

Ở mảng nghiên cứu văn hóa, PGS. TS Nguyễn Thị Bích Hà đã có bài
viết về Mã văn hóa, trong đó có lấy ví dụ về chim là một biểu tượng văn hóa.
Hay bài viết của quyển "Chim Việt Nam" của Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải và
Karen Phillipps / Nhà xuất bản Lao Động - Xã Hội / 2000.
Những nghiên cứu trên đây đã có những đóng góp to lớn trong việc làm
rõ khái niệm, đặc điểm của biểu tượng trong ca dao, tuy nhiên xét về biểu
tượng chim thì chưa có một tác giả nào có sự thống kê, phân loại và phân tích
đầy đủ (chỉ đề cập đến “chim” với tư cách là một hình ảnh quen thuộc trong
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
ca dao). Chính vì vậy, qua quá trình nghiên cứu này, bài viết muốn bước đầu
hệ thống hóa biểu tượng chim trong ca dao, đi sâu vào tìm hiểu ý nghĩa phong
phú của hệ biểu tượng này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Tìm hiểu số lượng biểu tượng và
khái quát hóa ý nghĩa hệ biểu tượng chim.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: So sánh việc sử dụng các biểu tượng
khác nhau và so sánh với văn học trung đại để hiểu sâu hơn về nguồn gốc và
đặc trưng của hệ biểu tượng này trong ca do
- Phương pháp phân tích tổng hợp tư liệu: Để có sự tiếp thu , bổ sung
và phát triển những nghiên cứu đi trước, tìm ra hướng đi riêng cho mình.
- Phương pháp liên ngành: Biêlinxki khẳng định: Thơ văn là loại hình
nghệ thuật cao cấp nhất…do vậy thơ ca mang trong mình tất cả những yếu tố
của những nghệ thuật khác” Việc nghiên cứu biểu tượng chim trong văn hóa
dân gian vì thế mà góp phần vào việc hình thành một cái nhìn nhiều chiều,
sâu sắc về đối tượng nghiên cứu.
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

KHÁI LUẬN CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG
NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO TRỮ TÌNH VIỆT NAM
1.1. Khái niệm biểu tượng:
Biểu tượng (symbole: Tiếng Pháp; Symbol: Tiếng Anh).Nói như
Georges thì “các biểu tượng tiết lộ mà che dấu, và che dấu mà tiết lộ” nên khó
có thể đưa ra một khái niệm thống nhất về biểu tượng.
Trên cơ sở tổng hợp nhiều ý kiến, có thể có một cái nhìn thống nhất về
biểu tượng như sau:
Biểu tượng là một loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa mặt hình thức cảm
tính và mặt ý nghĩa mang tính tất yếu, có lí do.
Mặt hình thức cảm tính: Cái biểu trưng, tồn tại trong hiện thực khách quan
hoặc trong sức tưởng tượng của con người.
Mặt ý nghĩa: Cái được biểu trưng, cái cái được biểu trưng luôn rộng hơn, “
dồi dào hơn”(chữ dùng của Tz. Todorov).
Cụ thể, biểu tượng theo một cách khái quát trước hết là hình ảnh của
thế giới khách quan bên ngoài con người (màu sắc, vật thể, cơ thể…). Với
phương pháp biểu trưng hóa của hoạt động ý thức, con người đã phản ánh sự
vật khách quan vào trí óc của mình, cấp cho nó một ý nghĩa, một thông tin.
Từ đó tạo nên một thế giới bên trong – thế giới ý niệm, đó là thế giới vô hình,
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
vô hạn và vô khả tri. Nó vừa phản ánh thực tại, vừa từ thực tại mà tưởng
tượng, suy luận đem lại cho con người một khả năng vô tận: Khả năng trí tuệ,
khả năng tâm linh, để con người có thể tư duy, thông báo với nhau. Như vậy.
bằng cách mô phỏng tự nhiên, con người đã tự sáng tạo một thể giới biểu
tượng đa dạng, phong phú và vô cùng sống động.
Biểu tượng không chỉ tồn tại trong một ngành khoa học riêng mà còn là
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: Triết học, phân tâm học, mỹ
học, thần học, ngôn ngữ học Theo phạm vi và mục đích nghiên cứu, bài viết
tập trung làm rõ những khái niệm: Biểu tượng văn hóa, biểu tượng văn học

