Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Giải pháp nguồn nhân lực với phát triển thương mại sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.13 KB, 28 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI SẢN PHẨM XUẤT
KHẨU CHỦ LỰC CỦA TỈNH VĨNH PHÚC
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của thế giới, bất kỳ quốc gia
nào đi ngược lại với dòng chảy này đều không thể tồn tại và phát triển. Hội nhập kinh tế
quốc tế mở ra một môi trường mới thuận lợi hơn cho các quốc gia tham gia vào nó, giúp
các quốc gia phát huy được thế mạnh và bù đắp cho nhau những thiếu hụt…thông qua sự
phát triển về thương mại tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển. Sự phát triển vựợt
bậc của một số quốc gia trong những thập niên vừa qua đã chứng tỏ sức mạnh của sự lan
tỏa vốn, công nghệ, kinh nghiệm thông qua hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta đã biết năm 1868, Thiên Hoàng Minh Trị của Nhật Bản đã đưa ra công
thức để phát triển đất nước Nhật Bản:"Truyền thống Nhật Bản + Kỹ thuật phương Tây".
100 năm sau, Nhật Bản từ một nước phong kiến lạc hậu, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn
đã vươn lên thành người khổng lồ về kinh tế, thế giới đã gọi đây là “sự thần kỳ Nhật
Bản”. Và một trong những bí quyết thành công của cuộc cải cách Minh Trị chính là ở sự
học hỏi phương Tây những gì tiên tiến nhất.
Chúng ta cũng đã được chứng kiến sự phát triển của Đài Loan trước đây, là một
vùng lãnh thổ của Trung Quốc: năm 1949 Quốc dân Đảng thua rút chạy ra Đài Loan, cơ
sở vật chất kỹ thuật hầu như không có gì, nhờ ngoại viện của Mỹ cùng với sự trọng thị
của chính quyền Đài Loan đối với giới trí thức, giới kinh doanh, lãnh thổ đài Loan 40
năm sau đã vươn lên trở thành một trong những con rồng của Đông Á. Bài học thành
công ở đây là: sử dụng hiệu quả nguồn vốn bên ngoài + trọng thị nhân tài.
Mọi sự so sánh đều là khập khiễng, nhưng rõ ràng sự phát triển của Việt Nam trong
những năm qua có sự đóng góp không nhỏ của nguồn lực bên ngoài có được thông qua
hội nhập kinh tế quốc tế là không thể phủ nhận. Trong đó xuất khẩu đóng vai trò rất lớn.
Như chúng ta đã biết, xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản thúc đẩy
kinh tế phát triển.Xuất khẩu có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế.Đặc
biệt, với các quốc gia đang phát triển như nước ta thì xuất khẩu tạo ra động lực mạnh mẽ
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bởi nguồn ngoại tệ mà xuất khẩu


Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
1
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
mang về tạo ra nguồn vốn lớn cho việc nhập các thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại.
Xuất khẩu giúp thúc đẩy sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại hơn.Nhờ xuất khẩu mà các doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường rộng lớn, canh
tranh gay gắt hơn đòi hỏi doanh nghiệp phải nỗ lực nhiều hơn để nân cao năng lực cạnh
tranh của mình.Bên cạnh những lợi ích kinh tế, xuất khẩu làm gia tăng việc làm cho người
lao động giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp cho xã hội.
Nhận thức được vai trò qua trọng của xuất khẩu, nước ta đã xây dựng chiến lược xuất
khẩu từ trung ương đến địa phương để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả tốt nhất. Trong
đó mỗi địa phương cần phát triển những sản phẩm chủ lực để tận dụng tối đa nguồn lực,
phát huy lợi thế so sánh của mình. Thông qua xuất khẩu, các địa phương sẽ tận dụng được
nguồn lực từ bên ngoài, nếu biết khai thác tốt nguồn lực bên ngoài để biến ngoại lực
thành nội lực, sẽ rút ngắn được quá trình tăng trưởng. Điều đó sẽ khiến các địa phương
vươn tới sự giàu có của các quốc gia khác ngay trong lòng đất nước Việt Nam. Và dường
như Vĩnh Phúc đang vững bước trên con đường đó. Tất nhiên, không thể đưa Vĩnh Phúc
ra để so sánh với Đài Loan hay Hồng Kông, nhưng với tốc độ tăng trưởng bình quân
117.22% (1998 – 2008), cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, năm 1997, tỷ trọng công
nghiệp – xây dựng trong GDP ( giá thực tế) là 18,58%, dịch vụ là 37,36%, Nông nghiệp,
lâm nghiệp, thuỷ sản 44,06%, năm 2008 tỷ trọng tương ứng là: 58,34% – 23,95% –
17,71%. Tổng thu ngân sách của tỉnh khi mới tái lập trên 100 tỷ đồng, đến năm 2008 tổng
thu ngân sách trên địa bàn đạt 9.228,2 tỷ đồng ( trong đó thu nội địa đạt 7.340 tỷ đồng;
GDP ( giá TT) bình quân đầu người năm 2008 đã đạt 21, 8 triệu đồng, Vĩnh Phúc hứa hẹn
sẽ là điểm sáng của vùng kinh tế Bắc Bộ.
Tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập 1997, là một tỉnh trung du nằm phía Tây Bắc Thủ đô Hà
Nội, được xác định là một trong tám tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm khu vực Bắc Bộ
những năm vừa qua Vĩnh Phúc đã có những bước phát triển đáng ghi nhận nhất là trong
lĩnh vực phát triển công nghiệp. Tăng trưởng của ngành công nghiệp Vĩnh Phúc chủ yếu

là từ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong đó có đóng góp không nhỏ
của xuất khẩu dệt may.và có thể nói công nghiệp Vĩnh Phúc đi lên chính từ ngoại lực.
Thực tế cho thấy rằng, sản phẩm dệt may là hàng hóa thiết yếu trong đời sống
hàng ngày. Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống ngày
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
2
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
càng cao khiến nhu cầu về hàng may mặc ngày càng đa dạng, phong phú và sự phân hóa
trong sản xuất của ngành cũng theo đó mà được chuyên môn hóa. Chuỗi giá trị dệt may
tòan cầu mở ra cơ hội cho các quốc gia, các doanh nghiệp phát huy lợi thế của mình.
Xuất khẩu dệt may rất phù hợp với một tỉnh đang trong thời kỳ đầu của CNH – HĐH
nhiều lao động nhưng thiếu vốn như Vĩnh Phúc. Trong những năm qua, giá trị xuất khẩu
dệt may ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, đóng góp
vào sự phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm giải quyết các vẫn đề xã hội. Do đó dệt
may đang trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu của
sản phẩm này chưa tương xứng với tiềm năng và sự phát triển công nghiệp hiện nay của
tỉnh. Nên phát triển thương mại sản phẩm dệt may là vấn đề cấp thiết để tỉnh có thể gia
tăng giá trị xuất khẩu và nâng cao vị thế của mình trong sự cạnh tranh khốc liệt của
ngành. Với tình trạng chung của ngành dệt may Việt nam là gia công xuất khẩu, và thực tế
cho thấy là các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may ở Vĩnh Phúc đa số là Doanh nghiệp FDI có
thể nói rằng vấn đề phát triển thương mại hàng may mặc xuất khẩu không nằm ở khâu vốn
hay nơi nào khác mà nằm ở nguồn nhân lực bởi con người là chìa khóa của thành công. Do đó
em xin chọn đề tài: “Giải pháp nguồn nhân lực với phát triển thương mại sản phẩm xuất
khẩu chủ lực của tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
1.2 Xác lập và tuyên bố đề tài
Như đã nêu trên phần tính cấp thiết của đề tài, lý do chính để chọn đề tài là giá trị xuất
khẩu chưa tương xứng với tiềm năng và sự phát triển công nghiệp của tỉnh hiện nay.Vì vậy
cần tập trung phát triển thương mại sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh để gia tăng kim
ngạch xuất khẩu. Xuất phát từ thực tế này, đề tài tập trung giải quyết các vấn đề sau:

