Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Một số giải pháp nhằm khơi tăng nguồn vốn thông qua việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại VP bank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.31 KB, 76 trang )

Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ VIỆC MỞ, SỬ DỤNG
TÀI KHOẢN TIỀN GỬI TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA NÓ
TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng đã xuất hiện lâu trong lịch sử phát triển của loài người. Cả
tiếng Pháp cổ “Banque” và tiếng Ý “Banca” được sử dụng từ nhiều thế kỷ
trước để chỉ “cái ghế dài” hay “bàn của người gửi tiền” là minh chứng cho
nhận định trên.
Thực tế ở Mỹ, NHTM đầu tiên được thành lập năm 1782, trước khi
hiến pháp liên bang được thông qua và nhiều NHTM được thành lập từ những
năm 1800 đến nay vẫn đang hoạt động. Ở Pháp, khái niệm về ngân hàng đã
xuất hiện trong luật ngân hàng năm 1941,
Khái niệm về ngân hàng thật phong phú có thể dùa trên tính chất và
mục đích hoạt động hoặc sự kết hợp với đối tượng. ở Mỹ, “ngân hàng là loại
hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tính chất kinh doanh nào trong nền
kinh tế”. ở Pháp, ngân hàng được coi “là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành
nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình
thức khác, các số tiền mà họ dùng cho chính họ dùng và hoạt động của cho
chính họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu tín dụng hay dịch
vụ tài chính” (luật ngân hàng 1941). Còn trong luật ngân hàng Đan Mạch
1930 lại định nghĩa “những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ ký thác,
buôn bán vàng, bạc, hành nghề thương mại và hành nghề địa ốc, các phương
tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo
hiểm ”
Ở Việt Nam trong nghị định 49/NĐCP về tổ chức NHTM định nghĩa:
“Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng có hoạt động chủ yếu và thường


SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
1
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
xuyên là nhân tiền gửi, cho vay, cung ứng phương tiện thanh toán và các dịch
vụ ngân hàng khác”.
Như vậy, tuy khái niệm về ngân hàng có khác nhau, song qua các định
nghĩa trên ta vẫn thấy nội dung bao trùm về NHTM, đó là chức năng nhận
tiền gửi- ký thác của các ngân hàng để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của ngân hàng.
Ngày nay trong tiến trình phát triển chung của nền kinh tế, cùng với sự
thông thoáng trong quy định lĩnh vực, phạm vi kinh doanh phù hợp với xu thế
hội nhập, các tổ chức tài chính phi ngân hàng càng tham gia nhiều vào lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ. Tuy nhiên vẫn tốn tại một ranh giới nhất định giữa
ngân hàng với các tổ chức phi ngân hàng ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh
doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn. Chính từ hoạt động này đã
tạo nên chức năng tạo tiền thông qua hệ số nhân tiền trong toàn bộ hệ thống
ngân hàng. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các TCTD.
1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Tầm quan trọng của NHTM trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế quốc
dân được thể hiện qua các chức năng của nó. Xét trên những khía cạnh khác
nhau, chức năng của NHTM được đề cập đến là khác nhau, song nhìn chung
người ta vẫn thống nhất NHTM tồn tại và phát triển với 3 chức năng cơ bản
là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền.
1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
NHTM làm chức năng trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối” giữa
cung và cầu vốn, giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn.
Thông qua việc huy động vốn của các chủ thể có vốn dư thừa, NHTM đã hình
thành nên một quỹ để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đi vay của các chủ thể cần
vốn. Với chức năng này, ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa
đóng vai trò là người cho vay.

NHTM thực hiện chức năng này xuất phát từ sự tuần hoàn vốn tiền tệ
trong nền kinh tế. Bởi trong một thời điểm nhất định có một nhóm chủ thể dư
thừa vốn, nhóm khác lại thiếu vốn; và ngay cả trong quá trình sản xuất kinh
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
2
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
doanh của một chủ thể cũng có lúc thừa vốn, khi thiếu vốn. Lợi dụng đồng
vốn sẵn có trong tay mình do huy động được, với khả năng thu thập và xử lý
thông tin rất chuyên nghiệp, ngân hàng có thể dế dàng giải quyết mối quan hệ
cung- cầu tín dụng cả về khối lượng vốn và thời hạn cho vay.
Thông qua chức năng này, NHTM đã góp phần tạo ra lợi Ých cho tất cả
các bên trong mối quan hệ tín dụng này. Đối với người cho vay, họ thu được
lợi từ số vốn tạm thời nhàn rỗi thông qua lãi được hưởng. Ngay cả khi họ
không có cơ hội hoặc khả năng đầu tư thì họ vẫn làm được điều này. Ngoài
ra, họ được an toàn về số tiền đã gửi và được hưởng thêm nhiều tiện Ých khác
từ phía ngân hàng. Đối với người đi vay, họ dễ dàng nhanh chóng thoả mãn
được nhu cầu kinh doanh của mình một cách hợp pháp mà không phải tốn
nhiều công sức, thời gian. Và cũng như người gửi, họ có thể nhận được sự tư
vấn miễn phí cho mối quan hệ này. Đối với ngân hàng, họ thu được lợi nhuận
từ sự chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi
giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để NHTM tồn tại và phát triển. Đối với
nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất
được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này
NHTM đã biến vốn nhàn rỗi, không hoạt động thành nguồn vốn hoạt động
kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Thực hiện chức năng này nghĩa là ngân hàng theo lệnh của khách hàng
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ
hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của người khác.

NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực
hiện chức năng làm thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các
khoản thu- chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề cho chức năgn
này. Ngoài ra, nó còn thực hiện trên cơ sở khắc phục tính kém hiệu quả của
thanh toán trực tiếp giữa các chủ thể trong xã hội, xuất phát từ những rắc rối
nảy sinh như: chi phí thanh toán cao, rủi ro do trém , cướp,
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
3
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
Chức năng trung gian thanh toán của NHTM có ý nghĩa to lớn trong
mục tiêu nâng cao tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm
chi phí lluu thông cho toàn xã hội, tăng tốc độ chu chuyển vốn trong mềm
kinh tế. Đối với ngân hàng, thực hiện chức năng này làm tăng uy tín của ngân
hàng và do đó làm tăng khả năng huy động vốn, tăng khả năng cạnh tranh cho
ngân hàng.
1.2.3. Chức năng tạo tiền
Từ một lượng tiền cơ sở tăng lên, thông qua hệ thống ngân hàng một
lượng tiền mới được tạo ra.
Sở dĩ NHTM có thể tạo tiền là xuất phát từ 2 chức năng cơ bản là chức
năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng có
một “quỹ cho vay” tập trung toàn bộ lượng vốn nhàn rỗi của nền kinh tế.
Thông qua chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng có thể trích tài khoản
tiền gửi của chủ thể này chi trả cho chủ thể khác. Chính quá trình thanh toán
tiền giữa các chủ thể trong xã hội thông qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
đã tạo ra “tiền bót tệ”. Loại tiền này được các NHTM tạo ra bằng khả năng
biến mức tiền gửi ban đầu của một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành
một khoản tiền lớn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh
toán qua ngân hàng. Khi một ngân hàng cho vay thông qua tài khoản tại ngân
hàng khác, nó làm giảm vốn tại ngân hàng cho vay đồng thời làm tăng tiền
gửi tại ngân hàng kia. Cứ như vậy, lượng tiền gửi duy trì trên hệ thống ngân