(nghệ thuật), biểu tượng ngôn từ nghệ thuật.
1.1.1.Biểu tượng văn hóa:
Biểu tượng văn hoá là những khái niệm nằm trong lĩnh vực rộng hơn là
môi trường văn hoá. Khi tìm hiểu vấn đề trên ta không thể không liên hệ tới
khái niệm văn hoá. Văn hoá là phức thể các giá trị vật chất, tinh thần do con
người tác động đến tự nhiên, xã hội và bản thân trong quá trình lịch sử dài lâu
mà tạo nên. Nó tích tụ và thể hiện diện mạo, bản sắc của cộng đồng.
Do khái niệm và nội hàm văn hoá rất rộng nên không ai có thể nói rằng
mình đã tìm hiểu đến tận cùng một nền văn hoá. Vì vậy, việc nghiên cứu biểu
tượng văn hóa cũng là một cách chạm đến các yếu tố văn hoá cụ thể để tìm
hiểu tổng thể. Hàng loạt biểu tượng văn hoá đã hoà nhập cùng tín ngưỡng,
hiển hiện ở phong tục, náu mình trong thần tích, kí thác ở tâm linh, ẩn tàng
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
trong văn hoá dân gian, trong nghệ thuật truyền thống mà lí giải được nó sẽ
tạo ra sự hấp dẫn vô cùng, với những giá trị khoa học và nhân văn to lớn mà
nó đem lại. “ Biểu tượng luôn rộng lớn hơn ý nghĩa được gắn cho nó một
cách nhân tạo, nó có một sức nặng cốt yếu và tự sinh. Nó không dừng lại ở
chỗ chỉ tạo nên những cộng hưởng mà còn giục gọi một sự biến đổi theo
chiều sâu” J.Chevalier đặc biệt đề cao vai trò của biểu tượng trong đời sống
văn hóa con người. Biểu tượng văn hóa mang chiều sâu cảm xúc, tính dân
tộc, tính thời đại, gắn liền với “Bè đệm hiện sinh” – môi trường mà biểu
tượng thật sự sống.
Biểu tượng văn hoá: nghĩa gốc là một vật được chia làm hai nửa, mỗi
bên giữ một nửa, khi khớp lại sẽ nhận ra mối quan hệ. Biểu tượng văn hoá là
một loại tín hiệu riêng, có chiều sâu và phong phú hơn tín hiệu văn hoá. Biểu
tượng được hình thành trong một quá trình lâu dài, có tính ước lệ và bền
vững, là cảm quan, nhận thức được lắng đọng, kết tinh, chắt lọc trải qua bao
biến cố thăng trầm vẫn không bị phai mờ mà ngược lại càng khắc sâu hơn vào
tâm khảm con người. Biểu tượng được hiểu như là những hình ảnh tượng

trưng, được cả cộng đồng dân tộc chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong một
thời gian dài. Chính vì thế mà biểu tượng góp phần làm nên bộ mặt của một
nền văn hóa ở những đường nét cơ bản nhất. Đó là một thế giới có sức hấp
dẫn đặc biệt do nó quy tụ nhiều tính chất dường như đối lập nhau: vừa hiển
hiện, vừa tiềm ẩn; vừa bộc lộ, vừa che giấu; vừa rõ ràng, vừa mông lung …
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
Sự tác động, các mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới con người,
những ý nghĩa hàm ẩn mà biểu tượng khơi gợi ra như một quy ước thẩm mỹ
của cộng đồng.
Nhìn từ góc độ văn hóa, những thực thể vật chất và tinh thần(Sự vật,
hành động, ý niệm ) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính
hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp, một hệ thống đặc trưng
cho những nền văn hóa nhất định: Nghi lễ, hành vi kiêng kị, thần linh, trang
phục… Biểu tượng văn hóa có những biến thể loại hình như: Tín ngưỡng,
phong tục, lễ hội, nghệ thuật… Biểu tượng văn hóa bao gồm cả những biến
thể vật thể(trong các ngành nghệ thuật như kiến trúc, hội họa, điêu khắc…) và
phi vật thể (tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, văn học).
Biểu tượng phát triển cùng quá trình tiến hóa của loài người: từ tư duy
cổ đại đến tư duy hiện đại. Chính vì thế mà mỗi dân tộc khác nhau trên thế giới
đều có những biểu tượng riêng, mang một ý nghĩa biểu tượng cho cộng đồng
mình. Tác giả Jean Chevalier khi bàn về ý nghĩa của biểu tượng cho rằng: “
mang tính phổ biến, biểu tượng có khả năng cùng lúc thâm nhập vào tận bên
trong cá thể xã hội. Thấu hiểu được các ý nghĩa của biểu tượng cá nhân hay
một dân tộc tức là hiểu được đến tận cùng con người và tộc chủng”.
Chẳng hạn như nền văn hoá lúa nước ở Việt Nam và Đông Nam Á đã
và đang biểu hiện ra khá đậm nét qua một hệ thống biểu tượng về nước, mặt
trời, lúa, gạo thông qua các công cụ, các trò chơi, qua tín ngưỡng tôn giáo,
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học