Về lý luận: Đề tài đưa ra những những nét khái quát về phát triển thương mại sản phẩm
xuất khẩu chủ lực
Về thực tiễn: Đề tài tập trung nghiên cứu tổng quan phát triển thương mại sản phẩm chủ
lực( dệt may) của Vĩnh Phúc, và ảnh hưởng của nhân tố môi trường đến phát triển thương
mại xuất khẩu dệt may của tỉnh, trên cơ sở đó phát hiện những yếu kém, những vấn đề
còn tồn tại và tìm ra giải pháp phát triển thương mại sản phẩm chủ lực( dệt may) của Vĩnh
Phúc.
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
3
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nhằm vào hai mục tiêu sau:
Về mặt lý luận: Làm rõ một số vấn đề lý luận về: sản phẩm chủ lực, phát triển thương
mại sản phảm chủ lực( dệt may) và bản chất của phát triển thưong mại làm cơ sở cho
việc nghiên cứu dề tài.
Về mặt thực tiễn:
- Khảo sát, đánh giá thực trạng và ảnh hưởng của các nhân tố môi trường đến phát
triển thương mại sản phẩm dệt may của tỉnh Vĩnh Phúc.
- Thông qua khảo sát, phân tích thực tế để thấy những tồn tại, khó khăn trong việc
phát triển thương mại hàng dệt may xuất khẩu.
- Từ những tồn tại trên rút ra kết luận và đề xuất, kiến nghị phát triển thương mại
sản phẩm dệt may xuất khẩu cho tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
1.4 Phạm vi nghiên cứu
* Nội dung: nghiên cứu một số giải pháp nguồn nhân lực với phát triển thương mại
sản phẩm chủ lực của tỉnh Vĩnh Phúc. Với sản phẩm chủ lực nghiên cứu là sản phẩm may
mặc.
* Đối tượng và không gian nghiên cứu:
- Địa bàn nghiên cứu: tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đối tượng nghiên cứu: sản phẩm may mặc xuất khẩu

- Đối tượng điều tra, khảo sát: Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm may mặc của tỉnh.
*Thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển thương mại
sản phẩm may mặc xuất khẩu trong gia đoạn 2000 – 2009. Đưa ra một số đề xuất và kiếnnghị
có thể áp dụng trong giai đoạn 2010 – 2015.
1.5 Một số khái niệm và phân định nội dung của vấn đề nghiên cứu.
1.5.1 Một số khái niệm.
1.5.1.1 Sản phẩm chủ lực.
Sản phẩm chủ lực là một cụm từ được sử dụng khá phổ biến, xong chưa có định nghĩa
nào được đưa ra cho cụm từ này.
Theo TS. Nguyễn Bá Ân, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế
hoạch - Đầu tư), Sản phẩm công nghiệp chủ lực phải dựa vào lợi thế so sánh với các nước
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
4
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
khác. Đã gọi là sản phẩm chủ lực thì phải có quy mô đủ lớn, tác động, chi phối nền kinh
tế. Những sản phẩm có sức tác động không lớn lắm thì không gọi là chủ lực được. Chủ
lực mà chọn quá nhiều thì cũng không phải. Chủ lực thì phải là trụ cột, phải là những anh
khổng lồ.
Năm 2005, thành phố Hồ Chí Minh xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực theo
những tiêu chí sau đây:
- Tổng doanh thu năm 2004 trong đó có doanh thu của sản phẩm chủ lực
- Tốc độ tăng trưởng năm.
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
- Tăng trưởng xuất khẩu
- Trình độ công nghệ
- Đã đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cho sản phẩm chủ lực
- Hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO và Tiêu chuẩn Việt Nam.
- Thực hiện tốt chính sách vệ sinh môi trường và lao động
- Có nhiều hoạt động đóng góp cho cộng đồng và từ thiện.

Hiện nay, sản phấm chủ lực đc đánh giá chủ yếu dựa trên 4 tiêu chí sau:
- Có khả năng cạnh tranh cao
- Tiềm năng thị trường tương đối lớn
- Đem lại hiệu quả kinh tế cao đối với người sản xuất.
- Đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm quốc nội và phát triển kinh tế.
1.5.1.2 Bản chất phát triển thương mại
Phát triển thương mại là một cụm từ được sử dụng nhiều nhưng chưa được định nghĩa
một cách rõ ràng.Hiểu theo một cách tổng thể thì Phát triển thương mại bao gồm bốn nội
dung đó là:
-Phát triển thương mại về quy mô: mỗi khi nói đến khái niệm phát triển, chúng ta
thường nhắc đến từ quy mô. Một trong những biểu hiện của phát triển là sự mở rộng về
quy mô. Hoạt động thương mại của một sản phẩm có phát triển hay không thể hiện ở chỗ
quy mô thị trường của sản phẩm đó có ngày một tăng theo cả chiều sâu lẫn chiều rộng
hay không và quy mô sản xuất sản phẩm đó có được mở rộng hay không.
Phát triển thương mại về quy mô thể hiện qua tổng giá trị thương mại, tổng giá trị
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
5
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
thương mại ở đây được hiểu là giá trị mà doanh nghiệp thu được khi bán một lượng hàng
hóa nhất định nào đó trên những thị trường khác nhau trong khoảng thời gian xác định.
Theo nghĩa này tổng giá trị thương mại được hiểu là tổng doanh thu của tất cả các mặt
hàng mà doanh nghiệp kinh doanh hay chính là giá trị gia tăng do doanh nghiệp tạo ra.
Ngoài ra, phát triển thương mại về quy mô còn thể hiện ở sự gia tăng của khối lượng
hàng hóa tiêu thụ.
- Nâng cao chất lượng phát triển thương mại: đó là sự đa dạng cơ cấu của hàng
hóa, chuyển dịch cơ cấu theo hướng phát huy lợi thế và đổi mới cách thức mua bán cho
phù hợp thuận tiện. Và đi kèm với đó là nâng cao chất lượng của hàng hóa. Ngày nay,
việc nâng cao chất lượng hàng hóa không phải là làm cho sản phẩm tốt nhất mà sản
phẩm đó đáp ứng tốt nhất nhu càu của khách hàng. Khẳng định được chất lượng tạo điều

