Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Luận văn Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại SCB Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.28 KB, 78 trang )

Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
MỤC LỤC
1.3.1. Phân loại theo thời gian huy động 14
1.3.1.1 Huy động vốn ngắn hạn 14
1.3.1.2. Huy động vốn dài hạn 14
1.3.2. Phân loại theo đối tượng huy động 14
1.3.2.1 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước 14
1.3.2.2. Huy động vốn từ các tầng lớp dân cư 14
1.3.2.3.Huy động vốn từ các ngân hàng khác và các tổ chức tài chính 15
1.3.3.1. Huy động các tài khoản tiền gửi của khách hàng 15
1.3.3.2 Huy động vốn qua thị trường 16
1.4.1.3. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn 19
1.4.1.4. Tâm lý, thói quen của người tiêu dùng 19
1.4.2. Yếu tố chủ quan 20
1.4.2.1 Chính sách huy động vốn của ngân hàng 20
1.4.2.2. Nhân sự và công nghệ thông tin 22
1.4.2.3.Mạng lưới hoạt động của ngân hàng 23
1.4.2.4. Uy tín của ngân hàng 23
- Nguồn vốn huy động đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn trên địa bàn 47
- Ngân hàng có cơ cấu vốn tương đối hợp lý và ổn định 47
- Ngân hàng đã tạo được mối quan hệ gắn bó, sâu sắc và uy tín với khách hàng 47
- Ngân hàng đã hiện đại hoá giao dịch ngân hàng: 48
- Ngân hàng đã phát huy được tinh thần đoàn kết tập thể trong việc huy động vốn 48
Mức lãi suất tặng thêm 53
Khách hàng áp dụng 53
Điều kiện áp dụng 54
Các quy định khác 54
Đối tượng áp dụng 54
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
Nội dung chính sách 54


Nguyên tắc và cách tính điểm 55
Quy đổi điểm thưởng để nhận quà tặng 55
Cấp số dự thưởng và quay số cuối chương trình 56
Một số quy định khác 56
Công tác cán bộ 57
Thành lập tổ nghiên cứu khách hàng 57
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
2
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
BẢNG
Bảng 2.1. Lợi nhuận của chi nhánh Hà Nội qua các năm
1.3.1. Phân loại theo thời gian huy động 14
1.3.1.1 Huy động vốn ngắn hạn 14
1.3.1.2. Huy động vốn dài hạn 14
1.3.2. Phân loại theo đối tượng huy động 14
1.3.2.1 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước 14
1.3.2.2. Huy động vốn từ các tầng lớp dân cư 14
1.3.2.3.Huy động vốn từ các ngân hàng khác và các tổ chức tài chính 15
1.3.3.1. Huy động các tài khoản tiền gửi của khách hàng 15
1.3.3.2 Huy động vốn qua thị trường 16
1.4.1.3. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn 19
1.4.1.4. Tâm lý, thói quen của người tiêu dùng 19
1.4.2. Yếu tố chủ quan 20
1.4.2.1 Chính sách huy động vốn của ngân hàng 20
1.4.2.2. Nhân sự và công nghệ thông tin 22
1.4.2.3.Mạng lưới hoạt động của ngân hàng 23
1.4.2.4. Uy tín của ngân hàng 23
- Nguồn vốn huy động đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn trên địa bàn 47
- Ngân hàng có cơ cấu vốn tương đối hợp lý và ổn định 47

- Ngân hàng đã tạo được mối quan hệ gắn bó, sâu sắc và uy tín với khách hàng 47
- Ngân hàng đã hiện đại hoá giao dịch ngân hàng: 48
- Ngân hàng đã phát huy được tinh thần đoàn kết tập thể trong việc huy động vốn 48
Mức lãi suất tặng thêm 53
Khách hàng áp dụng 53
Điều kiện áp dụng 54
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
3
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
Các quy định khác 54
Đối tượng áp dụng 54
Nội dung chính sách 54
Nguyên tắc và cách tính điểm 55
Quy đổi điểm thưởng để nhận quà tặng 55
Cấp số dự thưởng và quay số cuối chương trình 56
Một số quy định khác 56
Công tác cán bộ 57
Thành lập tổ nghiên cứu khách hàng 57
BIỂU
Biểu đồ 2.1 Lợi nhuận của chi nhánh Hà Nội qua các năm
1.3.1. Phân loại theo thời gian huy động 14
1.3.1.1 Huy động vốn ngắn hạn 14
1.3.1.2. Huy động vốn dài hạn 14
1.3.2. Phân loại theo đối tượng huy động 14
1.3.2.1 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước 14
1.3.2.2. Huy động vốn từ các tầng lớp dân cư 14
1.3.2.3.Huy động vốn từ các ngân hàng khác và các tổ chức tài chính 15
1.3.3.1. Huy động các tài khoản tiền gửi của khách hàng 15
1.3.3.2 Huy động vốn qua thị trường 16
1.4.1.3. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn 19