phong tục tập quán, văn học nghệ thuật dân gian Cụ thể như tín ngưỡng
phồn thực cũng là một mã văn hoá thể hiện tính bản địa của các nước nông
nghiệp. Phồn: cơ tốt, nhiều; thực: sinh nở con cái, sinh sôi nẩy nở. Tín
ngưỡng này thể hiện ra trong các hoạt động văn hoá theo hai phương thức:
nghi lễ thờ cúng sinh thực khí nam nữ và tôn sùng hoạt động tính giao. Tín
ngưỡng đó thể hiện trong Mã (tín hiệu, biểu tượng) qua các hình thức: tròn –
vuông; âm – dương; chẵn – lẻ; bánh chưng (tét) – bánh giày Nó đi vào nghệ
thuật bằng hình chạm khắc các ngẫu tượng bằng đá hay bằng gỗ; các trò chơi
như trò trám, rước nõ nường, đánh phết; đi vào văn học dân gian với thần
thoại về các đôi nam nữ thần như Nữ Oa – Tứ Tượng, Ông Đùng – Bà Đà,
Ông Thu Tha – Bà Thu Thiên, Ông Đực – Mụ Cái mà các sinh thực khí của
họ được đặc tả và phóng đại về kích thước.(trích theo PGS. TS Nguyễn Thị
Bích Hà, tạp chí văn học số 6/2005)
1.1.2. Biểu tượng văn học:
Biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa.
Trong văn học, nói đến biểu tượng, người ta chú ý đến hai dấu hiệu nhận biết.
Thứ nhất, biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan. Thứ 2,
biểu tượng không chỉ mang nghĩa biểu vật mà nói đến biểu tượng còn là nói
đến hiện tượng chuyển nghĩa, nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm.
Tuy nhiên, biểu tượng có những đặc điểm ý nghĩa khác với những hình
ảnh khác có nội hàm gần gũi là ẩn dụ và hình tượng:
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
1.1.2.1.Phân biệt biểu tượng và ẩn dụ:
Việc xác định ranh giới giữa biểu tượng và ẩn dụ được xem là vấn đề
có tính chất tương đối. Nếu theo hai dấu hiệu nhận biết của biểu tượng trên
đây thì biểu tượng không khác gì ẩn dụ. Do đó, muốn phân biệt rõ biểu tượng
và ẩn dụ trước tiên phải xác định đối tượng. Theo nhà văn Nga V.I. Eremina:
“ Ẩn dụ thơ ca được sinh ra nhất thời và mất đi khá nhanh. Biểu tượng được
hình thành trong quá trình dài và sau đó sống hang trăm năm, ẩn dụ là yếu

tố biến đổi, còn biểu tượng thì không đổ, bền vững. Ẩn dụ là phạm trù thẩm
mỹ và phần lớn tự do tách khỏi phong cách ước lệ. Biểu tượng thì ngược lại,
được giới hạn nghiêm túc bởi hệ thống thi ca xác định.” (kết cấu nghệ thuật
của thơ ca trữ tình dân gian Nga, tạp chí văn học 4, 1999).
Như vậy, ý kiến của nhà văn Nga V.I. Eremina giữa ranh giới ẩn dụ và
biểu tượng thơ ca ở tính biến đổi và bền vững, tự do và ước lệ. “ Có thể nói
rõ thêm, biểu tượng mang tính kí hiệu quy ước, nghĩa là chỉ cần nêu hình ảnh
biểu tượng là người đọc đã hiểu được cái mà nó biểu trưng, không cần yếu tố
giả mã vì nó đã in sâu vào tư tưởng thẩm mỹ dân gian. Còn ẩn dụ tự do hơn,
không chỉ được tạo bằng một hai hình ảnh mà bằng vài ba hình ảnh. Vì thế
các yếu tố cần dựa vào nhau để giải mã ẩn dụ, ẩn dụ linh hoạt, trường liên
tưởng rộng rãi hơn biểu tượng, số lượng nhiểu hơn nhưng không bền vững
bằng(…) Biểu tượng là hình ảnh ẩn dụ được sử dụng ở mật độ cao mang tính
quy ước” (Phạm Thu Yến)
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
Có thể thấy, biểu tượng là khái niệm bao quát, bao trùm cả ẩn dụ, biểu
tượng là việc sử dụng ẩn dụ ở mật độ cao có tính quy ước. Mục đích của việc
phân biệt ẩn dụ và biểu tượng là để người tiếp nhận văn học tránh cách hiểu
đánh đồng hai thuật ngữ trên, bởi trong văn học, cụ thể là văn học dân gian,
có những hình ảnh ẩn dụ chưa đạt đến biểu tượng hay có biểu tượng lại thâu
tóm cả ẩn dụ vào trong nó.
1.1.2.2. Phân biệt biểu tượng và hình tượng:
Biểu tượng và hình tượng cũng đều có giá trị nhận thức cảm tính và chủ
quan trong việc phản ánh thực tại, có phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ,
nhưng lại khác nhau: Sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật không bao giờ
vượt quá giới hạn của hình thức biểu đạt cụ thể (luôn có phương tiện biểu
hiện trọn vẹn nghĩa của hình tượng), còn sự tồn tại của biểu tượng thì lại vượt
quá giới hạn của một sự biểu đạt, biểu nghĩa (nghĩa là không một phương tiện
nào có thể biểu đạt trọn vẹn ý nghĩa của biểu tượng).

