PHÒNG GIÁO DỤC QUẬN TÂN PHÚ
TRƯỜNG TH ĐOÀN THỊ ĐIỂM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HS LỚP 2
VIẾT ĐƯC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN
TỪ 3 ĐẾN 5 CÂU
GIÁO VIÊN: Trần Thò Áùnh Nguyệt
Năm học: 2007- 2008
I.ĐẶT VẤN ĐỀ:
Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học
Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói,
đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội đủ 4
kỹ năng trên. Đối với HS lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi
ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp.
Bên cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện
hoàn cảnh sống của HS ở đòa bàn dân cư lao động nghèo, gia
đình không có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn đạt
ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, HS nghèo vốn
từ ngữ…Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung,
học phân môn Tập làm văn nói riêng.
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, ngay từ đầu năm học,
các em đựơc làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết
đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy
các em còn lúng túng, nhiều HS làm bài chưa đạt yêu cầu. Các
em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết không
đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số
câu nhưng viết không đủ ý.
Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và
trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã
đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những giải pháp nâng
cao chất lượng học tập cho HS của lớp mình. Đây là lý do tôi
chọn và áp dụng một số giải pháp để “ Giúp học sinh lớp 2 viết
được đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu”. Sau đây, tôi xin trình bày
một số giải pháp mà bản thân đã đúc kết được trong thời gian
qua.
II. NỘI DUNG THỰC HIỆN:
Để giúp HS học tốt tiết Tập làm văn viết đoạn văn ngắn
theo yêu cầu của đề bài, tôi thường áp dụng những phương pháp
sau:
1. Vận dụng phương dạy học phát huy tính tích cực của học sinh:
Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp:
Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan
sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan
sát khi chuẩn bò bài ở nhà. Giáo viên cần khai thác kỹ tranh
ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối
tượng , mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên
cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác
quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật.
Phương pháp thực hành giao tiếp:
Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học
sinh kỹ năng nói, trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài
viết. Trên cơ sở đó, giáo viên điều chỉnh giúp học hoàn thiện
bài viết. Với phương pháp này,tôi thường tổ chức cho học sinh
luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS có thể kết nhóm
theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia
làm việc trong nhóm )
Phương pháp phân tích ngôn ngữ:
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các
khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành
luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp
phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử
dụng phương pháp này để GV có cơ sở giúp HS nhận ra cấu tạo
câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận.
Ví dụ:
Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ
và câu: “ Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, GV
hướng dẫn HS nhận biết những vấn đề sau:
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận
trả lời cho câu hỏi Ai?( hoặc cái gì?/ con gì)?, bộ phận trả
lời cho câu hỏi Là gì (hoặc làm gì?/ như thế nào? ( Đó chính
là đảm bảo về hình thức cấu tạo ).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? ( Đảm bảo
về mặt nghóa )
Trên cơ sở đó , GV hướng dẫn HS viết dấu chấm khi hết
câu.
Phương pháp sử dụng từ ngữ trong câu:
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, việc sử dụng từ
ngữ trong bài tập làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sử
dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, giáo viên
cần cung cấp giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ
ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, GV cũng cần giới thiệu, cung cấp
thêm các từ đồng nghóa phù hợp với bài văn.
Ví dụ:
Khi viết đoạn văn kể về người thân thì HS sẽ có nhiều bài
làm khác nhau, GV cần giúp HS chọn lựa từ ngữ cho phù hợp,
khi kể về bố là thầy giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài
viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của em đối với với cha mẹ,
ông bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của mình đối
với bạn bè; Viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ
đồng nghóa như: bình minh, hừng đông, sớm mai; viết về gia
đình có các từ như đoàn tụ, sum họp, quây quần…; để diễn tả
mặt trời mùa hè có các từ: chói chang, gay gắt, đỏ rực, như
mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa…GV cần chuẩn bò kỹ với
mỗi bài để hướng dẫn HS vận dụng các từ ngữ thích hợp vào
bài viết.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
1, Về kỹ năng:
Để tránh tình trạng học sinh không làm được bài hoặc
viết lan man quá nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học
sinh cần biết làm như thế nào để viết được một đoạn văn và
cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy.
a. Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng:
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều
có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. GV có thể tranh thủ thời gian
cuối tiết học hướng dẫn HS chuẩn bò, đọc câu hỏi gợi ý, suy
nghó bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bò phần tự học khi ở
nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có câu
hỏi gợi ý, GV có thể soạn , cung cấp cho các em.
Ví dụ:
Bài viết về một người thân:
- Người thân của em là ai?
- Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi? Làm công
việc gì?
- Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của
người ấy dành cho em?
Bài viết về một loại quả:
- Tên loại quả ấy là gì? Em đã nhìn thấy nó ở
đâu?
- Hình dáng bên ngoài ra sao? Bên trong như thế
nào?
- Vì sao em thích loại quả ấy?
Bài viết về một loài hoa:
- Loài hoa ấy có tên là gì? Em đã thấy ở đâu?
- Hoa có những đặc điểm gì ( màu sắc, các bộ
phận :cánh hoa, nhụy, hương thơm…)
- Vì sao em thích loài hoa ấy?
Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã
làm :
- Em ( Bạn em )đã làm việc tốt khi nào? đâu?
Đó là việc gì?
- Em ( Bạn ấy ) đã làm như thế nào?