hàng từ một lượng tiền nhất định ban đầu tạo khả năng tạo tiền cho ngân
hàng. Chức năng này của NHTM chỉ có thể thực hiện được nếu vốn mà
NHTM huy động đã cho vay được và số tiền đó phải được luân chuyển trong
hệ thống ngân hàng, nghĩa là chức năng này của NHTM chỉ xó thể thực hiện
được nếu xói sự tham gia của một hệ thống các NHTM và luôn có sự trợ giúp
của NHTƯ.
Loại tiền này được các NHTM tạo ra bằng khả năng biến mức tiền gửi
ban đầu của một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn
gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua ngân hàng.
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
4
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
Khi một ngân hàng cho vay thông qua tài khoản tại một ngân hàng khác nó
làm giảm vốn tiền gửi tại ngân hàng cho vay đồng thời làm tăng tiền gửi tại
ngân hàng kia. Cứ như vậy, lượng tiền gửi duy trì trên hệ thống ngân hàng từ
một lượng tiền nhất định ban đầu tạo khả năng tạo tiền cho ngân hàng. Chức
năng này của NHTM chỉ có thể thực hiện được nếu vốn mà NHTM huy động
đã cho vay được và số tiền đó phải luân chuyển trong hệ thống ngân hàng,
nghĩa là chức năng này của NHTM chỉ có thể thực hiện được nếu có sự tham
gia của một hệ thống các NHTM và luôn có sự giúp đỡ của NHTƯ.
Tạo tiền là chức năng vốn có của hệ thống NHTM dùa trên sự kết hợp
giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán. Với
khả năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền
kinh tế, đáp ứng được nhu cầu chi trả của xã hội, mở rộng khái niệm về
“tiền”. Chức năng này càng có ý nghĩa trong công tác thanh toán không dùng
tiền mặt.
1.3. Vai trò của NHTM
Vai trò của NHTM được xác định dùa trên những chức năng và trên cơ
sở các nghiệp vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn, bởi chức năng là tính vốn
có của NHTM, vai trò của NHTM là sự vận dụng các chức năng đó vào hoạt

động thực tiễn. Vai trò của NHTM thay đổi cùng với sự phát triển về kinh tế-
xã hội và phụ thuộc vào các hoạt động chủ quan của các cơ quan pháp lý. Các
vai trò của NHTM có thể kể đến là:
1.3.1. Cung ứng vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo lập từ mọi chủ thể trong xã hội thông qua quá trình tích
luỹ, từ tiết kiệm của mỗi cá nhân,doanh nghiệp đến chính phủ. Tuy nhiên nếu
chỉ dừng lại ở tích tụ vốn mà không diễn ra đồng thời với quá trình tập trung
thì nảy sinh một số hạn chế như: tích tụ tự phát không hiệu quả, qui mô vốn
tạo lập được nhỏ, thời gian sử dụng vốn ngắn; từ đó làm giảm sút quá trình
tích tụ vì quy mô vốn nhỏ nên có xu hướng tiêu dùng đi.
Ngân hàng xuất hiện với chức năng trung gian tín dụng sẽ tập trung các
quỹ nhỏ, lẻ của quá trình tích tụ thành một quỹ khổng lồ. Băng vốn huy động
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
5
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
được trong nền kinh tế, bằng hoạt động tín dụng, NHTM sẽ cung cấp vốn cho
mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu một cách kịp thời cho quá trình
tái sản xuất. Như vậy, nhờ có hoạt động của hệ thống NHTM mà đặc biệt là
hoạt động tín dụng, các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế có điều kiện mở
rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, nâng cao năng suất lao động,
nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.3.2. Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh, và phải sản xuất trên cơ sở nhu cầu của thị
trường trên mọi phương diện: khối lượng, chất lượng, giá cả, tức phải sản
xuất theo tiêu chí: sản xuất theo nhu cầu thị trường không sản xuất theo năng
lực của mình. Để có thể đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng đa dạng của khách
hàng và tác động khốc liệt của cạnh tranh, bên cạnh nâng cao chất lượng lao
động, cải tiến công tác quản lý, kế toán, thì vấn đề được mọi chủ doanh

nghiệp quan tâm đó là máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi nguồn
nguyên liệu mới với chi phí và chất lượng phù hợp, Tất cả những nhu cầu
đó cần được thoả mãn với nhu cầu vốn rất lớn. Do đó, để giải quyết khó khăn
này, các doanh nghiệp bằng nhiều hình thức để tăng lượng vốn cần thiết,
trong đó nguồn quan trọng nhất là đi vay ngân hàng, bởi đi vay ngân hàng
không chỉ nhận được lượng vốn cần thiết đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất,
doanh nghiệp còn nhận được những lời tư vấn rất chuyên nghiệp của nhân
viên ngân hàng.
Vậy là thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã kết nối giữa doanh
nghiệp với thị trường. Nguồn vốn ngân hàng cung cấp cho các doanh nghiệp
đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá
trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường và tạo
ra vị thế vững chắc cho doanh nghiệp trên thị trường.
1.3.3. NHTM là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
6
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
Nền kinh tế thị trường với những quy luật khách quan của nó cần thiết
phải có “bàn tay hữu hình” điều tiết. Để đạt được hiệu quả cao trong quá trình
này, Nhà nước cần thiết phải sử dụng rất nhiều công cụ, trong công cụ đặc
biệt quan trọng là hoạt động của hệ thống NHTM. Thực tế chỉ ra rằng, NHTM
hoạt động hiệu quả thông qua các hoạt động kinh doanh của mình sẽ thực sự
là một công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng việc mở rộng tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ
thống NHTM, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng
trong lưu thông, giảm sức Ðp tiền mặt giả tạo. Thông qua việc cung ứng tín
dụng cho các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt
luồng tiền, tập hợp và phân phối vốn của thị trường, điều chuyển chúng một
cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô “Nhà nước điều

tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.3.4. NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá thì nhu cầu giao lưu kinh tế
giữa các quốc gia là xu thế tất yếu bởi không thể tồn tại một quốc gia hoạt
động độc lập, không giao lưu với thế giới bên ngoài. Trong vô số hoạt động
hoà nhập giao lưu quốc tế thì nền tài chính mỗi nước cũng bước vào công
cuộc hội nhập. Và trong công cuộc đó, các NHTM cùng các hoạt động kinh
doanh của mình đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Với các nghiệp vụ
kinh doanh như: nhận tiền gửi, cho vay, chuyển tiền, NHTM đã tạo điều
kiện thúc đẩy ngoại thương không ngưng mở rộng, thực hiện tốt vai trò cầu
nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
NHTM ra đời và phát triển trên cơ sở sản xuất và lưu thông hàng hoá
phát triển, đến lượt nó, các NHTM thông qua chức năng, vai trò của mình đã
trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cơ thể kinh tế của mỗi quốc gia;
đóng góp vào sự hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế.
1.4. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
7
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
NHTM có chức năng, vai trò quan trọng như vậy là do hệ thống các sản
phẩm dịch vụ mà nó cung cấp, do nó thực hiện nhiều nghiệp vụ nhất trong
nền kinh tế. NHTM có bao nhiêu nghiệp vụ và đó là những nghiệp vụ gì?
Quan điểm Marketing chỉ ra các nghiệp vụ cơ bản của NHTM theo
khách hàng. Tuy nhiên quan điểm phổ biến nhất là phân loại nghiệp vụ của
NHTM dùa trên bảng cân đối kế toán của nó, nghĩa là ta chia nghiệp vụ của
NHTM làm 2 mảng: nghiệp vụ tài sản Có, nghiệp vụ tài sản Nợ và vốn tự có
1.4.1. Nghiệp vụ tài sản Có
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích
nhằm đảm bảo an toàn, cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội

dung của nghiệp vụ này bao gồm:
* Nghiệp vụ ngân quỹ
Nghiệp vụ ngân quỹ là nghiệp vụ được NHTM thực hiện thông qua
việc duy trì các quỹ dự trữ để đảm bảo yêu cầu của pháp luật và yêu cầu trong
kinh doanh.
* Nghiệp vô cho vay
Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh
doanh của các NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản tín dụng ngắn hạn
(thời hạn < 1 năm) và tín dụng trung- dài hạn (> 1 năm) đối với nền kinh tế.
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính
Là nghiệp vụ mà các ngân hàng thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn
của mình thông qua các hoạt động: hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng
khoán trên thị trường,
* Nghiệp vụ khác
Bao gồm các nghiệp vụ như: kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, kim loại,
đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và
đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ khác liên quan đến ngân
hàng như: dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá; cho thuê két cầm đồ
và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật,
1.4.2. Nghiệp vụ tài sản Nợ và Vốn tự có
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
8
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động của
NHTM. Khác với nghiệp vụ tài sản Có, đây là nhóm các nghiệp vụ phản ánh
nghĩa vụ của ngân hàng với xã hội, bao gồm các nghiệp vụ:
* Nghiệp vụ tiền gửi
Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào
ngân hàng với mục đích thanh toán hay bảo quản tiền gửi và các khoản tiền
nhàn rỗi của cá nhân gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Từ các

khoản tiền gửi này NHTm tạo thành quỹ cho vay phục vụ mục đích kinh
doanh của mình.
* Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá
Khi thiếu vốn, NHTM có thể phát hành giấy tờ có giá để tài trợ cho nhu
cầu của mình. Các NHTM sẽ phát hành CDs và trái phiếu nhằm mục đích chủ
yếu là huy động vốn trung- dài hạn để tài trợ cho các khoản vốn dài hạn của
ngân hàng vào nền kinh tế.
Đây là nghiệp vụ tạo nguồn vốn ổn định cho ngân hàng bởi ngân hàng
kế hoạch được thời gian cũng như số tiền chi trả. Tuy nhiên do giá phải trả
(lãi suất) cho hình thức huy động này khá cao nên nghiệp này khá cao nên
nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và
vốn huy động tiền gửi không đủ.
* Nghiệp vụ đi vay
Ngoài mét số hình thức tạo vốn kể trên, các NHTM còn có thể tài trợ
cho nhu cầu vốn của mình bằng hình thức đi vay các TCTD trên thị trường
tiền tệ và vay NHTƯ dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu.
* Vốn tự có
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập
được, thuộc sở hữu của ngân hàng hay được quyền sử dụng như vốn của chủ
sở hữu hay những khoản vốn được duy trì lâu dài và thường xuyên tại các
ngân hàng mà các ngân hàng được phép sử dụng để bù đắp trong quá trình
hoạt động.
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
9
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
Theo luật các TCTD, vốn tự có của NHTM gồm 2 thành phần cơ bản
là: vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ. Vốn tự có giữ vai trò quan
trọng trong quá trình hoạt động của ngân hàng thông qua 3 chức năng cơ bản
là; tạo lập, bảo vệ, phát triển hoạt động. Với 3 chức năng này, tuy chiếm tỷ
trọng rất nhỏ, song vốn tự có là đòn bẩy cho hoạt động của ngân hàng thông

qua một loạt các chỉ tiêu: tỷ lệ cho vay tối đa một khách hàng/vốn tự có, dư
nợ tối đa/ vốn tự có, tỷ lệ mua sắm tài sản cố định/ vốn tự có,
Do đó, vấn đề bảo toàn và không ngừng phát triển Vốn tự có của ngân
hàng theo nhu cầu của sự phát triển là một mục tiêu hướng tới của toàn hệ
thống NHTM.
1.4.3. Các nghiệp vụ trung gian
Đây là những nghiệp vụ không được phản ánh trực tiếp trên bảng cân
đối kế toán, tuy nhiên nó góp phần quan trọng cho kết quả kinh doanh của
ngân hàng, ảnh hưởng tới chi phí của ngân hàng cũng như hỗ trợ các dịch vụ
cho ngân hàng.
Các nghiệp vụ trung gian bao gồm các nhóm nghiệp vụ sau:
- Nhóm các nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước.
- Nhóm các nghiệp vụ kinh doanh hối đoái.
- Nhóm các nghiệp vụ liên quan tới vấn đề môi giới và đại lý chứng
khoán.
- Nhóm các nghiệp vụ tư vấn tài chính.
1.4.4. Các nghiệp vụ ngoại bảng
Đây là những nghiệp vụ chỉ được hạch toán trên các tài khoản ngoại
bảng, và được hạch toán theo bót toán đơn: Nhập- Xuất.
Nhóm nghiệp vụ này bao gồm:
- Các nghiệp vụ tín dụng cam kết, như bảo lãnh,
- Các cam kết trong giao dịch hối đoái, như: cam kết trong nghiệp vụ
kỳ hạn, tương lai, quyền chọn,
- Các cam kết trong giao dịch về tài sản thế chấp.
2. Một số lý luận về việc mở và sử dụng TKTG tại ngân hàng
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
10
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
2.1 Ý nghĩa của việc mở và sử dụng TKTG tại ngân hàng
Tài khoản tiền gửi chiếm một tỷ trọng quan trọng trong kết cấu tài sản