Hình tượng bao giờ cũng tách riêng hoặc có xu hướng tách riêng ra
khỏi một hệ thống nào đó để phù hợp với yêu cầu: tự do, hoàn thiện, độc đáo
và khác biệt. Trong khi đó biểu tượng bao giờ cũng nằm trong một hệ thống
nhất định, không thể tách ra đứng độc lập trong nhận thức của con người.
Điểm khác nhau rõ nét nhất là biểu tượng có phạm vi lớn hơn hình
tượng rất nhiều.Với tư cách là khách thể tính thể chứ không phải khách thể
thực tại, hình tượng có một số đặc tính của biểu tượng. Chính yếu tố này
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
khiến cho biểu tượng trong văn học dân gian có khi chỉ là một nhưng lại có
thể diễn tả được nhiều hình tượng. Từ một biểu tượng chim, chúng ta có thể
thấy được một số hình tượng gửi gắm vào đó. Những hình tượng ấy đều có
một số nét liên hệ và phụ thuộc vào biểu tượng. Chính mối dây liên hệ khiến
cho những hình tượng đưa ra có sức sống lâu bền và cũng góp phần làm biểu
tượng sống mãi trong lòng người đọc.
Mặc dù có sự so sánh ẩn dụ, hình tượng, và biểu tượng song những
thuật ngữ trên có mối liên hệ mật thiết với nhau. Không thể tách rời biểu
tượng ra một cách độc lập. Chính vì thế khi nhắc đến ẩn dụ nghệ thuật người
ta cũng nhắc đến ẩn dụ và hình tượng, hình ảnh.
1.1.3. Biểu tượng ngôn từ nghệ thuật:
Các biểu tượng ngôn từ nghệ thuật được cấu tạo lại thông qua tín hiệu
ngôn ngữ trong văn học. Trong phạm vi ngôn từ nghệ thuật, các biểu tượng
triết học, phân tâm, văn hóa, văn học đều được chuyển thành các từ - biểu
tượng (word – symbols).
Các hình thức vật chất cụ thể (sự vật, trạng thái, hành động…) và các ý
niệm trừu tượng trong đời sống tinh thần con người tín hiệu hóa thông qua hệ
thống ngôn từ. Và hệ thống ngôn từ đó còn mở ra cho các biểu tượng những mối
quan hệ mới, hiện thực hóa và phát triển ý nghĩa biểu tượng trong một năng lực
biểu hiện to lớn. Từ đó nảy sinh nhiều biến thể khác nhau. Mối quan hệ giữa các
biến thể và mối quan hệ tương tác ngữ nghĩa trong ngữ đoạn, mối quan hệ với

Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
chủ thể sáng tạo và hoàn cảnh đã tạo nên sự tương tác trong một môi trường văn
hóa- ngôn ngữ, từ đó nhận diện được sự biến đổi ý nghĩa biểu tượng
Ý nghĩa – cái thực thể tinh thần của thế giới trong nhận thức con người
được phản ánh trong ngôn ngữ là vô hạn. Do đó việc sử dụng ngôn từ như
những biểu tượng trong hoạt động sáng tác văn học nói chung và thơ ca nói
riêng có thể gọi là một cách định danh mơ hồ, đòi hỏi một tư duy tưởng
tượng, một cái nhìn khám phá bản thể bị che khuất. Trong văn học, cấu trúc
ngôn từ của thơ ca được xem như một tổng thể các tín hiệu thẩm mỹ, trong đó
vai trò quan trọng thuộc về các từ - biểu tượng với tư cách là những điểm
nhấn trong tổng thể đó.
1.2. Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao Việt Nam:
Ẩn dụ và biểu tượng là hình thức nghệ thuật được sử dụng phổ biến
trong ca dao dân ca. Nhà nghiên cứu văn học Pháp F.Brunettiere với thuyết
tiến hoá luận văn học nhấn mạnh rằng: “Chúng ta có thể thành công trong
việc so sánh các tác phẩm văn học và nghệ thuật với những sáng tạo của
thiên nhiên song chỉ trong ý nghĩa ngôn ngữ hoặc xã hội so sánh với sinh vật,
có nghĩa là không một phút nào được quên rằng đó chỉ là sự so sánh hay
phép ẩn dụ”. Như vậy, xây dựng biểu tượng được coi là một trong những thủ
pháp đắc dụng để con người phát huy tính sáng tạo, tính liên tưởng bay bổng
phong phú của mình tạo giá trị biểu cảm cho những lời ca.
1.2.1.Khái niệm:
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao là những kí hiệu ngôn ngữ được lặp
đi lặp lại nhiều lần, có khả năng biểu hiện những ý nghĩa sâu xa. Biểu tượng
ca dao là những hình ảnh đã được dân gian chọn lọc trong sử dụng và được
thử thách qua nhiều năm tháng, thể hiện đậm nét những đặc trưng truyền
thống của folklore. Con cò, con bống, hạt mưa, ngọn đèn không tắt, tấm