1.4.1.4. Tâm lý, thói quen của người tiêu dùng 19
1.4.2. Yếu tố chủ quan 20
1.4.2.1 Chính sách huy động vốn của ngân hàng 20
1.4.2.2. Nhân sự và công nghệ thông tin 22
1.4.2.3.Mạng lưới hoạt động của ngân hàng 23
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
4
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
1.4.2.4. Uy tín của ngân hàng 23
- Nguồn vốn huy động đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn trên địa bàn 47
- Ngân hàng có cơ cấu vốn tương đối hợp lý và ổn định 47
- Ngân hàng đã tạo được mối quan hệ gắn bó, sâu sắc và uy tín với khách hàng 47
- Ngân hàng đã hiện đại hoá giao dịch ngân hàng: 48
- Ngân hàng đã phát huy được tinh thần đoàn kết tập thể trong việc huy động vốn 48
Mức lãi suất tặng thêm 53
Khách hàng áp dụng 53
Điều kiện áp dụng 54
Các quy định khác 54
Đối tượng áp dụng 54
Nội dung chính sách 54
Nguyên tắc và cách tính điểm 55
Quy đổi điểm thưởng để nhận quà tặng 55
Cấp số dự thưởng và quay số cuối chương trình 56
Một số quy định khác 56
Công tác cán bộ 57
Thành lập tổ nghiên cứu khách hàng 57
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
5
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

SCB Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
CNHN Chi nhánh Hà Nội
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
TTQT Thanh toán quốc tế
TG CKH Tiền gủi có kỳ hạn
TGTK Tiền gửi tiết kiệm
NVHĐ Nguồn vốn huy động
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
6
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, vốn đang trở thành vấn đề cấp thiết cho quá trình tăng trưởng và phát
triển của đất nước. Tuy nhiên để huy động được nguồn vốn lớn là một thách thức
không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. Trong
hoàn cảnh thị trường chứng khoán của Việt Nam chưa hoàn thiện, còn tiềm ẩn
nhiều rủi ro thì quá trình điều chuyển vốn chủ yếu thực hiện thông qua hoạt động
của hệ thống ngân hàng thương mại. Do đó việc tăng cường hiệu quả huy động vốn
trở thành vấn đề cấp thiết cần nghiêm túc triển khai đối với các ngân hàng.
Trong thời gian học tập và thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài
Gòn - chi nhánh Hà Nội ( SCB Hà Nội), em thấy rằng việc huy động vốn luôn giữ
vị trí rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát
triển kinh tế, góp phần tạo nên doanh thu cũng như thương hiệu của ngân hàng.
Trong điều kiện nước ta gia nhập WTO, cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền
kinh tế, dẫn tới việc buộc các ngân hàng thương mại phải nâng cao huy động vốn và
tăng khối lượng tín dụng cho các doanh nghiệp.Do đó làm cách nào để huy động hết
nguồn vốn có trong dân cư và các tổ chức kinh tế luôn là vấn đề bức thiết với hệ
thống ngân hàng thương mại nói chung và SCB Hà Nội nói riêng.Vì vậy em chọn
đề tài “Mở rộng huy động vốn tại ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn- chi

nhánh Hà Nội ( SCB Hà Nội)” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề của em gồm có 3 phần:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
chi nhánh Hà Nội ( SCB Hà Nội)
Chương 3: Giải pháp mở rộng huy động vốn tại SCB Hà Nội
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
1
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại.
1.1.1.Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển qua hàng trăm
năm gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống
NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế
hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là
nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành
những định chế tài chính không thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
-Ở Mỹ: “Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch
vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính”.
-Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại
là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của
công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài
nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
-Ở Việt Nam, theo Luật tổ chức tín dụng khoản 1 và khoản 7 Điều 20 đã xác định
"Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các

dịch vụ thanh toán" và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì " ngân hàng là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính
mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là
nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ
của xã hội.
1.1.2.Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ huy động
vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Ba nghiệp vụ này có
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
2
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo nên uy tín và
thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ này đan xem lẫn nhau trong quá
trình hoạt động của Ngân hàng, tạo nên một chỉnh thể thống nhất trong quá trình
hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1.2.1.Nghiệp vụ huy động vốn
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh
của NHTM, bao gồm các nghiệp vụ sau:
* Nghiệp vụ tiền gửi:
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận các khoản tiền gửi từ
các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó
NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy động các khoản
tiền nhàn rỗi của cá nhân, các hộ gia đình gửi tiền vào ngân hàng với mục đích bảo
quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi.
* Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá:
Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có

tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng
cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền kinh tế. Hơn
nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn
định vốn trong hoạt động kinh doanh.
* Nghiệp vụ đi vay:
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích
tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền
tệ và vay Ngân hàng nhà nước, dưới các hình thức là tái chiết khấu hay vay có đảm
bảo Trong đó các khoản vay từ Ngân hàng nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự cân đối
trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó không tự cân đối được nguồn
vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ.
* Nghiệp vụ huy động vốn khác:
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể tạo vốn
kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động không thường xuyên của
NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòi hỏi các Ngân hàng phải lập ra các dự
án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay.
* Vốn chủ sở hữu của NHTM :
Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Lượng vốn này chiếm tỷ
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
3
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt
buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định, ngân
hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất,
nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay, đặc
biệt là tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Trong thực tế, khoản vốn này không
ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của chính bản thân Ngân
hàng mang lại.
1.1.2.2.Nghiệp vụ sử dụng vốn

Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của các ngân hàng thương
mại vào các mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm
kiếm lợi nhuận, gồm các nghiệp vụ cụ thể như sau:
* Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM, được dùng vào với mục đích
nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như khả năng thanh toán
nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra.
* Nghiệp vụ cho vay:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Ngân
hàng thương mại đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là vấn đề mà
mọi ngân hàng thương mại đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợi nhuận từ
hoạt động cho vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng.
Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo thời gian có cho
vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn, theo hình thức đảm bảo có cho vay có
đảm bảo, cho vay không có đảm bảo, theo mục đích có cho vay bất động sản, cho
vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động được từ
dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới nhiều hình
thức như : hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường và trực tiếp
thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
* Nghiệp vụ khác
Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động king doanh như: kinh doanh
ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân
quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm
1.1.2.3.Nghiệp vụ trung gian khác
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
4
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số nghiệp vụ

khác như:
* Dich vụ trong thanh toán: Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua
hoặc bán hàng hoá và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện một
cách nhanh chóng và chính xác.
* Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán
chứng khoán, tư vấn cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản
* Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền;
cho thuê két sắt, bảo mật
1.2.Vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1.Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với các chức
năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo
tiền.Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có hiệu
quả và có lợi nhuận thì đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có một lượng vốn hoạt
động nhất định.
Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau:
“ Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân
hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực
hiện các dịch vụ kinh doanh khác ”. Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành
phần tạo nên vốn của ngân hàng thương mại. Về thực chất vốn của ngân hàng
thương mại là bao gồm các nguồn tiền tệ của chính bản thân ngân hàng và của
những người có vốn tạm thời nhàn rỗi. Họ chuyển tiền vào ngân hàng với các mục
đích khác nhau như: lấy lãi, hoặc nhờ thu, nhờ chi hay là dùng các sản phẩm dịch
vụ khác của ngân hàng. Đây chính là việc họ chuyển quyền sử dụng vốn cho ngân
hàng và số tiền mà ngân hàng phải trả hay làm các dịch vụ chính là cái giá của
quyền sử dụng các giá trị tiền tệ đó. Nhờ việc có được nguồn vốn, các ngân hàng có
thể tiến hành kinh doanh: cho vay, bảo lãnh, cho thuê Nói chung vốn của ngân
hàng chi phối toàn bộ hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng
của ngân hàng thương mại.

1.2.2. Cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại
Cũng giống như một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận hay nói đúng hơn là tối đa hóa giá trị
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
5
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
tài sản của ngân hàng và thông qua đó thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính
trong nền kinh tế, để thực hiện tốt các vai trò và mục tiêu của mình thì cơ cấu vốn
của ngân hàng thương mại bao gồm:
-Vốn chủ sở hữu
-Vốn nợ.
1.2.2.1.Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng( được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng
phải có 1 lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài,
hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ
hình thành này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của ngân
hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Vốn chủ sở hữu bao gồm :
- Nguồn vốn hình thành ban đầu
Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu
khác nhau. Nếu ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước thì được ngân sách nhà nước cấp
vốn. Còn đối với ngân hàng cổ phần, cổ đông góp vốn thông qua việc mua lại cổ
phần hoặc cổ phiếu; ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp vốn, ngân
hàng tư nhân thuộc quyền sở hữu của tư nhân.
Vốn ban đầu thường phải tuân thủ các qui định của NHNN. Các qui định
thường nêu rõ số vốn tối thiểu- vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần phải có
đề bắt đầu kinh doanh ngân hàng. NHNN, luật NHNN có quy định cụ thể cho
từng loại ngân hàng trong từng điều kiện cụ thể
.
Vốn thường không phải hoàn trả. Các cổ đông có thể bán cổ phiếu trên thị

trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ phần thường được hưởng cổ tức
cao hay thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách phân chia lợi
nhuận của ngân hàng.
- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể.
Bao gồm cổ phần phát hành thêm ( hoặc ngân sách cấp thêm ) trong quá
trình hoạt động, lợi nhuận tích luỹ, thặng dư vốn, các quĩ
Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm: Ngân hàng có thể phát
hành thêm cổ phần (thường là cổ phần ưu đãi) hoặc xin cấp thêm vốn từ ngân
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
6
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
sách để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để chống đỡ rủi ro trong trường hợp
cần phải duy trì thị giá của cổ phiếu
Huy động vốn cổ phần từ cán bộ công nhân viên ngân hàng mình: Hình
thức huy động này huy động vốn từ chính những cán bộ công nhân viên trong
ngân hàng mình, làm cho họ trở thành những cổ đông của ngân hàng và gắn
chặt quyền lợi với quyền lợi chung của ngân hàng. Đây là hình thức mang tính
lâu dài và ổn định cần được chú trọng.
Huy động từ lợi nhuận bổ sung VCC, các quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ
cấp, quỹ khen thưởng là các loại quỹ khác: Nếu như lợi nhuận để lại của ngân
hàng đủ để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông thường đây chính là
nguồn bổ sung quan trọng nhất. Nguồn bổ sung này có thể lấy trực tiếp từ các
quỹ như: Quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp.v.v. Mặc dù vậy khó nhất là phải
xác định được khi nào thì được phép trích lập từ các quỹ trên để làm nguồn vốn
bổ sung, tỉ lệ trích lập ra sao cho hợp lý.
Vốn bổ sung bằng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ
phiếu: Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu dài hạn
cũng thuộc VCC mặc dù chúng mang nhiều tính chất của một khoản nợ. Tuy