kiện cho việc đa dạng hóa cơ cấu hàng hóa của các doanh nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả thương mại: hiệu quả thương mại là một phạm trù phản ánh
quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra hay nguồn nhân lực sử dụng để
đạt kết quả đó. Ở đây, bản chất của hiệu quả thương mại chính là trình độ sử dụng chi phí
hay các nguồn lực để đạt kết quả theo mục tiêu. Hiệu quả thương mại được đánh giá dưới
hai góc độ kinh tế và xã hội.
+ Dưới góc độ xã hội, hiệu quả thương mại được thể hiện qua hoạt động kinh
doanh tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, một phần giá trị gia tăng này được dùng
để trả lương cho người lao động hình thành nên nguồn thu nhập lớn cho xã hội (tiền
lương được coi là bộ phận quan trọng đóng góp vào thu nhập quốc dân) và một phần
dùng để nộp thuế doanh nghiệp (khoản thuế này hình thành nên nguồn thu nhập cho ngân
sách nhà nước).
+ Dưới góc độ kinh tế, hiệu quả thương mại thể hiện qua lợi nhuận doanh nghiệp
và hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là lợi nhuận, doanh nghiệp nào cũng
muốn đạt lợi nhuận tối đa song lợi nhuận tối đa luôn gắn liền với rủi ro, mạo hiểm cao.
Muốn kinh doanh có lợi nhuận doanh nghiệp phải biết mạo hiểm, nhưng mạo hiểm
không có nghĩa là liều lĩnh, mạo hiểm phải đi đôi với an toàn trong kinh doanh. Bởi vậy,
lợi nhuận là tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả thương mại của doanh nghiệp.
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
6
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
Quy mô và chất lượng của các nguồn lực sẽ quyết định đến quy mô và hiệu quả
của hoạt động thương mại. Trình độ huy động và sử dụng các nguồn lực quyết định đến
khả năng công nghiệp hóa hiện đại hóa, khả năng phát triển thương mại, hơn nữa còn
quyết định đến khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế về kinh tế, thương mại của quốc
gia. Các nguồn lực thương mại có ý nghĩa hết sức quan trọng đến sự phát triển thương
mại do đó phải biết cách kết hợp,sử dụng chúng sao cho hợp lý đem lại hiệu quả tối ưu
nhất cho doanh nghiệp.

- Đảm bảo sự phát triển thương mại một cách cân đối, hài hòa với các mục tiêu
phát triển về kinh tế - xã hội và môi trường: Sự kết hợp hài hòa giữa ba mục tiêu kinh tế -
xã hội môi trường nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia
cũng như của toàn nhân loại. Phát triển bền vững phải được đảm bảo ở đồng thời cả ba
khía cạnh: phát triển kinh tế bền vững, phát triển môi trường bền vững, phát triển xã hội
bền vững. Ba nội dung đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa tác động qua lại vừa
chế ước lẫn nhau.
1.5.1.3 Mô tả sản phẩm may mặc.
Ngành dệt may của nước ta đã có lịch sử phát triển rất lâu đời. Tuy nhiên, dệt may
Việt Nam mới chỉ trở thành một ngành sản xuất thực sự quan trọng hơn chục năm nay.
Trước khi tái lập tỉnh, ngành may của Vĩnhh Phúc thực sự là một con số không. Công ty
may Hương Canh là doanh nghiệp Nhà nước được thành lập vào năm 1998, đến năm
2004 có thêm 3 công ty đầu tư nước ngòai nữa mới bắt đầu tạo sự chuyển biến trong
ngành công nghiệp dệt may của Vĩnh Phúc. Công nghiệp dệt may có liên quan chặt chẽ
tới sự phát triển của các ngành công nghiệp khác nên sự phát triển của công nghiệp dệt
may sẽ là động lực cho các ngành khác phát triển.Trong thương mại, hàng dệt may là một
trong những hàng hóa đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế và là một trong những yếu
tố quan trọng cần thiết để tăng cường tính cạnh tranh và đảm bảo giao thương trên thị
trường.
Sản phẩm dệt may rất phong phú đa dạng và là sản phẩm có tính thời vụ. Tùy
thuộc vào thị hiếu, văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo, địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi
tác và thu nhập của người tiêu dùng mà hàng dệt may có nhiều đặc tính khác nhau. Sản
phẩm dệt may còn mang tính thời trang cao vì vậy cần thường xuyên thay đổi mẫu mã,
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
7
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Sản phẩm dệt may
muốn có chỗ đứng trên thị trường cần chứng tỏ chất lượng, uy tín và tạo được hình ảnh
trong tâm trí khách hàng.

1.5.1.3 Phát triển thương mại sản phẩm may mặc xuất khẩu.
Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ …
giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó bằng tiền thông qua giá
cả hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi
hàng.Trong quá trình này, người bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ cho
người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó.
Thị trường là cơ chế để thương mại hoạt động được. Ngày nay, với sự phát triển bùng nổ
của công nghệ thông tin và quá trình tòan cầu hóa làm cho thương mại vượt ra khỏi biên
giới các quốc gia, khái niệm thương mại được mở rộng hơn không chỉ là trao đổi mà còn
là các họat động xúc tiến, đầu tư…
Thương mại hỗ trợ cho sản xuất và tiêu dùng, và bản thân nó cũng là một lĩnh vực
kinh tế. Bất kỳ ngành công nghiệp cũng nào cũng cần có sự hỗ trợ của thương mại để
phát triển. Khi nhắc đến nghành công nghiệp dệt may, người ta hình dung ra một chuỗi
giá trị khổng lồ mà ở đó những người tham gia vào khâu phân phối bán lẻ là những
người thu được nhiều lợi nhuận nhất, mà phân phối bán lẻ chính là một hình thức của
hoạt động thương mại nên có thể nói phát triển thương mại sản phẩm dệt may chính là
động lực cho nghành công nghiệp dệt may phát triển.
Phát triển thương mại sản phẩm được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, với
sản phẩm dệt may xuất khẩu chúng ta quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm,
khai thác thị trường, hình thức xuất khẩu … đây là các hoạt động từ tìm kiếm thị trường
cho đến tiêu thụ sản phẩm nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương
mại, hoạt động tiêu thụ sản phẩm phát triển về cả qui mô, chất lượng và cơ cấu. Không
chỉ đạt mục tiêu khai thác tối đa nhu cầu của thị trường, tìm kiếm những thị trường mới,
phát triển thương mại sản phẩm dệt may còn cần phải duy trì tốt mối quan hệ với nhà
cung ứng với các khách hàng mục tiêu để không ngừng củng cố và gia tăng giá trị trong
chuỗi cung ứng cũng như vị thế của mình.
Có thể nói thị trường may mặc là một thị trường màu mỡ bởi sự cần thiết trong
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
8
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương

mại
cuộc sống và tính đa dạng trong nhu cầu của nó. Sự đa dạng trong nhu cầu tạo ra nhiều
cơ hội trong kinh doanh bởi nó tạo ra nhiều đoạn thị trường, nhưng nó cũng đặt ra thách
thức cho các doanh nghiệp bởi yêu cầu về sự làm mới liên tục sản phẩm. Để làm được
điều này, việc phát triển thương mại sản phẩm cần phải được đầu tư cả về nhân lực và tài
lực bởi doanh nghiệp vừa phải làm mới mình mà vẫn phải giữ những nét đặc trưng duy
trì một hình tượng trong tâm trí khách hàng. Nên có thể nói quan tâm tới phát triển
thương mại sản phẩm dệt may chính là hướng đến sự phát triển bền vững của ngành dệt
may.
1.5.2 Phân định nội dung vấn đề cần nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu: “giải pháp nguồn nhân lực với phát triển thương mại sản phẩm xuất
khẩu lực của Vĩnh Phúc” với sản phẩm là hàng dệt may. Đề tài tập trung nghiên cứu
những vấn đề:
Thực trạng phát triển thương mại hàng may mặc xuất khẩu của tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2000 – 2010. Nghiên cứu việc phát triển thương mại sản pẩm dệt may xuất
khẩu theo hướng mở rộng qui mô thương mại và tăng cường chất lượng phát triển
thương mại của tỉnh.
Đề tài tìm hiểu những ảnh hướng đến quá trình phát triển thương mại sản phẩm
dệt may xuất khẩu của tỉnh như: kinh tế, luât pháp chính trị, khoa học cồng nghệ. Dân cư.
Các yếu tố nội tại của ngành, chính sách thu hút đầu tư của tỉnh và cuộc khủng hoản kinh
tế ảnh hưởng đến phát triển thương mại sản phẩm dệt may xuất khẩu của tỉnh.
Từ những thực trạng phát triển thương mại sản phẩm dệt may xuất khẩu của tỉnh,
thông qua phân tích rút ra một số kết luận và đề suất, kiến nghị về phát triển thương mại
sản phẩm dệt may xuất khẩu để tỉnh có thể mở rộng qui mô thương mại và nâng cao chất
lượng của phát triển thương mại.
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
9
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
CHƯƠNG 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT QUẢ PHÂN TÍCH