Nợ của ngân hàng. Nó vừa thể hiện quy mô vốn kinh doanh của ngân hàng,
vừa thể hiện nghĩa vụ của ngân hàng đối với xã hội, đồng thời cũng thể hiện
uy tín của ngân hàng trên thị trường. ý nghĩa quan trọng của việc mở và sử
dụng TKTG của khách hàng tại ngân hàng được thể hiện cụ thể:
2.1.1. Đối với người mở và sử dụng tài khoản tiền gửi: họ được hưởng
lợi từ tài khoản tiền gửi hoặc được hưởng những dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng với sự chính xác, nhanh chóng. Ngoài ra, họ còn được đảm bảo an toàn
về tài sản của mình khi giao nã cho ngân hàng. Sở dĩ ngân hàng là nơi an toàn
bởi tính chuyên nghiệp, tính đổ vỡ dây chuyền của nó mà một ngân hàng ra
đời phải rất khó khăn. Vì vậy mà sự hoạt động an toàn của nó luôn là đối
tượng của các cơ quan quản lý, điều đó đồng nghĩa với tính an toàn cao của
các tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng.
2.1.2. Đối với ngân hàng: Thông qua việc mở và sử dụng tài khoản
tiền gửi tại ngân hàng mà các NHTM có thể huy động vốn với chi phí thấp
hơn các hình thức huy động khác. Từ khoản tiền huy động này, ngân hàng có
thể mở
rộng quy mô hoạt động, mở rộng việc cung cấp dịch vụ ngân hàng ra thị
trường. Từ đó mà làm tăng uy thế và hình ảnh của ngân hàng trên thị trường.
ý nghĩa quan trọng hơn là mở rộng khả năng tạo tiền trong toàn bộ hệ thống
ngân hàng.
2.1.3. Đối với nền kinh tế: Thực tế hiện nay cho thấy tiềm lực tài chính
nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn, song vấn đề là làm thế nào để có thể thu hót
vào ngân hàng, để từ đó thực hiện việc đầu tư phát triển kinh tế xã hội?
Đó không chỉ dừng lại ở trách nhiệm của các nhà ngân hàng, mà của
toàn xã hội trong việc tác động từng bước làm thay đổi thãi quen cất trữ tiền,
vàng, Do thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự phát triển, tâm lý
mua giấy tờ có giá còn rụt rè (do thời hạn dài), nên biện pháp hữu hiệu là gửi
vào ngân hàng hưởng lãi. Mở và sử dụng tài khoản tiền gửi đối với doanh
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
11

Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
nghiệp là rất cần thiết, điều này chủ doanh nghiệp nào cũng ý thức được.
Song đối với cá nhân thì vấn đề lại khác. Tâm lý và thãi quen cất trữ tiền mặt
vẫn ăn sâu vào tiềm thức của họ. Nhưng nếu làm được và làm tốt điều này thì
lợi Ých với toàn xã hội, với nền kinh tế là rất lớn. Thứ nhất, việc mở và sử
dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng sẽ nâng cao hiệu quả thanh toán không
dùng tiền mặt, từ đó mà việc quản lý và điều tiết cung tiền dễ dàng hơn Thứ
hai , mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng đảm bảo việc chi trả giữa
các chủ thể trong nền kinh tế nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, qua đó tăng tốc
độ chu chuyển vốn tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội.
2.2. Những nhân tố tác động đến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi
tại ngân hàng
Tác động đến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng bao
gồm hai nhóm nhân tố: nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách quan
2.2.1. Nhóm nhân tố khách quan:
Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài, thuộc môi trường kinh
tế vĩ mô hay các đặc trưng trong nhu cầu tâm lý khách hàng, có tác động
khác nhau đến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi là khác nhau, có thể kể
đến trong nhóm nhân tố này là:
- Thu nhập của chủ tài khoản;
- Tâm lý, thãi quen, sở thích của chủ tài khoản;
- Tình hình kinh tế;
- Môi trường kinh tế và môi trường chính trị;
- Cơ chế chính sách của Nhà nước và hành lang pháp lý về
hoạt động ngân hàng.
Trong các nhân tố trên, ta đặc biệt quan tâm đến nhân tố tâm lý, thãi
quen, sở thích của chủ tài khoản bởi nó có quyết định lớn đến việc khách
hàng có mở và sử dụng TKTG ở ngân hàng hay không, hay là để tiền ở nhà?
Thãi quen tiêu tiền mặt hay thãi quen thanh toán qua ngân hàng sẽ chiếm ưu
thế?, Tác động đến nó là cơ chế, chính sách, là hành lang pháp lý của Nhà

nước. Bởi nếu tồn tại một cơ chính sách, một hành lang pháp lý thông thoáng
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
12
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
thì ngân hàng sẽ linh hoạt và chủ động đưa ra các biện pháp kích thích khách
hàng mở và sử dụng TKTG tại ngân hàng như: mức lãi suất, các tiện Ých kèm
theo, Thêm vào đó hoạt động mở và sử dụng TKTG ở ngân hàng thực sự
tăng trưởng thu nhập của chủ tài khoản tăng cũng như cách thức trả lương qua
tài khoản ngân hàng phát triển mạnh.
2.2.2. Nhóm nhân tố chủ quan, bao gồm:
- Chính sách của ngân hàng;
- Hình thức huy động vốn;
- Chính sách Marketing;
- Chính sách lãi suất;
- Uy tín của ngân hàng;
- Bảo hiểm tiền gửi;
- Trình độ cán bộ;
- Hệ thống dịch vụ cung cấp cho khách hàng
Khác với nhóm nhân tố khách quan, nhóm nhân tố chủ quan bao gồm
những nhân tố liên quan trực tiếp tới các chính sách, quyết định, chiến lược
của ngân hàng trong việc thu hót việc mở và sử dụng TKTG của khách hàng.
Do là một ngành dịch vụ chính sách khách hàng, chính sách marketing, cùng
uy tín và các biện pháp bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng là rất quan trọng.
Một Ên tượng tốt về thái độ của nhân viên, về trụ sở khang trang, về chính
sách tiếp thị độc đáo, một sự an toàn cho cả một núi của chắt chiu bao năm,
tất cả sẽ tạo tiền đề lôi kéo khách hàng về phía ngân hàng. Ngoài ra, khuyến
khích về vật chất là không thể thiếu. Dù rằng có thể không biết đến khái niệm
chi phí cơ hội, song khách hàng cũng có sự so sánh: gửi ngân hàng lãi suất thì
thấp, chẳng được gì thêm mà đến đó gửi tiền phải chờ đợi tốn thời gian mà
đôi khi bực mình, thà để tiền ở nhà bớt ăn bớt tiêu một chút