- Em suy nghó gì khi làm ( thấy bạn làm ) việc tốt
đó?
b. Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn:
- Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn
đạt bằng một câu )
- Phát triển đoạn văn : Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý ,
mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2,3 câu tùy theo năng lực học sinh.
- Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm,
suy nghó , mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài
hoặc nêu ý nghóa, ích lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống,
với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật:
- Con vật em đònh kể là con vật gì?
- Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật?
- Vì sao em thích con vật đó?
Câu mở đầu: Giới
thiệu chim cánh cụt
Trong thế giới loài chim, em thích nhất
là chim cánh cụt.
Phát triển: Kể về
chim cánh cụt
Cánh cụt sống ở những nơi lạnh giá, đầy
băng tuyết. Nó có đôi cánh giống như
hai mái chèo. Dáng đi của nó lũn chũn,
trông rất buồn cười. Là một loài chim
nhưng em chẳng thấy nó bay bao giờ.
Thế nhưng nó lặn sâu dưới nước để bắt
cá rất cừ.
Câu kết thúc: Tình
cảm của em đối với
loài chim này
Em thích chim cánh cụt vì chúng là
những con vật hiền lành, dễ thương.
Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn
đạt để bài làm các em được phong phú, tránh tình trạng dạy
học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình thành kỹ năng từng
bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và đòi hỏi
các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình
thành. Trong quá trình giảng dạy, GV phải kiên nhẫn luôn tái
hiện và lặp lại kiến thức cho HS trong suốt năm học, giúp HS có
được nền móng tốt cho việc học tập môn Tập làm văn ở các lớp
trên.
2. Về kiến thức:
a. Tổ chức ôn tập tốt cho học sinh: Giáo viên phải nắm các dạng
đề Tập làm văn ở lớp 2 để tổ chức ôn tập cho HS. Có thể tập
hợp từ chương trình một số đề bài sau đây:
Viết một đoạn văn ngắn về:
Gia đình
Một người thân
Cô giáo ( hoặc thầy giáo )của em
Các mùa trong năm
Một loài chim
Một con vật
Tả ngắn về biển
Tả ngắn về một loài cây
Một loài hoa
Viết về Bác Hồ
Một em bé
Kể một việc làm tốt
Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa
một cách chắc chắn, phân biết rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ
giúp các em tránh được những nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến
chất lượng bài viết của các em.
b. Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh:
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những
nội dung kiến thức có liên quan đến các chủ đề học tập trong các
phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu với phân môn Tập làm văn, để
cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện tượng xoay
quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp
những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có
hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết
quả.
Ví dụ:
Khi học về chủ đề “ Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ
tuần 10 đến tuần 16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình
cảm thương yêu trong gia đình, cùng với những tiết học phân môn
Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ ngữ cho HSø, ngoài việc
giúp HS hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những ai,
ngoài việc khai thác và giáo dục tình cảm cho HS thông qua các
nhân vật trong bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội
dung bài, hướng cho HS liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân
của mình, tôi còn cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ
thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các từ ngữ phù hợp với đề tài ( ông bà,
cha mẹ, anh em ) để chuẩn bò cho bài làm văn sắp tới ( viết về
người thân ), tôi luôn nói với các em sự cần thiết phải học thuộc và
lựa chọn những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài tập làm
văn, khơi gợi và kích thích tinh thần học tập của các em.
3.Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi
gợi ý :
Các bước hình thành:
Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi.
Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng ; cung cấp
và gợi ý để các em có thể chọn từ đồng nghóa thay thế cho
từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân
hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn ( khuyến khích
học sinh khá giỏi vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối
tượng học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa
học, giáo viên hướng dẫn mẫu và cung cấp các thành ngữ
so sánh , cách nhân hóa nhưng không đưa những thuật ngữ
này ra với đối tượng học sinh lớp 2 ).
Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật
tự hợp lý để hoàn chỉnh bài làm miệng.
Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn
học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.
Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước
nhằm kích thích tinh thần học tập của học sinh.
4. Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài:
Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra
lỗi sai để điều chỉnh , sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp
2 chưa được học và luyện tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc
chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai . trong quá trình
chấm bài, GV phát hiện, giúp HS khắc phục, biết lựa chọn, thay
thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, GV
giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn.
Khi sửa bài , GV nên giới thiệu những bài làm hay ở năm
học trước, hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em
tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau về cacùh diễn đạt trong
cùng một đề tài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện suy
nghó độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯC:
Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả
học tập phân môn Tập làm văn của lớp tôi có tiến bộ trong từng
năm như sau:
Giỏi Khá Trung bình Yếu
BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, tôi rút ra bài học
sau:
• Hình thành cho các em thói quen học tập , làm việc một
cách khoa học.
• Quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi gợi ý,
dẫn dắt học sinh hình thành kó năng và kiến thức mới.
• Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghó,
tìm tòi để phát triển tư duy, học cách ghi nhớ để nhớ lâu
kiến thức.
• Sử dụng nhiều hình thức: thi đua , khen thưởng để khuyến
khích các em nỗ lực học tập.
Lời kết:
Trên đây là một số giải pháp tôi đã thực hiện trong giảng
dạy phân môn Tập làm văn, tôi nhận thấy học sinh có tiến bộ
trong từng năm học.Giải pháp này được áp dụng cho giáo viên
giảng dạy lớp 2. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn
chế , thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân.
Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng
kiến kinh nghiệm.
Xin chân thành cảm ơn
Tân Phú, ngày 10 tháng 8 năm 2008
Người viết
Trần Thò nh Nguyệt