nhiên, phần này thường bị giới hạn và kiểm soát chặt chẽ.
- Các quỹ
Ngân hàng có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng vào những
mục đích nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Các quỹ của
ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu
nhập của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm:
+ Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số vốn tự có ban đầu.
+ Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Quỹ này được trích lập
hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
+ Ngoài ra còn có các quỹ đặc biệt khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,
quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ giám đốc,…
Dự phòng rủi ro: Dự phòng rủi ro tín dụng được các NHTM trích lập từ thu
nhập trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc gia) theo một tỷ lệ nhất định
nào đó. Khoản trích lập này là quan trọng và cần thiết cho hoạt động Ngân hàng, vì
trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi những rủi ro bất khả kháng có thể
xảy ra, khi đó, ngân hàng có thể trích các quỹ để bù đắp.
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
7
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
- Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi thành cổ
phần thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Ngân hàng có thể
sử dụng vốn theo các mục đích kinh doanh của mình như có thể đầu tư vào nhà cửa,
đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
1.2.2.2.Vốn nợ
Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, vốn nợ của NHTM chiếm tỷ
trọng lớn hơn nhiều so với vốn của chủ và đây là loại vốn cơ bản để tài trợ cho
các danh mục tài sản của NHTM. Vốn nợ được huy động từ các nguồn tiền gửi,
vay và một số loại hình khác.

Vốn nợ không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng lại là
yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân hàng, thường
thì tiền gửi vào và tiền rút ra không đồng thời hoặc chênh lệch nhau một lượng nhất
định. Ngân hàng sẽ sử dụng lượng vốn tạm thời nhàn rỗi này vào mục đích cho vay
kiếm lời. Vốn nợ là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng, bao gồm:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân
hàng nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu này
(gửi tiền để sử dụng séc, sử dụng thẻ rút tiền hoặc để thực hiện dịch vụ chuyển tiền,
dịch vụ LC hay dịch vụ nhờ thu).
Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi, gồm tiền gửi
thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý.
 Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Đây là tiền của doanh nghiệp
hoặc cá nhân để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng thực hiện các nhu
cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân trong phạm vi số dư cho phép. Các khoản
thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán
theo yêu cầu, với loại tiền gửi này lãi suất là rất nhỏ (huặc bằng 0)
Tiền gửi không kỳ hạn chỉ không ổn định với cá nhân còn đối với doanh
nghiệp rất ổn định.
 Tài khoản tiền gửi thanh toán: Là tài khoản mà việc rút và nộp tiền được
thực hiện bằng séc hoặc chuyển khoản.
 Tài khoản vãng lai: Là tài khoản lúc dư nợ, lúc dư có.
Tuy nhiên, ở Ngân hàng luôn có sự chênh lệch giữa xuất và nhập trên mỗi tài
khoản tiền gửi thanh toán, thường nhập lớn hơn xuất. Từ đó, tạo nên một khoản tiền
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
8
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
tạm thời nhàn rỗi và Ngân hàng có thể sử dụng một phần để kinh doanh.
 Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là khoản tiền kí gửi với mục đích an
toàn tài sản, không phải để thanh toán, khi cần khách hàng có thể rút ra để chi tiêu

và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu của họ. Ngân hàng có thể sử dụng phần dư
thừa nếu đảm bảo được khả năng chi trả.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và
Ngân hàng về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc khách hàng không được rút tiền
trước thời hạn. Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và
tiền gửi tiết kiệm.Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng
phần lớn nguồn tiền này vào kinh doanh. Chính vì vậy các NHTM luôn tìm cách đa
dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác
nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn không
được dùng để thanh toán, thường có lãi suất cao và thời hạn dài hơn.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Là một phần thu nhập của người lao động chưa sử dụng
đến, tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách
an toàn và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại:tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền có thể rút ra bất kỳ lúc
nào nhưng không được dùng các phương tiện thanh toán để chi trả cho khách hàng.
 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận của
khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn tiền
gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
 Tiền gửi của các ngân hàng khác là nguồn tiền của các ngân hàng thường
mài gửi vào nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ hay một số mục đích khác.
Đây là nguồn vốn chính để ngân hàng kinh doanh tiền tệ, nó là một trong
những nguồn vốn ổn định nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên tiền gửi có kỳ
hạn của doanh nghiệp chủ yếu là ngắn hạn vì doanh nghiệp hoạt động có chu kỳ,
khi nào tạm thời thừa vốn thì mới gửi ngân hàng. Mặt khác:
Lãi suất huy động < lãi suất vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh
tế.
Nếu lãi suất cho vay > lãi suất huy độngNgân hàng có lãi
Nếu tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế <lãi suất cho vay
< lãi suất huy động thì mọi người gửi hết tiền vào ngân hàng và không kinh doanh

nữa như vậy ngân hàng không cho ai vay được điều này không thể xảy ra do đó
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
9
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
không bao giờ gửi vốn vào ngân hàng trung dài hạn vì mục đích họ hướng tới là tỷ
suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, NHTM còn có thể huy động vốn thông qua phát hành các giấy
tờ có giá như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu. Trong đó chứng chỉ tiền
gửi và kỳ phiếu là loại phiếu nợ ngắn hạn; trái phiếu là loại phiếu nợ trung, dài hạn.
Các loại phiếu nợ trên được Ngân hàng phát hành từng đợt với mục đích, số lượng
cụ thể và chỉ phát hành khi được sự cho phép của NHTW. Đặc điểm của các loại
giấy nợ này là chúng có lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm,
có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác.
-Tiền vay ngân hàng trung ương
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân
hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, ngân hàng thương mại vay
ngân hàng nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu. Thông thường
ngân hàng nhà nước chỉ tái chiết khấu cho các thương phiếu có chất lượng và phù
hợp với mục tiêu của ngân hàng nhà nước .
-Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn mà các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức
tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn vay mượn này để đáp ứng nhu
cầu dự trữ và chi trả cấp bách, trong nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho
cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn cũng rất đơn
giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua
ngân hàng đại lý. Khoản vay có thế không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng
các chứng khoán kho bạc.
-Vay trên thị trường vốn
Cũng giống như các doanh nghiệp khác, ngân hàng cũng vay mượn bằng
cách phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu) trên thị trường vốn. Thông