gương mờ là những biểu tượng quen thuộc trong ca dao. Qua thực tế khảo
sát, có thể tập hợp biểu tượng thành những nhóm khác nhau, mỗi nhóm bao
gồm các biểu tượng có liên hệ gần gũi với nhau (do được tạo thành từ cùng
một loại sự vật, hiện tượng). Các biểu tượng cùng nhóm được phân biệt bằng
những khía cạnh, sắc thái, quan hệ khác nhau ở cái biểu đạt, dẫn đến sự khác
nhau trong cái được biểu đạt, hoặc được phân biệt bởi những kết cấu sóng
hợp không giống nhau từ một sự vật, hiện tượng trung tâm.
1.2.2. Mô tip biểu tượng nghệ thuật trong ca dao:
Ca dao dân ca sử dụng một số các hình tượng ẩn dụ quen thuộc của
thiên nhiên đời sống hàng ngày như được khái quát hoá, trở thành các hình
tượng nghệ thuật được thể hiện linh hoạt trong nhiều trường hợp, tạo ra các
ẩn dụ mang nghĩa khác nhau, trong đó có thể phân chia thành biểu tượng đơn
và biểu tượng sóng đôi.
Ths Đặng Diệu Trang (tạp chí văn hóa dân gian số 1, 2006) đã nhận xét:
“ Trong ca dao dân ca, một số các hình tượng ẩn dụ đơn được sử dụng thường
xuyên như: chim, cá, sông, trăng, cau, hoa, bèo, đào và các cặp sóng đôi
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
như rồng - mây, loan - phượng, mận - đào, trúc - mai, bướm - hoa, quế - hồi,
trầu - cau, lan - huệ, cá - nước là những hình tượng có quá trình hình thành
lâu dài, tồn tại độc lập, bền vững, được sử dụng rộng rãi trong nhiều trường
hợp nên đã vượt qua giới hạn của khái niệm ẩn dụ và trở thành biểu tượng” và
cũng có ví dụ cụ thể về biểu tương đơn và biểu tượng sóng đôi trong phạm vi
nghiên cứu về các biểu tượng thiên nhiên trong ca dao như sau:
VD: Biểu tượng đơn - biểu tượng hoa:
Có thể nói, trong ca dao dân ca nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung
một trong những ý nghĩa cơ bản của hoa là biểu tượng cho cái đẹp, cho thân
phận người phụ nữ. Từ ý nghĩa sinh học đa dạng của loài hoa, trường liên
tưởng nghệ thuật của con người được mở rộng trong sự gắn kết giữa vẻ đẹp
của thiên nhiên và con người, tạo nên những sáng tạo nghệ thuật mang ý

nghĩa biểu tượng đặc sắc:
- Vẻ đẹp của người con gái được ví như loài hoa:
Con gái Phượng Hoàng như hoa thiên lí
Con trai thiên hạ có ý thì coi.
- Hoa tươi", "cành hoa nở đong đưa", “hoa nở giữa trời" là cô gái đang
thì xuân sắc:
Ra đường thấy cánh hoa tươi
Giơ tay toan ngắt nghĩ thôi lại ngừng.
Thấy cành hoa nở đong đưa
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
Dang tay ra hái sợ chùa có sư.
- "Bẻ hoa", "hái hoa", "ngắt hoa" được ví von với nghĩa người con gái
mất đi sự trinh trắng:
Dang tay bẻ quặt hoa quỳ
Bốn cành hoa ấy tức thì em trao.
Bởi vì ngắt nhị hoa đào
Đang tay nàng nghĩ thế nào cho xong.
- "Hoa một thì" ngầm ẩn về tuổi trẻ ngắn ngủi của người phụ nữ, về
thân phận một đời hoa sớm nở tối tàn. Số phận họ nổi trôi như “bông hoa cúc
biết vào tay ai":
Hoa mơ hoa mận hoa đào
Kìa bông hoa cúc biết vào tay ai.
Đàn bà như hoa một thì
Chàng mà nghĩ lại thiếp thì được ơn.
Người phụ nữ khi đã lấy chồng, bước qua thời con gái phải âm thầm
chịu đựng bao nỗi cực nhọc, đắng cay, họ được ví với những hình ảnh “hoa
rữa cánh", “ngọc nát hoa tàn", “hoa tàn nhị phai", “cánh hồng tan tác cánh
đào tả tơi", “đầy đoạ cho vầy thân hoa", "hoa thiên lí rơi xuống lầm”:
Hay khi gió thảm mưa sầu