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp hệ nghiên cứu các vấn đề.
Trong đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phương
pháp thu thập số liệu, phương pháp phân tích dữ liệu. Cụ thể cách thức tiến hành và ứng
dụng các phương pháp như sau:
2.1.1 Phương pháp thu thập số liệu
Khái niệm: phương pháp thu thập số liệu là một trong các phương pháp nghiên cứu
khoa học dùng để thu thập số liệu từ các tài liệu nghiên cứu khoa học có trước, từ quan sát
và thực hiện thí nghiệm để làm cơ sở lý luận khoa học hay luận cứ chứng minh giả thuyết
hay tìm ra vấn đề nghiên cứu.
Cách thức tiến hành: cố thể thu thập dữ liệu,thông tin bằng nhiều biện pháp, cách
thức và phương tiện khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, tính chất của mỗi đơn vị thực tập.
Với bản thân em khi thực tập tại sở công thương tỉnh Vĩnh Phúc, em đã thu thập các số
liệu, dữ liệu về công ty qua các báo cáo các năm, qua các văn bản, qua các thông tin đại
chúng như sách báo, truyền hình, internet…phương pháp này được sử dụng ở hàu hết
trong bài nhưng mức độ sử dụng nhiều nhất là ở chương 2.
2.1.2Phương pháp phân tích số liệu
Khái niệm: phương pháp phân tích số liệu là một trong những phương pháp nghiên
cứu khoa học dùng để phân tích các dữ liệu đã được thu thập trong quá trình nghiên cứu.
Có hai phương pháp phân tích số liệu là phương pháp phân tích định tính và phương pháp
phân tích định lượng.
Cách thức tiến hành: từ những số liệu trong bảng báo cáo kết quả của công ty về
tình hình kinh doanh sản phẩm máy móc phục vụ cho quá trình xây dựng trong các
năm,các giai đoạn trước đó, chọn lọc những số liệu có độ ảnh hưởng và cần thiết đối với
đề tài nhất ta đi phân tích đánh giá thực trạng thương mại sản phẩm của công ty và đưa ra
những nhận định riêng về tình hình phát triển thương mại sản phẩm trên địa bàn Hà Nội.
Từ đó rút ra một số kết luận và đề xuất, kiến nghị phát triển thương mại sản phẩm máy
móc xây dựng đối với công ty trong giai đoạn tiếp theo. Khi tiến hành phân tích em có kết
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
10

Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
hợp phân tích định tính với phân tích định lượng để cho sự đánh giá chính xác,có cơ sở
khoa học hơn, phương pháp này được áp dụng chủ yếu ở chương 2 và chương 3.
2.1.3 Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh: qua những số liệu đã thu thập được ta đem so sánh kết quả
kinh doanh cũng như tình hình phát triển thương mại sản phẩm của công ty từng năm một
với nhau. Chúng ta so sánh giữa chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối cũng như tương đối giữa các
năm với nhau để tìm ra sự khác biệt, từ đó chúng ta đánh giá hoạt động phát triển thương
mại của năm sau với năm trước có gì khả quan hay còn hạn chế. Phương pháp so sánh
giúp chúng ta dễ dàng nhận thấy tình hình phát triển thương mại sản phẩm một cách tổng
quát và khách quan nhất với các chỉ số tuyệt đối cũng như tương đối, giúp cho việc nhận
biết được xư thế phát triển có đạt hiệu quả quả hay không, giúp cho doanh nghiệp có
những phản ứng trước thực trạng đang diễn ra và từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục,
những chiến lược phát triển sao cho phù hợp với tình hình thực tại.
2.2 Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng các nhân tố môi trường đến vấn đề nghiên cứu
2.2.1 Thực trạng thương mại hàng dệt may xuất khẩu của Vĩnh Phúc
2.2.1.1 Qui mô xuất khẩu của tỉnh
Sự gia tăng về qui mô xuất khẩu dệt may của tỉnh liên tục và khá ổn định thể hiện
qua sự gia tăng về tổng gía trị xuất khẩu, tỷ lệ tăng trưởng của xuất khẩu và số doanh
nghiệp gia nhập vào ngành.
Tổng giá trị xuất khẩu: trong những năm qua tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh
liên tục tăng, và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Tổng giá trị xuất
khẩu năm 2005 là 180 trUSD trong đó xuất khẩu dệt may đóng góp 75 trUSD chiếm
41,67% . Năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu là 349,981 trUSD trong đó xuất khẩu dệt
may 147,44 trUSD chiếm 42,12%.
Tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu: Tốc độ tăng trưởng của ngành nhanh và ổn định
trong một thời gian dài từ 2000 – 2007, tốc độ tăng bình quân của giai đoạn này là hơn
20% đưa xuất khẩu dệt may của Vĩnh Phúc từ không có gì trở thành một ngành công
nghiệp phát triển của tỉnh.

Số doanh nghiệp gia nhập ngành: năm 2000 mới chỉ có 1 doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực xuất khẩu dệt may, đến nay đã có hơn 10 doanh nghiệp xuất khẩu dệt may.
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
11
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
Năm 2007, ngành dệt may sử dụng 96090 lao động chiếm 14,1% lao động toàn tỉnh( chỉ ít
hơn lượng lao động trong nông lâm nghiệp). Tuy nhiên, lượng lao động trong ngành
không ổn định, trình độ chuyên môn thấp, các doanh nghiệp phải thường xuyên tuyển
dụng lao động mới.
2.2.1.2 Cơ cấu mặt hàng
Mặc dù tốc độ tăng trưởng ngành dệt may xuất khẩu tăng nhanh nhưng cơ cấu hàng dệt
may chuyển dịch chậm. Các mặt hàng xuất khẩu của tỉnh rất đơn giản, và hầu như không
có sự thay đổi trong nhiều năm qua. Các doanh nghiệp trong tỉnh chủ yếu xuất khẩu các
sản phẩm như áo sơ my, ác jacket, quần sooc, áo mũ bơi. Các sản phầm đều rất phổ biến
và thông dụng ở các thị trường xuất khẩu. Nó cho phép các doanh nghiệp phát huy lợi thế
về lao động phổ thông không cần thiết trình độ chuyên môn cao, hơn nữa các doanh
nghiệp cũng không cần đầu tư thiết bị công nghệ cao. Lượng hàng duy trì khá đều đặn và
tăng lên sau mỗi năm do đó các doanh nghiệp duy trì cơ cấu mặt hàng này nên không có
nhiều sự chuyển dịch về cơ cấu hàng hóa
2.2.1.3 Thị trường xuất khẩu
Đức là một trong những thị trưòng nhập khâủ hàng dệt may lớn nhất trên thế giới.
Năm 2001 Đức nhập hàng dệt may 50 tỷ USD (hàng may mặc 30 tỷ USD). Hàng dệt
may vào thị trường Đức đa dạng có tính truyền thống và cạnh tranh về giá cả do các
nhà cung cấp hàng dệt may lớn xuất khẩu vào Đức: Mehicô, Canada, Trung Quốc,
Pakistan, Hàn Quốc, ấn Độ, Đài loan. Hàng dệt may vào thị trường Đức chủ yếu là hàng
FOB, phải có nhãn hiệu hàng hoá đúng quy định và phải tuân thủ đầy đủ luật hải quan
Đức. Khách hàng thường đặt những lô hàng lớn đòi hổi chất lượng hàng tốt và đúng thời
hạn giao hàng. Nói chung đây là một thị trường có giá trị cao nhưng yêu cầu kỹ thuật cao
mà các doanh nghiệp của tỉnh đang cố gắng hướng đến. Trong những năm qua, lượng

sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Đức trên 3.000 sản phẩm mỗi năm chủ yếu là áo sơ
mi đây là một con số khiêm tốn trong tổng số hơn 30000 sản phẩm xuất khẩu mỗi năm
của tỉnh.
Hàn Quốc là một trong những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam hiện nay.
Đây là thị trường có mức dân số vừa nhưng có đời sống cao và mức tiêu thụ hàng may
mặc cũng lớn. Từ những năm 2004, các doanh nghiệp đã có sản phẩm xuất khẩu sang
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
12
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
Hàn Quốc mở ra một giai đoạn mới phát triển nhanh chóng của xuất khẩu dệt may. Mỗi
năm, thị trường này tiếp nhận hơn 20000 sản phẩm áo jắcket từ các doanh nghiệp trong
tỉnh. Những năm gần đây, qui mô của thị trường này khá ổn định.
Đài Loan cũng là một thị trường lớn của các doanh nghiệp trong tỉnh nhưng thị
trường này đòi hỏi trình độ kỹ thuật và chuyên môn cao. Trong năm 2005, kim ngạch
xuất khẩu của thị trường này đạt 26,547 trUSD và năm 2006 đạt 30,167 trUSD. Hiện
nay, Đài Loan vẫn là một trong những thị trường còn nhiều tiềm năng đẻ các doanh
nghiệp trong tỉnh khai thác.
Ngòai các thị trường chính trên thì Nhật Bản, Nga, Trung Quốc cũng là thị trường
cho sản phẩm của tỉnh nhưng số lượng sản phẩm xuất khẩu sang các thị trường này rất
nhỏ. Trong đó thị trường Nhật Bản đang là thị trường được các doanh nghiệp quan tâm
phát triển thị trường nhất bởi đây là một thị trường lớn và đây là thị trường không hạn
ngạch. Thị trường Nga là một thị trường khá dễ tính, sản phẩm chủ yếu là quần soóc.
Nhưng do sự thiếu đa dạng về mẫu mã nên các doanh nghiệp trong tỉnh chưa khai thác
được thị trường này. Trong những năm tới, tỉnh có chính sách ngoại giao với EU để các
doanh nghiệp trong tỉnh có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thị trường này.
Dù chưa đạt được sự phát triển cao nhưng xuất khẩu may mặc cũng mang lại
những hiệu quả thương mại đáng ghi nhận. Không chỉ đóng góp vào tăng trưởng GDP của
tỉnh, may mặc đã giải quyết được một vấn đề rất cấp thiết đó là tạo việc làm cho người lao
động, điều này góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo phát triển kinh tế

xã hội của tỉnh.( Em đang chờ số liệu về số công nhân tham gia vào ngành dệt may của
tỉnh nên em sẽ bổ sung phần này sau thầy ah.)
2.2.2 Ảnh hưởng của nhân tố môi trường đến phát triển thương mại sản phẩm dệt may
của Vĩnh Phúc.
2.2.2.1Các yếu tố vĩ mô.
• Chính trị - Pháp luật: sự ổn định về chính trị là yếu tố đảm bảo cho các hoạt động
kinh tế diễn ra hiệu quả, giảm thiểu độ rủi ro. Bên cạnh đó pháp luật là một hành
lang vững chắc tạo một môi trường canh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp.
Chính sách một cửa sớm được Vĩnh Phúc áp dụng trong thủ tục hành chính cho
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
13
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
các doanh nghiệp đã taọ điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu phất triển, đặc biệt là
với may măc – sản phẩm mang tính mùa vụ cao rất cần những thủ tục nhanh chóng
để đảm bảo về thời gian giao hàng. Chính trị ổn định và hệ thống chính sách pháp
luật hiện đại là động lực cho phát triển thương mại hàng may mặc xuất khẩu.
• Kinh tế: tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định của tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm
gần đây đảm bảo nguồn lực cho xuất khẩu phát triển. Thêm vào đó cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực là động lực cho cơ cấu mặt hàng chuyển dịch
theo hướng tích cực. Điều này sẽ định hướng cho phát triển thương mại sản phẩm
may mặc hướng tới cơ cấu ngành hàng đa dạng và hiện đại phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế.
• Dân cư: Tổng số dân của Vĩnh Phúc tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2004 là
1154792 người, Tính đến ngày 1/7/2004, nguồn lao động của Vĩnh Phúc thống kê
được là 748,05 nghìn người, bằng 64,78% dân số toàn tỉnh (cao hơn nhiều so với tỉ
lệ lao động trung bình trên tổng số dân trung bình của cả nước). Trong đó, số
người ngoài tuổi lao động vẫn tham gia lao động trong các ngành kinh tế quốc dân
là: 29.650 người (chiếm 3,96% nguồn lao động của cả tỉnh). Trung bình mỗi năm
nguồn lao động Vĩnh Phúc được bổ sung khoảng gần 20 nghìn người phục vụ

trong các ngành, các thành phần kinh tế. Từ năm 2000 đến năm 2004, nguồn lao
động trung bình của Vĩnh Phúc đã tăng thêm 75.850 lao động (bằng 11,28%)
(Theo Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc năm 2004). Đây là điều kiện thuận lợi để
phát triển công nghiệp dệt may gia tăng cả về qui mô lẫn chất lượng.
• Khoa học – Công nghệ: Khoa học – Công nghệ được chú trọng hơn trong tất các
ngành và lĩnh vực. Nhờ ứng dụng công nghệ mới, sản phẩm của các ngành công
nghiệp cơ khí, chế tạo ô tô xe máy, vật liệu xây dựng đã đạt chất lượng khá, đủ sức
cạnh tranh với các sản phẩm trong và ngoài nước. Tuy nhiên, hầu hét sản phẩm
đều là của doanh nghiệp FDI còn Trình độ công nghệ trong các cơ sở sản xuất của
địa phương hầu hết đêu thấp (80% doanh nghiệp trong nước có công nghệ lạc hậu,
20% ở mức trung bình); Tổ chức hoạt động KH-CN cấp huyện không có. Trong
nông nghiệp, công nghệ giống, chế biến, bảo quản sau thu hoạch chưa phát triển;
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
14
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
ứng dụng tiến bộ khoa học rất hạn chế.Năm 2005 chi cho sự nghiệp KH-CN chỉ
chiếm 0,54% tổng chi ngân sách và 0,13% GDP của tỉnh. Khoa học công nghệ
trong ngành công nghiệp may cũng không thoát khỏi sự kém phát triển dù đã có sự
tham gia của các doanh nghiệp FDI. Điều này làm hạn chế sự phát triển thương
mại sản phẩm dệt may. Sản phẩm dệt may có hàm lượng công nghệ thấp khó cạnh
tranh hơn ở các thị trường khó tính như Mỹ, Đức, Đài Loan…
2.2.2.2Các yếu tố trong nội tại ngành xuất khẩu dệt may:
Khi nghiên cứu ngành xuất khẩu dệt may, ta cần phải đặt doanh nghiệp vào trong
chuỗi giá trị cung ứng của ngành. Đối với dệt may, chuỗi giá trị được tạo ra từ 5 thành
phần chính:
(1) Cung cấp nguyên liệu thô bao gồm sợi tự nhiên và nhân tạo
(2) Cung ứng các linh kiện như chỉ, vải thường được sản xuất từ các công ty dệt
(3) Mạng lưới sản xuất được cấu thành từ các xưởng may bao gồm gia công trong
nước và ngoài nước