Dù là chủ quan hay khách quan thì mỗi nhân tố đều có tác động nhất
định đến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng.
Ngân hàng nào huy động vốn được nhiều là do họ biết đề cao các nhân tố
khác nhau trong từng thời kỳ khác nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
13
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
cũng như tiềm lực của ngân hàng. Là loại hình Marketing dịch vụ, doanh
nghiệp ngân hàng càng cần thiết phải quan tâm đến những yếu tố tác động
đến hành vi của khách hàng để từ đó đưa ra những quyết sách phù hợp nhằm
lôi kéo khách hàng đến với mình.
2.3. Tác động của công nghệ thông tin đến việc mở và sử dụng tài
khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng.
2.3.1. Vai trò của công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng
Công nghệ thông tin (CNTT) không còn là khái niệm xa lạ trong nền
kinh tế hiện nay. Với một mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch như những
vòi bạch tuộc trong nền kinh tế, CNTT đối với ngành ngân hàng có vai trò
đặc biệt quan trọng. Vì vậy, “phát triển CNTT là một trong những nhiệm vụ
được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược đổi mới và phát triển hoạt động ngân
hàng, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát
triển so với ngân hàng các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới”( trích
bài thuyết trình của ông Tạ Quang Hiến- Cục trưởng cục công nghệ ngân
hàng tại Học viện ngân hàng tháng 1 năm 2003).
Trong lé trình ra nhập AFTA, WTO, hiệp định thương mại Việt- Mỹ và
nhiều tổ chức khác trong khu vực cũng như quốc tế, CNTT ngân hàng càng
có ý nghĩa đặc biệt đối với nền tài chính quốc gia cũng như sự phát triển kinh
tế đáp ứng nhu cầu hội nhập. Những vai trò to lớn của CNTT trong ngân hàng
có thể kể đến:
+ CNTT được coi như cỗ máy phát lực cho hoạt động ngân hàng. Nếu
cỗ máy này ngừng hoạt động toàn bộ hoạt động ngân hàng sẽ đình trệ.

+ CNTT tạo ra những tiện Ých hết sức to lớn cho khách hàng như:
ATMs, thẻ debit card, telephone banking,
+ CNTT làm thay đổi môi trường hoạt động của ngân hàng sang môi
trường trong suốt không thấy chứng từ, qua đó thay đổi điều kiện, quá trình
xử lý và phương pháp kinh doanh của ngân hàng.
+ CNTT xoá bỏ khoảng cách giữa các ngân hàng về không gian, thời
gian, phạm vi, làm cho ngân hàng “dài ra”, phạm vi rộng ra.
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
14
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
+ CNTT tạo khả năng quản lý tốt hơn, ảnh hưởng to lớn đến thành công
hay thất bại của ngân hàng, đặc biệt trong môi trường cạnh tranh gay gắt như
hiện nay bởi CNTT có thể tạo ra những khả năng mới trong cạnh tranh.
+ CNTT góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động,
giảm chi phí quản lý và chi phí điều hành.
2.3.2. Thực trạng của CNTT trong ngân hàng Việt Nam hiện nay
+ Xây dựng trên quy trình thủ công, không đáp ứng tính thông lệ và
chuẩn mực quốc tế, không đáp ứng yêu cầu hội nhập.
CNTT ngân hàng xây dựng trên môi trường FOXPRO với rất nhiều hạn chế:
khả năng tích hợp thấp, tính bảo mật kém, tốc độ xử lý chậm,
+ Nền tảng công nghệ là FOXPRC và môi trường WINDOW thấp. + NÒn
t¶ng c«ng nghÖ lµ FOXPRC vµ m«i trêng WINDOW thÊp.
+ Xử lý phân tán, tốc độ xử lý thấp, tối đa được 300.000 bản ghi, khả
năng quản lý số lượng giao dịch và bản ghi thấp.
+ Không tạo ra tiện Ých cho khách hàng do tính mở của hệ thống rất
thấp.
+ Khả năng an ninh về toàn vẹn dữ liệu thấp.
+ Khả năng tích hợp và thích hợp thấp.
+ Trình độ cán bộ CNTT còn nhiều bất cập.
+ Mô hình tổ chức còn nhiều bất cập do các ngân hàng có quá nhiều

chi nhánh, tới tận chi nhánh cấp 4.
Từ thực trạng CNTT như trên, hiện đại hoá CNTT là rất cần thiết nhằm làm
giảm áp lực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, giảm áp lực về khả năng
cạnh tranh với các hệ thống ngân hàng trong nước và nước ngoài, cũng như
giảm thả nổi đồng vốn tăng khả năng kiểm soát.
2.3.3. CNTT đối với việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân
hàng
Nhận thức được sự cần thiết phải hiện đại hoá CNTT trong hoạt của mình, các
NHTM đang từng bước tiến hành hiện đại hoá theo chương trình hiện đại hoá
CNTT của toàn ngành khởi xướng từ năm 1990. Trong phạm vi khóa luận,
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
15
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
em chỉ đề cập đến tác động của hiện đại hoá CNTT đối với việc mở và sử
dụng tài khoản tiền gửi.
+ Thứ nhất, hiện đại hoá CNTT giúp ngân hàng có thể tập trung hóa tài
khoản của khách hàng. Có thể nói đây là một trong những tác dụng to lớn
nhất của CNTT. Thực tế hiện nay do chưa có khả năng Online trên toàn hệ
thống nên việc quản lý tài khoản khách hàng rất phân tán, phi khoa học ở chỗ
cùng một khách hàng gửi tiền vào một hệ thống ngân hàng nhưng ở các chi
nhánh, phòng giao dịch khác nhau nên mỗi chi nhánh, phòng giao dịch quản
lý tài khoản riêng biệt mà chưa có sự kết nối và chia sẻ thông tin tài khoản
khách hàng. Giả sử khi cần tiền khách hàng đến rút nhưng ở một chi nhánh
hay phòng giao dịch thì không đáp ứng nhu câu, muốn có đủ lượng tiền cần
thì khách hàng phải đến phòng giao dịch khác rất mất thời gian mà có khi bỏ
lỡ mất cơ hội kinh doanh, Đó chỉ là một ví dụ rất nhỏ về hạn chế trong việc
chưa tập trung hoá tài khoản.
Hiện đại hoá CNTT sẽ cung cấp một phương tiện cho việc tập trung
hoá tài khoản của khách hàng. Theo đó, tài khoản sẽ được quản lý theo mô
hình tập trung: trung ương quản lý sổ cái, tài khoản khách hàng do chi nhánh