Cho hoa rữa cánh phai màu chàng ơi.
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
- Nói đến người phụ nữ, người ta nói đến cái “số hoa đào” với biết bao
sự ràng buộc:
Ai ơi cái số hoa đào
Cởi ra thì khó buộc vào như không.
Biểu tượng sóng đôi: Những cặp sóng đôi được tạo nên trong sự kết
hợp bền vững của những sự vật hiện tượng thiên nhiên tương đồng với nhau
về phẩm chất, thuộc tính vì vậy trong ca dao dân ca nó là những hình tượng
thích hợp biểu trưng cho sự hoà hợp giữa nam và nữ:
Bướm - hoa có “bướm say hoa", “bướm gần hoa", “bướm lượn vành
bén hoa", “bướm chiều hoa", “hoa bướm tìm nhau", “bướm đậu vườn hoa",
"bướm lượn cành phù du". Rồng - mây có “rồng tìm mây" ,“rồng gặp mây",
"rồng tơ tưởng vì mây". Trúc - mai có “sum họp trúc mai", "lan huệ sánh
trúc mai", "trúc với mai", “trúc nhớ mai", “miếng trầu nên trúc nên mai",
“gió trúc mưa mai". Quế – hồi: “quế sánh với hồi", “quế tơ tưởng vì hồi".
Trầu - cau: “trầu bám cau", “giầu tơ tưởng vì cau", “có trầu có cau", “liền
giầu với một chẽ cau". Mận - đào: “mận hỏi đào”, “mận sánh với đào", “mận
mận đào đào bên nhau". Cá - nước: "cá lên khỏi nước chịu khô", “nước lên
cá đối ăn theo".
Cũng khảo sát trong ca dao. Nguyễn Xuân Kính đã ghi nhận 7 nhóm
biểu tượng:
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
1. Trăng, sao, mây, gió (hiện tượng tự nhiên)
2. Có cây, hoa lá (thế giới thực vật)
3. Rồng phượng, chim muông (thế giới động vật)
4. Áo, khăn, gương, lược, mũ, giày (các đồ dùng cá nhân)
5. Chăn, chiếu, giường, mâm, bát… (các dụng cụ sinh hoạt gia đình)

6. Thuyền, lưới, đó, lờ, gàu…các công cụ sản xuất)
7. Nhà, đình, cầu… (các công trình kiến trúc)
Trong đó, ba nhóm đầu là những biểu tượng thuộc thế giới các hiện
tượng thiên nhiên, tự nhiên; bốn nhóm sau là những biểu tượng của thế giới
nhân tạo.
Những cách phân loại trên đều đã cho thấy diện mạo phong phú của
biểu tượng trong ca dao, và nó có khả năng bao hàm được hầu hết các biểu
tượng. Mỗi một hình ảnh trong cuộc sống đều có sự hóa thân kì diệu của nó.
Nói đến nghệ thuật, không thể nói đến một thế giới nguyên sơ thô ráp hiển
hiện mà phải giống như một nhà khai thác quặng quý đi tìm cái cốt lõi tinh
túy, cái thế giới của sự hóa thân, nâng nó lên thành đỉnh cao của tâm hồn con
người và vạn vật.
Văn chương không nằm ngoài vòng quay ấy, để biểu hiện một hình
tượng nghệ thuật, văn chương cần đến những biểu tượng của hình tượng đó.
Văn học viết và văn học dân gian đều chất chứa vô vàn biểu tượng khác nhau,
trong đó hệ biểu tượng chim thuộc bộ phận biểu tượng thế giới động vật, thế
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
giới tự nhiên có đóng góp như một nhiều hình ảnh gợi cảm, nhiều ý nghĩa
khái quát và sâu xa, góp phần tạo nên một thế giới nghệ thuật phong phú
trong thơ ca dân tộc.
CHƯƠNG 2
KHẢO SÁT TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Thống kê, phân loại:
2.1.1.Thống kẻ:
Phạm vi khảo sát: Cuốn “ Tục ngữ ca dao Việt Nam” (Vũ Trọng Phan)
Đối tượng khảo sát: Hình ảnh chim nói chung và các loài chim xuất hiện
trong ca dao (Không phải các loài chim được gắn liền với các đồ dùng sinh hoạt
hay các vật chất cụ thể như: Hình ảnh phòng loan, gối phượng, gót loan…)
Con số thống kê:

Số lượng khảo sát 1350 câu 100%
Số câu xuất hiện biểu
tượng chim
(hơn) 100 câu 7,40 %
Số lần xuất hiện: khoảng 180 lần
Kiểu loài: hơn 20 loại chim các loại
Điều đó cho thấy biểu tượng chim xuất hiện trong ca dao với một tần số
cao. Cùng với các biểu tượng khác trong ca dao, nhóm biểu tượng chim cũng
mang giá trị thẩm mỹ rõ rệt. Bên cạnh những lần xuất hiện với lớp nghĩa đen
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
thuần túy, trong nhiều trường hợp, các loài chim còn được dân gian khoác
cho lớp nghĩa biểu tượng.
2.1.2 .Phân loại:
Biểu tượng là hình thức nhận thức cảm tính nên khó có thể có một cách
phân loại biểu tượng khoa học và tuyệt đối. Xét một cách tương đối, biểu
tượng chim có thể được phân loại một cách cụ thể theo những cách sau:
Theo hình thức biểu tượng và kiểu loài:
Biểu tượng đơn Biểu tượng sóng đôi
Cò, nhạn, cuốc, quyên, vạc, hạc,
công, quạ, sáo, đa đa, én, bồ câu
(chim cu), oanh, chiền chiện, chèo
bẻo, phượng hoàng, chim Việt…
Cuốc – quyên
Loan – phượng