(4) Kênh xuất khẩu được hình thành từ các trung gian thương mại
(5) Mạng lưới marketing ở cấp độ bán lẻ.
Trong chuỗi giá trị này, phần lớn lợi nhuận thuộc về các nhà bán lẻ còn mạng lưới sản
xuất gia công nhận được ít lợi nhuận nhất. Đáng tiếc là đa số các doanh nghiệp xuất khẩu
dệt may của Vĩnh Phúc chỉ tham gia vào hoạt động sản xuất gia công. Hầu hết các doanh
nghiệp đều tập trung ở khu công nghiệp Khai Quang trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên của
tỉnh. Nhu cầu về lao động của ngành là rất lớn, mặc dù lượng lao động của tỉnh khá lớn
nhưng tình trạng thiếu hụt lao động của các doanh nghiệp vẫn thường xuyên xảy ra làm
cản trở đến thời gian giao hàng. Trong khi đó các doanh nghiệp còn phải nhập nguyên vật
liệu từ nước ngoài, chủ yếu là từ Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. Điều này làm giảm
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tỉnh. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại các
doanh nghiệp dệt may quốc tế đang tập trung cạnh tranh khốc liệt ở giai đoạn thiết kế và
phát triển phụ trợ do đó gia công vẫn là lợi thế của các doanh nghiệp để phát huy lợi thế
giá nhân công và mặt bằng rẻ. Nhưng đây không phải là mảnh đất màu mỡ cho ngành
công nghiệp dệt may phát triển nếu như các doanh nghiệp muốn cải thiện lợi nhuận nâng
cao vị thế của mình trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
15
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
2.2.2.3 Các yếu tố khác:
*Hội nhập kinh tế quốc tế: Gia nhập WTO giúp doanh nghiệp có được thị trường
mới rộng lớn hơn và được đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên đối với
các doanh nghiệp dệt may thì thực sự có bình đẳng hay không lại là vấn đề cần xem xét.
Thuế chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu lên hàng giày da, may mặc của các nước
Việt Nam, Trung Quốc… là một ví dụ điển hình về mặt trái của hội nhập.
*Các hoạt động xúc tiến thương mại thu hút đầu tư: Đến năm 2010, Vĩnh Phúc
phấn đấu vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 2,5-3 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 50-60%
tổng vốn đầu tư. Kim ngạch xuất khẩu từ các dự án đầu tư hằng năm chiếm 90% giá trị
kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh, đóng góp trên 80% tổng thu ngân sách, mỗi năm, giải

quyết việc làm cho từ 1,5 đến 2 vạn lao động. Nhằm góp phần thu hút, mời gọi đầu tư,
nhiều tuyến đường quan trọng đã và đang được khởi công phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội, đặc biệt là công nghiệp và đô thị. Bên cạnh việc chi trên 1.000 tỷ đồng cho đầu tư
phát triển hạ tầng, tỉnh Vĩnh Phúc đã tích cực mời gọi các DN có năng lực đầu tư vào lĩnh
vực này theo hình thức BOT và BT. Đến nay, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đã cơ bản đáp ứng
được yêu cầu của các DN đến đầu tư. Con đường xương sống của tỉnh là quốc lộ 2A đoạn
Vĩnh Yên - Nội Bài đã hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ giải quyết sự ùn tắc của
lượng xe cộ lưu thông mà còn mở rộng hơn cánh cửa thu hút đầu tư đối với Vĩnh Phúc,
bởi trước đây không ít nhà đầu tư ngại đến Vĩnh Phúc vì đường sá bất tiện. Giao thông
thuận lợi là động lực mạnh mẽ có xuất khẩu phát triển.
*Khủng hoảng kinh tế thế giới: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã tác
động mạnh đối với kinh tế một địa phương có cơ cấu đầu tư nước ngoài cao như Vĩnh
Phúc. Trong cả nước, các tỉnh có tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ chiếm hơn 60 % nền kinh
tế như Vĩnh Phúc là địa phương chịu tác động rõ nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính, kinh
tế thế giới. Sau một thời gian dài có tốc độ tăng trưởng cao, việc suy giảm là quy luật
thường thấy của kinh tế. Tuy nhiên, suy giảm kinh tế của tỉnh đã có dấu hiệu phục hồi.
Với việc thực hiện linh hoạt các giải pháp kích thích nền kinh tế của Chính phủ, cùng
những tín hiệu lạc quan trong những tháng gần đây, Vĩnh Phúc sẽ phấn đấu đạt mức tăng
trưởng 3,5%”. Trước những khó khăn khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Vĩnh Phúc đang đưa
ra giải pháp khắc phục những điểm còn hạn chế của từng ngành, từng lĩnh vực để nhanh
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
16
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
chóng phát triển “hậu” khủng hoảng. Từng bước chiếm lĩnh những lĩnh vực đã có thế
mạnh, tiếp tục mở rộng xây dựng một môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho các nhà
đầu tư và các DN đã, đang và sẽ đầu tư vào Vĩnh Phúc.
2.3 Kết quả phân tích các dữ liệu thu thập:
2.3.1 Qui mô xuất khẩu sản phẩm dệt may.
Khi tỉnh mới tái lập, điều kiện nền kinh tế còn khó khăn, kim ngạch xuất khẩu thấp

và mặt hàng xuất khẩu không đa dạng phong phú. Nhưng trong các năm tiếp theo đã có
sự thay đổi lớn về qui mô. Các ngành hàng đa dạng hơn và gia tăng về qui mô đáng kể
nhất là hàng dệt may xuất khẩu.
Bảng 1- Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu năm 1997-2005
Đơn vị 1997 2000 2004 2005
I. Tổng giá trị xuất
khẩu
Triệu USD 13,762 21,801 142,961 180,000
II. Mặt hàng chủ yếu
1. Chè Tấn 750 797 8680 8500
2. Giày dép các loai Triệu USD 1,068 10,013 17,745 18000
3. Hàng dệt may Triệu USD 1,253 65,795 75000
4. Xe máy và linh kiện Triệu USD 27,5 35,0
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, và Báo cáo KH KT-XH năm 2005)
Bảng số liệu cho thấy tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh lớn dần với sự đóng góp lớn của
xuất khẩu hàng dệt may. Nhưng cũng phải nhận thấy một thực tế là, những đóng góp này
không phải của doanh nghiệp trong nước hay hay doanh nghiệp địa phương mà là đến từ
các doang nghiêp FDI. Vì sau năm 2004 khi chính sách thu hút đầu tư của Vĩnh Phúc phát
huy hiệu quả, 3 doanh nghiệp FDI đầu tư vào lĩnh vực dệt may làm cho xuất khẩu dệt
may Vĩnh Phúc bước sang một giai đoạn mới. Hiện nay, tòan tỉnh có 10 doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu dệt may. Các doanh nghiệp có qui mô tương đương
nhau và tập trung chủ yếu ở khu công nghiệp Khai Quang, thành phố VĨnh Yên, Vĩnh
Phúc. Các doanh nghiệp này là chủ thể chính tạo ra giá trị xúât khẩu dệt may của tỉnh.
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
17
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
Trong những năm trở lại đây, họ đã thực sự làm thay đổi qui mô xuất khẩu hàng dệt may
của tỉnh.
Bảng số liệu sau đây sẽ phân tích rõ hơn tăng trưởng về qui mô của xuât khẩu hàng dệt