mở và quản lý theo quy định của trung ương. Làm được việc này có ý nghĩa
rất lớn đối với tất cả các chủ thể trong nền kinh tế:
* Đối với khách hàng: Dễ dàng mở rộng các hoạt động dịch vụ để có thể
giao dịch với ngân hàng tại nhiều địa điểm khác nhau; giảm thời gian giao
dịch với ngân hàng; cùng một lúc có thể tiếp cận với nhiều loại hình dịch vụ
do hệ thống tài khoản được tập trung hoá; giảm chi phí giao dịch với ngân
hàng.
* Đối với ngân hàng: Tập trung hóa tài khoản thanh toán sẽ nâng cao khả
năng tích tụ và tập trung vốn; nâng cao hiệu suất sử dụng vốn trong kinh
doanh; đẩy nhanh tốc độ thanh toán; xoá bỏ tình trạng khan hiếm tiền mặt giả
tạo; giảm chi phí điều chuyển vốn nội bộ; nâng cao năng lực quản lý Nhà
nước trong điều hành chính sách tiền tệ.
* Đối với nền kinh tế: góp phần bình ổn giá trị của đồng tiền; giúp ổn định
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
16
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
kinh tế vĩ mô; nâng cao khả năng huy động vốn; tăng cường vai trò quản lý và
kiểm soát của các ngân hàng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng; tăng tốc độ lưu thông và chu chuyển vốn toàn xã hội; cải tiến
phương thức thanh toán; thúc đẩy đầu tư; tạo điều kiện để ngân hàng Việt
Nam hội nhập.
Tập trung hoá tài khoản là xu thế tất yếu trong chương trình hiện đại
hoá công nghệ ngân hàng, và là tác động căn bản giữ vai trò tiền đề quan
trọng khác cho các tác động của CNTT trong việc mở và sử dụng tài khoản
tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng.
+ Thứ hai, hiện đại hoá CNTT trong ngân hàng giúp các tài khoản tự
động một cách tương đối, do đó tiết kiệm thời gian và chi phi giao dịch cho cả
khách hàng và ngân hàng.
+ Thứ ba, hiện đại hoá CNTT trong ngân hàng sẽ góp phần làm tăng số
lượng khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng, đặc biệt là khách hàng doanh

nghiệp trong việc trả lương thông qua dịch vụ đầu tư tự động- SWEEPING;
dịch vụ chuyển tiền tự động- AFT.
+ Thứ tư, hiện đại hoá CNTT trong ngân hàng sẽ góp phần làm giảm
khối lượng công việc ghi chép kế toán cũng như số lượng sổ sách lưu trữ tại
ngân hàng, từ đó mà nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Tác động của CNTT trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là rất lớn.
Hiện đại hóa CNTT là việc làm cần thiết của bất kỳ ngân hàng nào trong xu
thế hội nhập hiện nay. Tuy nhiên vốn để đầu tư vào CNTT luôn là bài toán
khó, vì vậy các ngân hàng cần hiện đại có chọn lọc để từng bước hiện đại hoá
ngân hàng.
2.4. Các loại tiền gửi và tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân
hàng
Có nhiều hình thức khác nhau mà ngân hàng có thể sử dụng để huy
động vốn như: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, đi vay. Song nhận tiền
gửi là một hình thức huy động vốn được các ngân hàng ưa chuộng nhất. Thực
tế cho thấy, nguồn vốn huy động thông qua nhận tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
17
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
nhất (70-80% nguồn vốn huy động) bởi những ưu thế của nó đối với không
chỉ ngân hàng mà cho toàn xã hội: chi phí lưu thông bỏ ra thấp hơn so với các
hình thức huy động khác, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, giảm
lượng tiền mặt trong lưu thông,
Có nhiều loại hình tiền gửi trong mét NHTM, tuy nhiên xét về mục
đích thì có thể xếp các loại tiền gửi vào 3 nhóm: tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.
2.4.1. Tiền gửi không kỳ hạn- Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn
Đối tượng chủ yếu sử dụng tài khoản tiền gửi này là các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế gửi vào ngân hàng với mục đích chính là để hưởng các
dịch vụ thanh toán qua ngân hàng.

Đặc điểm của tiền gửi không kỳ hạn là người gửi tiền có thể rút tiền ra
bất kỳ lúc nào trong phạm vi số dư. Tuy nhiên nếu khách hàng có uy tín, ngân
hàng có thể cho thấu chi (overdraft) đến hạn mức phù hợp với thu nhập bình
quân của chủ tài khoản nhằm đảm bảo khả năng trả nợ. Và với tính chất linh
hoạt của số dư, chủ tài khoản được hưởng các tiện Ých thanh toán nên tiền
gửi không kỳ hạn thường không được ngân hàng trả lãi, hoặc được hưởng lãi
nhưng với mức lãi suất rất thấp.
Tiền gửi không kỳ hạn được phản ánh trên tài khoản có tên là: tài
khoản Tiền gửi không kỳ hạn (tài khoản tiền gửi thanh toán) hoạt động theo
nguyên lý: + Bên Nợ ghi mọi khoản tiền khách rút sử dụng: rút tiền mặt,
thanh toán thẻ, séc, nhờ thu,
+ Bên Có ghi mọi khoản nép hay thu vào: nép tiền mặt, séc, chiết
khấu, lợi tức lãi tiền gửi,
Tài khoản này thuộc loại lưỡng tính, có thể dư nợ hoặc dư có tại một
thời điểm nhất định. Dư Nợ khi rót ra nhiều hơn gửi vào, thực chất là khoản
tiền mà khách hàng nợ ngân hàng. Dư Có khi gửi vào nhiều hơn rót ra, thực
chất là tiền của khách hàng gửi vào. Ngân hàng khống chế số dư Nợ, nhưng
không khống chế số dư Có theo một hạn mức đã thuận giữa ngân hàng và
người gửi tiền.
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
18
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
Nhờ thế lưỡng tính,vừa huy động vốn (bên Có), vừa sử dụng vốn (bên
Nợ), tài khoản tiền gửi không kỳ hạn đã thực hiện trọn vẹn và linh hoạt
phương châm “vay để cho vay” với chi phí huy động thấp. Đặc biệt chính qua
tài khoản này mà hệ thống ngân hàng tạo được đồng tiền ghi sổ hay “bút tệ”
vừa bổ sung phương tiện lưu thông- thanh toán cho hoạt động kinh tế, vừa
giúp mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt ở tầm vĩ mô, lại vừa cho phép
mỗi ngân hàng tận dụng được nguồn vốn trong thanh toán, hạ thấp chi phí đầu
vào bình quân, tăng lợi nhuận ở tầm vi mô. Trong thanh toán thẻ, séc, tài