thường đây là các khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc
trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay
mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải vay thông qua ngân hàng đại lý hoặc
được bảo lãnh của ngân hàng đầu tư.
-Vốn nợ khác
+Tiền ủy thác: Ngân hàng thương mại thực hiện các nghiệp vụ ủy thác như
ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ,…
Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều tổ chức kinh tế xã hội
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
10
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng
mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là làm gia
tăng nguồn vốn của ngân hàng.
+Tiền trong thanh toán: Các hoạt động trong thanh toán không dùng tiền mặt
có thể hình thành nguồn trong thanh toán( séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để
mở L/C,…)
Tóm lại, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ so với vốn nợ, do đặc trưng
trong kinh doanh ngân hàng là huy động để cho vay. Theo quy định của NHNN
Việt Nam tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tiền gửi tối thiểu là 1/20. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ,
song vốn chủ sở hữu lại có vai trò rất quan trọng.
Vốn chủ sở hữu có vai trò bảo vệ người gửi tiền: Kinh doanh ngân hàng
thường xuyên đối đầu với rủi ro. Các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp
bằng vốn chủ sở hữu. Như vậy, nếu quy mô vốn chủ sở hữu lớn, người gửi tiền và
người cho vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng.
Ngoài ra, Vốn chủ sở hữu có vai trò điều chỉnh các hoạt động của ngân
hàng: Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng có liên quan chặt chẽ
với Vốn chủ sở hữu như quy mô nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ với Vốn
chủ sở hữu Vì vậy quy mô và cấu trúc hoạt động của ngân hàng được điều
chỉnh theo vốn chủ sở hữu.

Có thể nói nếu vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng để ngân hàng được đi
vào hoạt động và là đệm đỡ không thể thiếu của ngân hàng thì vốn nợ lại là yếu tố
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng.
Trên cơ sở vốn nợ tạo lập, ngân hàng sử dụng để cho vay, đầu tư vào
chứng khoán, mua sắm tài sản cố định, tiền gửi tại ngân hàng khác và phải
được thực hiện dự trữ theo quy định để đảm bảo khả năng thanh toán. Qui mô,
cơ cấu của các nhóm tài sản này được xác định một phần căn cứ vào qui mô,
cơ cấu của vốn nợ.
Thêm vào đó, tính ổn định về chi phí và thời hạn của vốn nợ quy định số tiền
phải dự trữ là cơ sở cân nhắc đầu tư bao nhiêu vào chứng khoán ngắn hạn nên cho
vay với thời hạn nào, lãi suất bao nhiêu để phù hợp với vốn.
Như vậy, vốn nợ cũng có vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định
danh mục tài sản đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của NHTM.
1.2.3.Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.3.1.Đối với toàn bộ nền kinh tế
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
11
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm và
đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng phát triển
sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần khuyến khích tiết
kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường nhỏ, lẻ và người tiên
phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các ngân hàng thương mại.
Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết kiệm chuyển thành đầu tư góp
phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế.
Đối với những người có vốn nhàn rỗi: Việc huy động vốn của ngân hàng
trước hết sẽ giúp cho họ những khoản tiền lãi hay có được các dịch vụ thanh toán
đồng thời các khoản tiền không bị chết và luôn được vận động, quay vòng.
Đối với những người cần vốn: Họ sẽ có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản
xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động của ngân hàng.

Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối
về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều kiện để thực
hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng hơn với việc huy
động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy động vốn có thể thực hiện
bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân sách nhà nước nhưng trong điều
kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua các ngân hàng thương mại vẫn là hình
thức chủ yếu và quan trọng nhất.
1.2.3.2.Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Thứ nhất: Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô hoạt
động của các Ngân hàng.
Nguồn vốn khả dụng của Ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở
rộng hay thu hẹp tín dụng, hoạt động bảo lãnh hay trong hoạt động thanh toán của
Ngân hàng. Thông thường so với các ngân hàng nhỏ thì các ngân hàng lớn có các
khoản mục về đầu tư, cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng tín dụng cũng
lớn hơn. Trong khi các ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt động chủ yếu trong
một khu vực nhỏ hay trong một quốc gia. Nếu khả năng vốn của ngân hàng lớn thì
ngân hàng có thể mở rộng qui mô khối lượng tín dụng, có thể tài trợ cho các dự án
lớn (về qui mô tín dụng, về thời hạn tín dụng…) và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của
khách hàng về các dịch vụ của Ngân hàng.
Thứ hai: Nguồn vốn huy động giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh.
Trong cơ cấu vốn của ngân hàng thì ngoài phần vốn tự có thì còn có vốn huy
động, vốn vay và các nguồn vốn khác. Một ngân hàng không thể chỉ hoạt động với
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
12
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
nguồn vốn tự có và vốn đi vay vì vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong tổng cơ cấu vốn của ngân hàng, còn vốn vốn đi vay thì ngân hàng phải
phụ thuộc vào dối tượng cho vay về thời hạn, số lượng và các chi phí khác. Do đó
có thể ngân hàng sẽ bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh. Ngược lại nếu ngân hàng có
lượng vốn lớn sẽ hoàn toàn chủ động trong hoạt động của mình. Nguồn vốn lớn làm