may:
Bảng 2 Giá trị xuất khẩu( Đvị: TrUSD)
2000 2004 2005 2007 2008 2009
Tổng giá trị xuất khẩu 21.801 142.961 180
349.98
1 318.442 377.811
Dệt may 1.253 65.795 75 147.44 172.355 223.602
Tỷ trọng hàng dệt may trong tổng giá
trị 5.70% 46.02% 41.66% 42.12% 54.12% 59.18%
Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu 555.75% 25.90% 94.43% 9.01% 18.64%
Tỷ lệ tăng trưởng của dệt may 5565.36% 13.99% 96.58% 16.89% 29.73%
(Nguồn niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc năm 2009)
Theo bảng số liệu, ta có thể thấy giá trị xuất khẩu hàng dệt may tăng nhanh và chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Không những thế còn tăng liên tục và ổn định
trong nhiều năm. Khi nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng năm 2007, toàn bộ các
nước tăng trưởng dựa vào xuất khẩu như Singapo, Hàn Quốc hầu như không tăng
trưởng bởi kim ngạch xuất khẩu tụt dốc và nước ta cũng chịu chung số phận như các quốc
gia khác. Nhưng xuất khẩu của Vĩnh Phúc vẫn tăng và xuất khẩu dệt may của Vĩnh Phúc
vẫn tăng đáng kể so với cùng kỳ năm trước.
2.3.2 Cơ cấu sản phẩm may mặc so với các sản phẩm khác.
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
18
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
Dựa vào số liệu và sự mô tả của biểu đồ có thể thấy được sự gia tăng nhanh chóng của
xuất khẩu hàng may mặc. Ngay cả khi tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh chững lại vào năm
2008 thì giá trị xuất khẩu dệt may vẫn tăng mạnh.
Năm 2004 sau khi thực hiện chính sách thu hút đầu tư, tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh và
giá trị xuất khẩu hàng may mặc tăng vọt. Nguyên nhân là do có thêm các doanh nghiệp
dệt may FDI hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu dệt may được thành lập, còn trước đó

Vĩnh Phúc chỉ có 1 vài doanh nghiệp dệt may nhà nước làm ăn kém hiệu quả, ngành xuất
khẩu may mặc hầu như không tồn tại.
Năm 2007 đánh dấu môt bước nhảy vọt nữa của xuất khẩu dệt may bởi các Doanh nghiệp
FDI thành lập từ 2005 và trước đó đi vào hoạt động có hiệu quả. Nhưng đây cũng là thời
điểm khó khăn của xuất khẩu khi năm 2008 là năm đỉnh điểm của khủng hoảng kinh tế.
Nhưng cũng phải nhận thấy rằng sự suy giảm trong tổng kim ngạch xuất khẩu là không
nghiêm trọng và giá trị xuất khẩu hàng may mặc vẫn tăng nhẹ. Nguyên nhân cơ bản của
sự tăng trưởng này không phải ở chỗ các doanh nghiệp có vốn hay công nghệ vượt trội
mà do giá nhân công của Việt Nam rẻ, hàng gia công truyền thống và chiếm số lượng lớn
của các doang nghiệp đa số là các mặt hàng may mặc thông dụng phổ biến, không phải là
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
19
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
những nhãn hàng thời trang cao cấp, xa xỉ nên dù khủng hoảng kinh tế thì nhu cầu về
hàng may mặc này cũng không sụt giảm nghiêm trọng nên các doanh nghiệp dệt may
không gặp qúa nhiều trở ngại.
Năm 2009 nền kinh tế có những dấu hiệu phục hồi nên xuất khẩu cũng khởi sắc hơn. Cơ
cấu mặt hàng xuất khẩu như sau:
Bảng 3 - Cơ cấu hàng xuất khẩu năm 2009( đvị: trUSD)
Tổng KNXK
377.1
chè
22.026
hàng may mặc
222.753
phụ tùng ô tô
18
xe máy
20

các mặt hàng khác
93.321
(Nguồn: trích niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc năm 2009)
Có thể nhận thấy rõ ràng dệt may chiếm tỷ trọng lớn trong các sản phẩm xuất khẩu của
tỉnh.
2.3.3 Tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu may mặc.
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
20
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
Sau khi Vĩnh Phúc thực hiện thành công chính sách thu hút đầu tư, năm 2005 các doanh
nghiệp đã đi vào hoạt động ổn định do đó tốc độ tăng trưởng 2005 – 2007là liên tục và ở
mức cao. Năm 2008, đỉnh điểm của khủng hoảng kinh tế thế giới không làm giảm giá trị
xuất khẩu của ngành nhưng rõ ràng đã làm tốc độ tăng trưởng của ngành sụt giảm nghiêm
trọng. Cùng với sự phục hổi của nền kinh tế trong năm 2009 xuất khẩu may mặc cũng
tăng trưởng trở lại không tăng mạnh nhưng khá liên tục và tốc độ tăng cao hơn so với tốc
đọ của xuất khẩu tòan tỉnh. Có thể nhận thấy rằng thị trường của ngành vẫn chưa bão hòa.
Tốc độ của ngành đang tăng chậm và hòan tòan có thể đầu tư nguồn lực để gia tăng giá
trị.
CHƯƠNG 3 CÁC KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT VỚI VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
3.1 Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu.
Điểm mạnh:
- Tỉnh có nguồn lao động dồi dào.
- Các doanh nghiệp hầu hết là doanh nghiệp FDI nên có nguồn lực về vốn, kinh nghiệp và
khả năng kinh doanh tốt.
- Tỉnh có các chính sách thu hút và hỗ trợ doanh nghiệp tốt,
- Vị trí địa lý khá thuận lợi, được đầu tư cơ sở hạ tầng và giao thông tốt.
Điểm yếu:
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
21

Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
- Nguồn lao động chất lượng cao còn yếu và còn thiếu
- Doanh nghiệp sản xuất gia công nên giá trị gia tăng thấp, đồng thời không mang lại
nhiều lợi ích về mặt chuyển dịch công nghệ cao cho tỉnh.
- Cơ cấu sản phẩm không đơn điệu, giá trị không cao
- Sự quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp không mang tính định hướng và
hiệu quả kinh tế xã hội nhiều như các doanh nghiệp Nhà nước do đó không thể
định hướng cho ngành phát triển như thế nào mà việc phát triển ngành như thế nào
là quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Cơ hội:
- Gia nhập WTO giúp các doanh nghiệp giảm bớt các hàng rào thuế quan
- Chính sách xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư, tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh cho Doanh nghiệp
- Xu hướng chuyển dịch sản xuất hàng dệt may từ các nước phát triển sang các nước
đang phát triển mở ra cơ hội cho các Doanh nghiệp xuất khẩu dệt may.
Thách thức:
- Các đối thủ mới gia nhập thị trường, các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ cũng
không thiếu nguồn nhân công giá rẻ như Việt Nam. Họ còn có ngành sản xuất
công nghiệp phụ trợ phát triển và chất lượng nguồn nhân lực tốt.
- Rào cản kỹ thuật từ các thị trường
- Các doanh nghiệp rút vốn đầu tư
Biết cách khắc phục những khó khăn và tận dụng những thuận lợi của mình, tỉnh đã
tạo dựng thành công ngành công nghiệp dệt may. Mang đậm bản chất của ngành dệt may
Việt Nam đó là tập trung vào gia công hàng hệt may xuất khẩu, cả 10 doanh nghiệp của
tỉnh đều phát triển thương mại sản phẩm dệt may xuất khẩu theo hướng mở rộng qui mô.
Đạt được nhiều thành công nhưng sự phát triển thương mại sản phẩm dệt may của tỉnh
còn khá nhiều tồn tại.
Thành công của ngành:
- Giữ vững và mở rộng thị trường cho sản phẩm.