Theo màu sắc:
Nhiều nhất là hình ảnh chim xanh, ngoài ra còn nhiều hình ảnh chim
hồng, chim trắng.
Theo đặc điểm hoạt động và sinh sống:

Chim kêu, chim rừng, chim bay, chim lạc bầy, chim đỗ, chim đậu, chim
về núi, chim xa tổ, chim nhớ tổ, chim vào lồng, chim non…đặc biệt có biểu
tượng: “chim khôn”
Theo ý nghĩa biểu tượng:
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
- Biểu tượng cho quê hương và cuộc sống ấm no, thanh bình, trù
phú(đàn cò, đàn chim, cánh cò, bồ câu, chiền chiện, chim Việt…)
- Biểu tượng của tình yêu - sự sum họp - hạnh phúc lứa đôi(loan
phượng, chim quyên, đàn cò)
- Biểu tượng cho con người: Người nông dân, người con trai, người con
gái, trẻ nhỏ(con cò, vạc, hạc, sáo, quạ, công, chim xanh)
- Biểu tượng cho những thói hư tật xấu trong xã hội (cò, quạ, bìm bịp,
tu hú…)
- Biểu tượng cho ước mơ khát vọng của con người (bồ câu. Phượng
hoàng, én, nhạn…)
Ngoài ra có thể phân loại theo những biến thể biểu tượng, phần
này sẽ được tập trung trình bày trong chương III.
2.1.3. Nhận xét:
Qua việc thống kê, phân loại ta thấy hệ biểu tượng chim được sử dụng
rất nhiều trong ca dao, đặc biệt là các loài chim đồng nội, gần gũi với đời
sống của người dân Việt Nam. Những điều này có liên quan đến tư duy cổ
xưa của nhân dân ta. Ngoài ra các biểu tượng ước lệ như: loan, phượng, chim
Việt…cho thấy sự ảnh hưởng của văn học Trung đại trong văn học dân gian.
Chính vì thế khi khảo sát biểu tượng chim trước hết phải đi từ nguồn gốc, tìm
hiểu nguyên nhân của việc sử dụng hệ biểu tượng chim trong ca dao.
2.2.Tìm hiểu nguồn gốc của việc sử dụng biểu tượng chim trong ca dao:
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
Kết quả thống kê phân loại cho thấy hệ thống biểu tượng chim trong ca

dao không chỉ xuất hiện với số lượng khá lớn mà còn có ý nghĩa rất đa dạng
phong phú. Để lý giải điều này có thể xuất phát từ đặc trưng đối tượng của
nghệ thuật, đồng thời trên cơ sở mối liên hệ với lối tư duy, tín ngưỡng, tôn
giáo (đời sống văn hóa nói chung) của người xưa.
2.2.1. Biểu tượng chim đã xuất hiện từ rất lâu đời trong ca dao với tư
cách là sản phẩm của tín ngưỡng, quan niệm, tư duy người Việt cổ.
“Thực tiễn sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu của nhân dân ta thời
nguyên thủy đã được phản ánh vào lĩnh vực tinh thần theo một thế giới quan
đậm màu sắc linh luận. Và tôtem giáo đã nảy sinh từ đấy” (văn học dân gian
Việt Nam – Đinh Gia Khánh).
Trước các hiện tượng tự nhiên vĩ đại và bí hiểm, người dân thời nguyên
thủy rất tôn sùng thiên nhiên, họ thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên, có
xu hướng muốn gần gũi, tạo mối quan hệ ruột rà giữa con người với tự nhiên.
Vì thế mà nảy sinh quan niệm về “ Vật tổ”.Người Việt có câu: Nhất điểu, nhị
xà, tam ngư, tứ tượng. Chim, rắn, cá sấu là những loài vật phổ biến nhất trong
vùng sông nước nên được sùng bái hàng đầu. Theo truyền thuyết thì tổ tiên
người Việt thuộc họ “ Hồng Bàng” và là “ giống Rồng Tiên” (Thành ngữ “
con Hồng cháu Lạc, con Rồng cháu Tiên) . Hồng Bàng nghĩa là loài chim
nước lớn (chữ hồng ghép với chữ giang là sông nước, và chữ điểu là chim,
bang là lớn). Tiên Rồng là một cặp đôi vật tổ theo lối triết lí âm dương, trong
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
đó Tiên được trừu tượng hóa bằng giống chim, cho nên mới có truyền thuyết
mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng.
Nếu người Kinh cho rằng quả trứng là kết quả của cuộc hôn phối cạn –
nước (chim – rắn) thì trong sử thi thần thoại Đẻ đất đẻ nước, người Mường
quan niệm Trứng Điếng là trứng giống, trứng nòi, trứng đẻ ra con người, là
một trong hàng trăm nghìn trứng do chim Ây cái Ứa đẻ ra, cách đẻ ấy cũng
mang tầm vũ trụ thần thiêng đặc biệt:
Cà rầm Trứng Điếng đẻ Đá Cài