tăng khả năng hoạt động của ngân hàng như chủ động đa dạng hoá các hình thức và
phương thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro và tăng lợi nhuận, phục vụ cho mục
tiêu cuối cùng của ngân hàng là an toàn và sinh lời.
Thứ ba: Vốn huy động giúp ngân hàng nâng cao vị thế của mình trên thị
trường.
Để đảm bảo cho việc thu hút khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình thì
ngân hàng phải tạo được niềm tin với khách hàng. Điều này được thể hiện ở khả
năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng cao
chỉ khi ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn. Mặt khác uy tín của ngân hàng còn
thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng. Ngân hàng chỉ có thể cho vay
những dự án lớn, thời hạn dài nếu như ngân hàng có nguồn vốn lớn và ổn định-
Điều này phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của ngân hàng.
Thứ tư: Vốn huy động quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh thì ngoài việc phải có chiến lược cạnh
tranh hợp lý thì khả năng tài chính luôn giữ vai trò là yếu tố quyết định cuối cùng.
Nếu ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn thì có thể chủ động mở rộng quan hệ tín
dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về
thời gian và thời hạn cho vay thậm chí trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay để thu
hút khách hàng. Ngoài ra ngân hàng còn có thể phát triển thêm nhiều loại hình dịch
vụ mới, tham gia vào nhiều các hoạt động khác như liên doanh liên kết. đầu tư trên
thị trường vốn, trên thị trường tiền tệ… Bằng chính những hoạt động này sẽ góp
phần phân tán rủi ro, thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng thị phần, nâng cao
khả năng cạnh tranh của ngân hàng… Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng.
Nhận thức được vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của NHTM, nên mỗi
ngân hàng phải hoạch định được chiến lược huy động vốn cho đơn vị mình nhằm
chủ động tạo lập được nguồn vốn ổn định và không ngừng tăng trưởng để phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của mình- Đó là yếu tố đầu tiên quyết định đến hiệu quả
hoạt động của ngân hàng
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A

13
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
1.3.Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
1.3.1. Phân loại theo thời gian huy động
1.3.1.1 Huy động vốn ngắn hạn
Đây là hình thức ngân hàng huy động vốn để cho vay ngắn hạn thường là
dưới 1 năm. Vốn ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn
huy động ( nếu ngân hàng thuộc khối phục vụ cho vay dân cư) : cho vay để mua đồ
sinh hoạt, cho vay tiêu dùng, cho vay vốn lưu động Do vậy nguồn vốn này được
huy động với lãi suất thấp.
1.3.1.2. Huy động vốn dài hạn
Đây là hình thức ngân hàng để huy động để phục vụ hoạt động cho vay trung
và dài hạn, với thời hạn từ 1 năm trở lên. Nguồn vốn huy động dài hạn được sử
dụng chủ yếu cho các khoản tín dụng trung hạn và dài hạn như : đầu tư chiều sâu
cho các doanh nghiệp thay đổi công nghệ, cải tiến sản phẩm, đầu tư xây dựng cơ
bản, mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới dây chuyền công nghệ Đây là khoản vốn
huy động mà ngân hàng phải trả lãi cao.
1.3.2. Phân loại theo đối tượng huy động
1.3.2.1 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước
Đây là khu vực ngân hàng huy động được nhiều vốn nhất vì các đơn vị này
gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng các dịch vụ thanh toán của
ngân hàng. Giao dịch tiền tệ giữa các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà
nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của họ. Do có sự đan xen
giữa các khoản phải thanh toán và các khoản phải thu tiền mà trên tài khoản của các
tổ chức này tại ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định và trở thành một
nguồn vốn có chi phí thấp giúp các ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay
ngắn hạn đôi khi cả trung hạn. Tuy nhiên, tính ổn định và độ lớn của nguồn vốn
này phụ thuộc rất nhiều vào quy mô và loại hình kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.2.2. Huy động vốn từ các tầng lớp dân cư
Mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều có những khoản tiền dự phòng cho những tiêu

dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội càng phát triển thì các khoản dự phòng
càng tăng lên. Nắm bắt được những đặc tính đó, các Ngân hàng Thương mại tìm
mọi hình thức để huy động các khoản tiết kiệm này, vì nếu gom được chúng ngân
hàng sẽ có một nguồn vốn không nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế đồng
thời thu được lợi nhuận.
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
14
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
1.3.2.3.Huy động vốn từ các ngân hàng khác và các tổ chức tài chính
Các hình thức huy động vốn nói trên đóng vai trò chủ yếu trong công tác huy
động vốn của Ngân hàng Thương mại. Tuy nhiên, trong tình hình kinh doanh của
các ngân hàng ngày nay sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến nguồn vốn có thể huy
động được bằng cách vay các Ngân hàng Thương mại khác, thông qua thị trường
nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng. Các Ngân hàng Thương mại là những doanh
nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, giống như những doanh
nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác, ở các ngân hàng và các tổ chức tài chính
cũng thường xuất hiện tình trạng tạm thời thừa, thiếu vốn so với nhu cầu ở đầu ra
của họ.
1.3.3.Phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn
1.3.3.1. Huy động các tài khoản tiền gửi của khách hàng
Đây là bộ phận chủ yếu trong cơ cấu tài sản nợ của các Ngân hàng Thương
mại. Huy động tiền gửi là đặc trưng cơ bản trong kinh doanh của các ngân hàng.
Tiền gửi bao gồm :
* Tiền gửi thanh toán (thường không có kỳ hạn)
Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành
thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát
sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Tiền
gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản : tài
khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi thanh
toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba được thực hiện bằng séc hay chuyển