khoản này là không thể thiếu.
2.4.2. Tiền gửi có kỳ hạn- Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ được lĩnh tiền
khi đáo hạn. Đối tượng chủ yếu của tiền gửi loại này là doanh nghiệp và các
tổ chức. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng các dịch vụ thanh toán và
lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Sở dĩ gửi có kỳ hạn có lãi suất cao hơn gửi không kỳ hạn là do nó tạo
cho ngân hàng nguồn vốn ổn định, vững chắc. Để thu hót tiền gửi loại này,
ngân hàng áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng hay
dài hơn nữa; và tương ứng với mỗi kỳ hạn là mức lãi suất phù hợp.
Tuy khách hàng có thể lĩnh tiền khi đáo hạn nhưng nếu vì một lý do
đặc biệt khách hàng có thể rút tiền trước hạn với 2 khả năng chủ yếu xảy ra:
1, Khách hàng sẽ hưởng mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn cho thời gian
gửi thực tế; 2, Khách hàng sẽ không được hưởng lãi do vi phạm hợp đồng,
gây ảnh hưởng đến kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng, Tuỳ vào từng
trường hợp cụ thể, cũng như mối quan hệ tín nhiệm lâu dài giữa ngân hàng và
khách hàng mà ngân hàng sẽ linh hoạt xử trí. Tuy nhiên trong môi trường
cạnh tranh hiện nay, các ngân hàng có xu hướng vẫn cho khách hàng hưởng
lãi theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, và phải thoả thuận trong hợp đồng là
rút trước hạn phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian xác định.
Tiền gửi có kỳ hạn được phản ánh trên tài khoản tiền gửi có kỳ hạn <
12 tháng và tài khoản tiền gửi có kỳ hạn > 12 tháng. Thực chất của tài khoản
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
19
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
này: luôn luôn dư Có, phản ánh số tiền khách hàng đang gửi tại ngân hàng.
Tài khoản này, ngân hàng không cho phép khách hàng được thấu chi.
2.4.3. Tiền gửi tiết kiệm- Tài khoản tiền gửi tiết kiệm
Về bản chất, tiền gửi tiết kiệm là một phần thu nhập của các tầng líp
dân cư trong xã hội. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ và hưởng

lãi. Tiền gửi tiết kiệm được chia thành 2 loại: Tiền gửi tiết kiêm không kỳ hạn
và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Đặc điểm của loại này là người gửi tiền có thể gửi vào, rót ra bất cứ lúc
nào trong giê giao dịch của ngân hàng với số tiền từ nhỏ đến lớn (mục đích
tích luỹ). Tuy là loại tiền gửi không kỳ hạn nhưng nó không là tiền gửi thanh
toán nên người gửi tiền không được hưởng các tiện Ých thanh toán (trừ khi
người gửi tiền gửi tiết kiệm theo hình thức gửi một rút ở nhiều nơi).
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được phản ánh trên tài khoản tiết kiệm
không kỳ hạn.
* Tiền gửi tiết kiêm có kỳ hạn
Là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước về thời hạn gửi tiền và rút tiền,
có mức lãi suất cao hơn tiền tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Mục đích của khoản tiền gửi này có mức lãi suất nhất do tính ổn định
cao nhất của nó, vì vậy mà ngân hàng sẵn sàng đánh đổi lãi suất cao với sự ổn
định của nguồn vốn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được phản ánh trên tài khoản tiền gửi tiết
kiệm < 12 tháng và tiền gửi tiết kiệm > 12 tháng.
2.5. Khái quát cơ chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân
hàng
2.5.1. Khái quát cơ chế mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
Hệ thống tài khoản kế toán ngân hàng là hệ thống các chỉ tiêu hạch toán
kế toán ngân hàng, nó được xây dựng có căn cứ khoa học và thực tiễn. Trong
đó, các tài khoản được mở để phản ánh liên tục, kịp thời, theo dõi các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh thuộc về hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn. Ngoài ra, ,
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
20
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
các tài khoản được mở còn để giao dịch với khách hàng theo chức năng và
nhiệm vụ của ngân hàng. Chính vì vậy, ngân hàng phải xây dựng chế độ mở

và sử dụng tài khoản kế toán nhằm đảm bảo tính hợp pháp trong quan hệ kinh
tế giữa khách hàng và ngân hàng.
Quyết định 22/QĐ/NH1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam qui định về mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân
hàng như sau:
Để mở tài khoản tiền gửi các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể,
đơn vị vũ trang, công dân Việt Nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh
thổ Việt Nam (gọi tắt là khách hàng) gửi cho ngân hàng nơi mở tài khoản
những giấy tờ sau:
* Đối với khách hàng là doanh nghiệp cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn
vị vũ trang có:
- Giấy đăng ký mở tài khoản do chủ tài khoản (chủ tài khoản là chủ
giám đốc, Giám đốc, chủ doanh nghiệp, thủ trưởng đơn vị) ký tên và đóng
dấu trong đó ghi rõ:
+ Tên đơn vị (doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị vũ
trang);
+ Họ tên chủ tài khoản;
+ Địa chỉ giao dịch của đơn vị;
+ Ngày tháng cấp chứng minh thư nhân dân của chủ tài khoản;
+ Tên ngân hàng mở tài khoản.
- Bản đăng ký chữ ký và mẫu giao dịch với ngân hàng nơi mở tài khoản
gồm:
+ Chữ ký mẫu của chủ tài khoản và người được uỷ quyền thay chủ tài
khoản trên các chứng từ thanh toán giao dịch với ngân hàng (Chữ ký 1);
+ Chữ ký mẫu của kế toán trưởng và người được uỷ quyền thay kế toán
trưởng (Chữ ký 2);
+ Mét dấu đơn vị.
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
21
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang

- Các văn bản chứng minh tư cách pháp nhân của đơn vị như: Quyết
định thành lập doanh nghiệp, Giấy phép thành lập doanh nghiệp, Quyết định
bổ nhiệm Tổng giám đốc, Giám đốc, Thủ trưởng đơn vị (nếu là bản sao phải
có chứng nhận của công chứng nhà nước).
* Đối với khách hàng là cá nhân:
Gửi đến ngân hàng những giấy tờ sau:
- Giấy đăng ký mở tài khoản do chủ tài khoản (người gửi tiền) ký tên
và đóng dấu ghi rõ:
+ Tên chủ tài khoản;
+ Địa chỉ giao dịch của chủ tài khoản;
+ Giấy chứng minh thư nhân dân của chủ tài khoản;
+ Tên ngân hàng nơi mở tài khoản.
- Bản đăng ký mẫu chữ ký của chủ tài khoản để giao dịch với ngân
hàng nơi mở tài khoản.
Đối với tài khoản đứng tên cá nhân không được thực hiện việc uỷ
quyền thay chủ tài khoản, tất cả các giấy tờ thanh toán giao dịch với ngân
hàng đều phải do chủ tài khoản ký.
* Khi có sự thay đổi chữ ký của người được uỷ quyền trên các chứng từ
thanh toán với ngân hàng hoặc thay đổi mẫu dấu, chủ tài khoản phải gửi cho
ngân hàng nơi mở tài khoản bản đăng ký mẫu dấu mới thay thế mẫu đăng ký
trước đây, trong đó ghi rõ ngày bắt đầu thay thế mẫu cũ.
* Cách thức lập giấy đăng ký mở tài khoản: lập giấy đăng ký mẫu dấu
và chữ ký do các ngân hàng hướng dẫn cụ thể cho khách hàng thực hiện.
* Khi nhận giấy đăng ký mở tài khoản của khách hàng, ngân hàng có
trách nhiệm giải quyết việc mở tài khoản tiền gửi của khách hàng ngay trong
ngày làm việc. Sau khi đã chấp nhận việc mở tài khoản, ngân hàng thông báo
cho khách hàng biết số hiệu tài khoản, ngày bắt đầu hoạt động của tài khoản.
2.5.2. Nguyên tắc sử dụng tài khoản tiền gửi:
* Đối với chủ tài khoản:
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023