Cà rài Trứng Điếng đẻ ra Đá Cần
Giữa đêm đẻ Dạ Kịt
Đẻ ra nhộn nhịp các tiếng
Nhỏ nhẻ tiếng Đáo (Kinh)
Nháo nhác tiếng Ngô, tiếng Lào
Lao nhao tiếng Mọi (Mường)
Như vậy trong tư duy của người cổ xưa, con chim đã là loài vật thiêng
liêng, quan trọng trong cuộc sống của con người. Là nguồn gốc, cha mẹ loài
người Chính vì thế mà chim được thờ nhiều trong đền chùa, và biểu tượng
chim xuất hiện trong kiến trúc điêu khắc, hội họa, nghệ thuật:
Một trong bốn con vật linh thiêng (tứ linh) của người phương Đông là
chim Phượng được thờ trong đình chùa. Tranh tượng hạc và công được xem
như biểu tượng của trường thọ, niềm vui, may mắn và hạnh phúc lứa đôi.
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
Chim hạc còn được coi là con vật đưa linh hồn người vào thế giới bên kia "
cưỡi hạc quy tiên". Trong những điệu nhảy tôn giáo hiện vẫn còn tồn tại trong
đời sống của các dân tộc VN, ta cũng thấy các vũ điệu chim. Tượng chim khá
phổ biến trong các trang trí đình chùa, ví dụ như chùa Phật Tích(Bắc Ninh)
xây dựng vào thế kỷ XI, trên các cột đá chạm ta thấy có hình đầu người mình
chim. Trong các chùa Kh'mer ở Nam Bộ, người ta thờ tượng chim thần Maha
Krút, còn ở các chùa Chăm ở miền Trung thờ chim thần Garuda(là một vị
thần đầu chim mình người). Hoạ tiết ưa thích nhất của người Việt cổ cũng là
các loài chim. Trên các di chỉ khảo cổ tìm được ở các niên đại từ khoảng
2000 đến 4000 năm trước, chúng ta đều thấy có các hình chim. Trên các trống
đồng, thạp đồng hay đồ gốm sứ của các di chỉ Đồng Đậu(Vĩnh Phú), Đình
Tràng(Hà Nội), Đông Sơn(Thanh Hoá), Miếu Môn(Hà Tây) thường có hình
chim Lạc.
Văn học dân gian với tư cách là sản phẩm của văn hóa tinh thần và tư
duy của người dân từ buổi sơ khai của lịch sử loài người đến nay, nên biểu

tượng chim đã xuất hiện từ rất lâu đời trong ca dao, phản ánh con người và
thế giới tự nhiên xã hội bên ngoài con người: chim được nhân cách hoá để thể
hiện mọi mặt của cuộc sống, từ cái thiện đến cái ác, từ phản diện đến chính
diện (những con chim tốt giúp người như trong chuyện "Cây khế", "Tấm
Cám" đến chim độc ác hại người trong chuyện"Thạch Sanh" ) Người Việt
xưa có óc quan sát rất tinh tế nên trong kho tàng truyện cổ tích VN đã có
Tiểu luận cuối kỳ Trịnh Mai Phương - K55A Việt
Nam học
nhiều lời giải thích dí dỏm về nguồn gốc và tập tính của các loài chim như"sự
tích chim tu hú", "sự tích chim bắt cô trói cột", "sự tích chim thù thì", "gà
mượn mào vịt"…
Trong văn học dân gian của các dân tộc thiểu số, hình ảnh chim cũng
xuất hiển rất nhiều. Người Thái triết lý:"Đời người như ngựa chạy, làm ăn
như én bay". Trong dân ca của các dân tộc Tây Nguyên, điển hình là trường
ca Đan Sam nổi tiếng ta có thể gặp hình ảnh cánh chim được lặp đi lặp lại
như biểu tượng của lòng dũng cảm, tính trung thực và của tự do
Hơn nữa, trong thực tế, nhân dân ta xưa chịu ảnh hưởng của quan
niệm‘Vạn vật hữu linh”. Chính vì thế mà hình ảnh chim trong ca cao trở nên
rất sinh động và có hồn. Chúng được miêu tả trong sự vận động, đối xứng với
sự vận động của con người. Trong mỗi câu ca dao, chim luôn nằm trong mối
quan hệ thẩm mĩ với con người, làm tăng thêm sự biểu đạt cảm xúc của chủ
thể. Quan trọng, chủ thể ở đây không phải là cái riêng, cái đơn nhất mà là
tiếng chung cho cả cộng đồng, thể hiện tình cảm, tâm trạng, thế giới tinh thần
của nhân dân, dân tộc.
2.2.2. Biểu tượng chim là sự biểu hiện sinh động hình ảnh cuộc sống
đời thường của người dân lao động:
Điều làm nên sức sống của văn học dân gian là ở chỗ văn học dân gian
nẩy mầm phát triển giữa cuộc sống hàng ngày: “ Nghệ thuật là cuộc sống”
và “ cuộc sống cũng là nghệ thuật”. Tính chất của hình ảnh chim trong thực

×