khoản. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư Nợ có lúc dư Có. Với tài khoản
này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một
thời gian nhất định.
Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà
ngân hàng phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong
mỗi ngân hàng do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền
gửi thanh toán của doanh nghiệp hay giữa các tài khoản của các doanh nghiệp làm
cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản mà ngân hàng được phép sử dụng một
phần làm nguồn vốn kinh doanh.
* Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời
gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, theo nguyên tắc khách hàng
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
15
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
ký thác chỉ được rút ra khi đến hạn đã thoả thuận. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này
có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng
lãi. Do đó, khác với tiền gửi không kỳ hạn yếu tố lãi suất có tác động rất lớn đến
nguồn này. Các Ngân hàng Thương mại nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn : tiền gửi
có kỳ hạn và tiền gửi báo rút (khi rút phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền có
kỳ hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các tài khoản chi trả bằng
vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi
có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vai trò trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi
tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn
tồn khoản vào kinh doanh. Để tăng cường khả năng huy động nguồn này, trước hết
các Ngân hàng Thương mại thường áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng
được mọi nhu cầu của các loại khách hàng khác nhau. Mỗi kỳ hạn ngân hàng
thường áp dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi
suất càng cao.

* Tiền gửi tiết kiệm
Ở các nước phát triển, trong các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết
kiệm đứng ở vị trí thứ hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành của
cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kỳ. Tiền gửi tiết kiệm
gồm có : tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ
lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền có sự thoả thuận về thời
hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
1.3.3.2 Huy động vốn qua thị trường
Các Ngân hàng Thương mại còn tăng cường nguồn vốn bằng cách vay vốn
trên thị trường, phát hành các phiếu nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu Ngân
hàng Thương mại. Các hình thức này ngày càng phổ biến và mang lại những kết
quả tốt .
 Phát hành các loại phiếu nợ:
Trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng là những hình thức huy động vốn rất cơ
động và thoáng. Bằng các công cụ này các ngân hàng có thể tạo ra một khối lượng
vốn lớn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách.
Điều này đặc biệt cần thiết khi nền kinh tế có lạm phát. Các trái phiếu, kỳ phiếu
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
16
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
ngân hàng được phát hành ra vừa có tác dụng duy trì khối lượng huy động vừa có
tác dụng chống lạm phát. Các Ngân hàng Thương mại phải trả lãi suất cao hơn cho
các hình thức huy động này so với lãi suất tiền gửi huy động. Như vậy, khi thực
hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để
quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy
động vốn. Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã đủ khối
lượng vốn theo dự kiến các ngân hàng sẽ ngừng việc huy động (bán) kỳ phiếu, trái
phiếu.

 Huy động vốn thông qua việc vay các Ngân hàng Thương mại, các tổ
chức tín dụng và ngân hàng trung ương (huy động thông qua các hình thức vay vốn
khác trên thị trường ):
Các Ngân hàng Thương mại khi xuất hiện trên thị trường để vay vốn thường
do một số nguyên nhân cấp thiết như thiếu hụt dự trữ tại ngân hàng trung ương,
thiếu tiền mặt nên ngoài việc phát hành phiếu nợ, các Ngân hàng Thương mại có
thể đi vay lẫn nhau giữa các ngân hàng tại những khoản dự trữ tại ngân hàng trung
ương hoặc phát hành RPs thoả thuận mua lại. Đây là các khoản mua bán chứng
khoán mà Ngân hàng Thương mại đang kinh doanh bên tài sản Có đối với các tổ
chức trung gian tài chính khác. Thời hạn vay mượn giữa các Ngân hàng Thương
mại rất linh hoạt có thể ít ngày cũng có thể dài hạn phù hợp với nhu cầu về vốn của
Ngân hàng Thương mại trong từng giai đoạn cụ thể.
Trong trường hợp vốn vay trên tiếp tục không đáp ứng được đủ nhu cầu sử
dụng của Ngân hàng Thương mại thì Ngân hàng Thương mại sẽ đi vay của ngân
hàng trung ương. Trong quan hệ với ngân hàng trung ương, các Ngân hàng Thương
mại đóng vai trò là khách hàng thường xuyên và ngân hàng trung ương với tư cách
là ngân hàng của các ngân hàng đồng thời là người “cứu cánh cuối cùng” đối với
các Ngân hàng Thương mại.
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
Thương mại
1.4.1.Yếu tố khách quan
1.4.1.1.Chính sách chỉ đạo của ngân hàng nhà nước
NHNN ban hành các chính sách chỉ đạo về hoạt động nhằm đảm bảo các
ngân hàng thương mại hoạt động theo đúng định hướng của nó, phù hợp và thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Các chính sách của Ngân hàng Nhà nước
thay đổi theo từng thời kì, tùy thuộc vào chính sách kinh tế chung của nhà nước và
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
17
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
sự phát triển của thị trường tài chính. Để kiểm soát việc huy động vốn của các