22
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
+ Chủ tài khoản có toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản tiền gửi,
trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi và tuỳ theo yêu cầu chi trả, chủ tài
khoản có thể thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng hoặc rút tiền mặt
ra để sử dụng.
+ Chủ tài khoản chịu trách nhiệm về việc chi trả vượt số dư tài khoản
tiền gửi và chịu phạt theo điều 15 của thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt
(30% số tiền vượt); chịu trách nhiệm về số sai sót, lợi dụng trên các giấy tờ
thanh toán qua ngân hàng của người được chủ tài khoản uỷ quyền ký thay.
+ Khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng, chủ tài khoản phải tuân thủ
những qui định và hướng dẫn của ngân hàng. Trên các giấy tờ thanh toán, các
chữ ký và dấu phải đúng mẫu đã đăng ký tại ngân hàng.
+ Chủ tài khoản tự tổ chức hạch toán, theo dõi số dư tiền gửi ở ngân
hàng. Trong phạm vi 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận giấy báo Nợ, giấy báo
Có về các khoản giao dịch trên tài khoản tiền gửi cuối tháng do ngân hàng gửi
đến, chủ tài khoản phải đối chiếu với sổ sách của mình, nếu có chênh lệch thì
báo ngay cho ngân hàng biết để cùng nhau đối chiếu, điều chỉnh lại số liệu
cho khớp.
* Đối với ngân hàng:
+Việc trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thực hiện các khoản
chi trả phải có yêu cầu của chủ tài khoản, trừ trường hợp chủ tài khoản vi
phạm kỷ luật chi trả hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền được
pháp luật quy định buộc chủ tài khoản phải thanh toán, ngân hàng được quyền
trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thực hiện việc thanh toán đó.
+ Ngân hàng có trách nhiệm kiểm soát các giấy tờ thanh toán của khách
hàng, đảm bảo lập đúng thủ tục qui định, dấu (nếu có đăng ký mẫu) và các
chữ ký trên các giấy tờ thanh toán với mẫu đã đăng ký, số dư tài khoản tiền
gửi của khách hàng còn đủ thanh toán.
Ngân hàng được quyền từ chối thanh toán nếu các giấy tờ thanh toán

không đủ các yêu cầu trên.
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
23
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN TIỀN GỬI TẠI VP BANK
1: KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA VP BANK
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của VP Bank
Ngân hàng Thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh
Việt Nam (VP Bank) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-
GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm
1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày
04 tháng 9 năm 1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04
tháng 09 năm 1993.
Từ năm 1994 đến năm 1996 là giai đoạn phát triển năng động của VP
Bank. Giai đoạn này VP Bank đã đạt được những kết quả khá khả quan: tỷ
suất lợi nhuận/vón cổ phần là 36% trong năm 1995,1996, chất lượng tín dụng
đảm bảo, các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh chóng, Nhưng sau đó do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á, tình trạng cạnh tranh gay
gắt của các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, một phần do sai lầm chủ quan
từ phía ngân hàng, VP Bank đã rơi vào thời kỳ khó khăn trầm trọng. Vì vậy
giai đoạn 1997-2001 là giai đoạn VP Bank củng cố và tạo tiền đề cho giai
đoạn phát triển mới. Trong giai đoạn này nhờ sự giúp đỡ tận tình của các cơ
quan thuộc Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước, cùng với nỗ lực hết mình
của toàn thể nhân viên trong VP Bank, VP đã đạt được những bước tiến vững
chăc tạo đà cho giai đoạn kế tiếp.
Năm 2000 là mốc chuyển biến quan trọng, đó là việc Hội đồng quản trị
quyết định lùa chọn mục tiêu chiến lược của VP Bank trong vòng 10 năm tới
là xây dựng VP Bank trở thành ngân hàng lẻ hàng đầu Việt Nam và trong
khu vực.

Năm 2003, với định hướng đúng đắn của Ban Tổng giám đốc, phát huy
những kết quả đã đạt đươc của năm 2002, cùng với tinh thần năng động sáng
tạo của cán bộ nhân viên , kết hợp với các chính sách đúng đắn và hàng loạt
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
24
Học viên ngân hàng GVHD : ThS. Nguyễn Hương Giang
các biện pháp tích cực, hiệu quả, VP Bank đã đạt được những kết quả rất đáng
tự hào: lợi nhuận trước thuế từ 20.564 tỷ năm 2002 tăng lên 42.820 tỷ năm
2003, số lượng khách hàng có quan hệ với VP Bank không ngừng tăng chứng
tỏ uy tín của VP Bank,
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VP Bank luôn chú ý đến
việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn.
Đến nay hệ thống VP Bank gồm:
- Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh hoạt động theo Giấy phép số
0018/GCT ngày 16/12/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
với các chi nhánh cấp II:
+ Chi nhánh Tân Định(236 Hai Bà Trưng, phường Tân Định, Q.1):
Công văn chấp thuận số 1035/NHNN-HCM.02 ngày 14/10/2003 của NHNN
Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Chi nhánh Bà Chiểu: Công văn chấp thuận số 10/10/NHNN-HCM.02
ngày 11/11/2003 của NHNN Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Chi nhánh Chợ Lớn: Công văn chấp thuấn số 10/10/NHNN-HCM.02
ngày 11/11/2003 của NHNN Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phòng giao dịch Thủ Đức: Công văn chấp thuận số 175/ NHNN-
HCM.02 ngày 12/2/2004 của NHNN Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hội sở chính số 4 Dã Tượng theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB
ngày 04 tháng 09 năm 1993.
+ Chi nhánh Hoàn Kiếm: Công văn chấp thuận số 1035/NHNN-
HAN7 KSĐBm ngày 4/8/2003 của NHNN Hà Nội.
+ Phòng giao dịch II(11E Cát Linh,Q.Đống Đa ) : Công văn chấp thuận

số 54/GTC ngày 02/3/1995.
+ Phòng giao dịchTrầnHưng Đạo tại Hà Nội : Công văn chấp thuận số
21/GCT ngày 12/01/2004.
-Chi nhánh tại thành phố Hải Phòng: Giấy phép số 0020/GCT ngày
19/11/1994 của Thống đốc NHNN Việt Nam.
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Hải – Líp 3023
25

×