- Gia tăng về sản lượng.
- Tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
22
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
- Tạo được công ăn việc làm ổn định cho lao động nữ.
Tồn tại của ngành:
- Còn bỏ ngỏ một số thị trường tiềm năng.
- Cơ cấu mặt hàng đơn giản, không có sự đa dạng và chuyển dịch cơ cấu mặt hàng
- Trang thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp chưa được đầu tư thỏa đáng.
- Chưa tận dụng được hết sức mạnh của nguồn nhân lực.
3.2 Các đề xuất, kiến nghị với vấn đề nghiên cứu.
Trong xu thế hội nhập thế giới, các quốc gia đều muốn thu được lợi nhuận cao
trong chuỗi giá trị toàn cầu, và lúc này nguồn nhân lực đang trở thành yếu tố cơ bản để
tạo lập lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, của một doanh nghiệp. Đối với các doanh
nghiệp dệt may trong tỉnh, nguồn nhân lực đang trở thành mối quan tâm hàng đầu, là yếu
tố then chốt để giải bài toán năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của ngành. Yêu
cầu đặt ra là phải đảm bảo được số lượng lao động đáp ứng với yêu cầu phát triển của
ngành với chất lượng cao. Đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là giải pháp cơ
bản và cần được ưu tiên số một để nguồn nhân lực đạt đến chất lượng mong muốn.
3.2.1 Các giải pháp
3.2.1.1 Giải pháp thu hút và tạo dựng nguồn nhân lực bền vững.
Để thu hút nguồn nhân lực cần có chính sách và chế độ đãi ngộ hợp lý. Các doanh nghiệp
không chỉ cần thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn phải giữ chân họ ở lại
với doanh nghiệp, gắn kết họ lại thành một tập thể bền vững làm việc hiệu quả. Điều này
là rất quan trọng nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiện thành công.Thực tế
cho thấy rằng, các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may thường xuyên tuyển nhân viên mới
không phải vì công việc gia tăng mà vì quá nhiều nhân viên cũ nghỉ việc. Làm việc với
máy móc thường xuyên, kỉ luật lao động chặt chẽ, áp lực hoàn thành công việc, thường

xuyên tăng ca tạo ra áp lực với các lao động nữ vì họ không có thời gian chăm lo cho bản
thân và gia đình. Do đó muốn giữ chân nhân viên lâu dài các doanh nghiệp cần có một
chế độ đãi ngộ hợp lý để thu hút và giữ chân người lao động. Cụ thể là:
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
23
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
Tiến hành cải thiện môi trường làm việc thân thiện, năng động, hướng tới tính
chuyên nghiệp, hiện đại. Sắp xếp và bố trí đúng người đúng việc, đồng thời đảm bảo công
bằng và hợp lí trong chi trả lương cho người lao động.
Nhằm tạo tính cạnh tranh trong việc thu hút nguồn nhân lực bên ngoài và giữ chân
nguồn nhân lực bên trong, doanh nghiệp có chính sách đãi ngộ, phúc lợi, khen thưởng
hợp lí để tạo điều kiện cho nhân viên thể hiện hết khả năng và gắn bó lâu dài với công ty.
Thường xuyên tiến hành phân tích tình trạng nguồn nhân lực để để đánh giá và cơ
cấu lại sơ đồ tổ chức trong từng giai đoạn, nhằm đảm bảo cho bộ máy công ty luôn hoạt
động có hiệu quả nhất.
Đối với nhân viên, tiến hành đánh giá năng lực của từng nhân viên theo định kỳ
nhằm xem xét khả năng của từng nhân viên để có kế hoạch đào tạo hoặc tái đào tạo.
Có chính sách đào tạo nhân viên nhằm cập nhật những kiến thức mới cũng như
phương thức làm việc cho nhân viên. Ngoài lương cơ bản, tạo điều kiện cho nhân viên
được hưởng những ưu đãi xứng đáng như bán ưu đãi căn hộ, bán ưu đãi cổ phần, quyền
mua cổ phần
3.2.1.2 Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực
Với cán bộ quản lý: cần đào tạo cho họ một hệ thống kiến thức đầy đủ, bài bản về
nền kinh tế thị trường, kiến thức về quản lý và các kỹ năng quản lý, kinh doanh. Bồi
dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý về quan điểm tư tưởng kinh doanh trong giai đoạn mới.
Nhà quản lý biết cách tiếp cận và sử lý thông tin, để kinh doanh có hiệu quả, biết cách
đánh giá thị trường và lĩnh vực doanh nghiệp đang kinh doanh, có kiến thức toàn diện về
tâm lý-xã hội để làm việc tốt với con người.
Đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn cần có đội ngũ thiết kế mẫu và thời trang

chuyên nghiệp, có khả năng gắn kết thời trang với sản xuất, đạt trình độ quốc tế.
Đối với công nhân lao động cần đào tạo cho người công nhân có tay nghề vững
vàng, nắm vững khoa học- công nghệ tiên tiến.
Với yêu cầu như vậy cần có quan điểm: Đào tạo giữ vị trí ảnh hưởng quan trọng
đến chất lượng nguồn nhân lực. Đào tạo nguồn nhân lực của ngành Dệt May cần gắn với
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
24
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Thương
mại
nhu cầu phát triển của đất nước, của ngành, gắn với tiến bộ của khoa học - công nghệ.
Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May là công việc chung của chính quyền, của các
cơ sở đào tạo, của doanh nghiệp và của chính bản thân người lao động.
Để hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của ngành Dệt May hướng đến
sự phát triển bền vững của ngành cần:
Thứ nhất, nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với
đặc điểm nguồn nhân lực của ngành Dệt May. Chương trình đào tạo –phát triển cần được
tính toán từ hai phía: kế hoạch đào tạo-phát triển của doanh nghiệp và một hệ thống cơ sở
đào tạo đủ sức đáp ứng với yêu cầu của doanh nghiệp.
Từng doanh nghiệp Dệt may chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo theo các bước:
(1) Dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của doanh nghiệp
(2) Xác định kế hoạch đào tạo
(3) Tổ chức thực hiện
(4) Xác định nguồn kinh phí cho đào tạo
(5) Đánh giá hiệu quả hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Đặc biệt việc đánh giá hiệu quả hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của doanh
nghiệp dệt may cần xem xét như đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư, để giúp doanh
nghiệp có thể mạnh dạn bỏ những khoản tiền lớn cho hoạt động đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực. Ngoài ra doanh nghiệp cũng xây dựng các chính sách hỗ trợ để kích
thích công nhân tự nâng cao tay nghề như chế độ tiền lương, tiền thưởng vượt định mức,
chính sách thưởng, phạt trong doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đối với khâu tuyển

dụng đầu vào:
Các chương trình đào tạo xây dựng phải phù hợp với nguồn nhân lực của ngành
Dệt May:
Đào tạo cán bộ quản lý sẽ kết hợp ngắn hạn với dài hạn, kết hợp đào tạo trong
nước với đào tạo ở nước ngoài, kết hợp đào tạo chính qui, tại chức, bằng 2 với các lớp
không chính qui như các lớp cập nhật lại, đào tạo lại, chuyên đề. Liên tục mở các lớp đào
tạo cán bộ công nghệ trình độ Đại học và cao đẳng. Thường xuyên mở các lớp cập nhật
kiến thức.
Trần Thị Kim Tuyến Khoa: Kinh tế Thương mại
25

×