NHTM, NHNN có các quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu Tất cả
những quy định, chính sách này được áp dụng cho tất cả các NHTM nên ảnh hưởng
của chúng tới mỗi ngân hàng là rất khác nhau. Cụ thể:
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Các NHTM vừa phải đảm bảo tỷ lệ dữ trữ theo yêu cầu
của NHNN vừa phải đáp ứng nhu cầu cho vay. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao sẽ khiến
các ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn để cho vay. Khi đó chi phí huy
động vốn của các NHTM sẽ phải cao hơn để thu hút càng nhiều vốn càng tốt, đồng thời
vốn huy động để cho vay sẽ nhỏ hơn. Các ngân hàng nhỏ, vốn ít, khả năng huy động
hạn chế thì tỷ lệ dự trữ cao sẽ trở thành một gánh nặng khó giải quyết. Khi tỷ lệ dự trữ
bắt buộc thấp thì các ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội cho vay hơn và thu được nhiều lợi
nhuận hơn
- Lãi suất chiết khấu : NHNN thực hiện tái chiết khấu vốn để cung ứng tiền
ra lưu thông bằng biện pháp tái chiết khấu. Nếu chính sách tiền tệ nhằm chống lạm
phát thì lúc đó NHNN cung ứng tiền ra lưu thông với lãi suất chiết khấu cao. Và
như vậy, nguồn vốn vay từ NHNN của các NHTM sẽ bị hạn chế. Khi đó, các ngân
hàng muốn tăng lượng vốn huy động sẽ phải tìm cách huy động từ các nguồn khác
chứ không nên trông chờ vào việc đi vay Ngân hàng Nhà nước. Ngược lại khi lãi
suất tái chiết khấu giảm thì các ngân hàng thương mại có thể giảm dự trữ tiền mặt,
do vậy số nhân tiền tệ tăng, làm tăng lượng tiền cung ứng.
1.4.1.2.Hoạt động kinh tế xã hội của đất nước
Hoạt động của các NHTM nằm trong hoạt động kinh tế chung của đất nước
nên dĩ nhiên chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ sự tăng trưởng hay suy thoái của nền
kinh tế. Khi nền kinh tế vào thời kì tăng trưởng, sản suất phát triển tạo điều kiện tích
luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của ngân hàng thuận lợi
hơn. Mặt khác , nó cũng tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho ngân hàng, từ đó ngân
hàng phải tìm biện pháp để huy động vốn sao cho có hiệu quả thiết thực cho hoạt
động kinh doanh của mình. Khi môi trường đầu tư mở rộng thì thu nhập của ngân
hàng không ngừng phát triển, tạo tiền để cho việc mở rộng vốn tự có của ngân hàng.
Khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng làm thu nhập của người dân giảm khiến cho
họ không muốn gửi tiền vào ngân hàng mà chuyển sang tích luỹ bằng các tài sản khác

như : vàng, ngoại tế mạnh…Lượng tiền gửi của ngân hàng sẽ sụt giảm cùng với việc
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
18
Chuyên Đề Tốt Nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Đức Lữ
môi trường đầu tư của ngân hàng bị thu hẹp do các doanh nghiệp không muốn vay
vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh trong điều kiện sản suất thua lỗ. Do đó việc điều
hành nền kinh tế để nó hoạt động được tốt nhất luôn là mối quan tâm của tất cả các
ngành, các cấp, mọi người dân.
1.4.1.3. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn.
Trong quá trình thu hút vốn, các ngân hàng luôn phải đối mặt với sự cạnh
tranh không những của các ngân hàng trong ngành mà còn của các tổ chức tài chính
khác. Sản phẩm tiền gửi của ngân hàng dễ bắt chước đòi hỏi các ngân hàng phải rất
cố gắng trong việc đưa thêm những tiện ích vào sản phẩm cũng như triển khai
những chương trình huy động vốn hấp dẫn nhằm thu hút được khách hàng. Bên
cạnh đó, các ngân hàng còn bị cạnh tranh bởi các tổ chức tài chính khác như: Các
công ty tài chính, quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm…Các tổ chức này tuy không có
chức năng nhận tiền gửi như ngân hàng song lại có nhiều dịch vụ phong phú, thu
hút tiền đầu tư của người dân và các doanh nghiệp. Ngày này, sự phát triển mạnh
mẽ của thị trường chứng khoán lại càng khiến cho thị trường vốn của các ngân hàng
thu hẹp lại, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút vốn. Do vậy để có thể
thu hút được những nguồn vốn có chất lượng, các ngân hàng phải không ngừng đa
dạng hoá các sản phẩm huy động vốn và nâng cao chất lượng phục vụ để thu hút và
thoả mãn nhu cầu khách hàng.
1.4.1.4. Tâm lý, thói quen của người tiêu dùng.
Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng.
Nếu những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất
trữ là chính thì việc huy động vốn sẽ gặp khó khăn. Chẳng hạn vào thời kì vàng còn
có giá trị thì người ta dùng tiền nhàn rỗi đi mua vàng về cất trữ…Còn khi người dân
có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng nhiều
hơn. Khi đó cơ hội huy động vốn của ngân hàng tăng lên.

Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng rất
phát triển. Hầu hết những người dân có thu nhập đều mở tài khoản để thanh toán
qua ngân hàng. Tuy nhiên ở những nước kém phát triển, thu nhập của người dân
thấp, nhu cầu giao dịch qua ngân hàng còn hạn chế nên ít người mở tài khoản tại
ngân hàng. Điều này sẽ hạn chế khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, không
phát huy được tính hiệu quả của tài khoản giao dịch.
Mức thu nhập và chu kì chi tiêu của người dân cũng là những yếu tố trực tiếp
SV: Bùi Thị Bích Phương Líp : Ngân Hàng 49A
19

×