Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một vài kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.63 KB, 30 trang )

Tên đề tài:
MỘT VÀI KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN
A/ PHẦN MỞ ĐẦU.
I/BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI:
Vấn đề xây dựng một nền giáo dục mới phù hợp với giai đoạn cách mạng
mới đã trở thành vấn đề bức thiết được đặt ra cho toàn xã hội nói chung, cho
ngành giáo dục-đào tạo nói riêng.
Môn văn trong nhà trường THPT có một vai trò đặc biệt trong việc hình
thành nhân cách và những phẩm chất tư duy cho học sinh nhằm đáp ứng những
yêu cầu của thời đại trong mục tiêu đào tạo con người. Công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi môn văn cũng có một vị trí quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân
lực cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Do vậy, thời gian qua, việc đổi
mới phương pháp dạy và học văn cũng như công tác bồi dưỡng học sinh giỏi bộ
môn văn đã được ngành giáo dục- đào tạo, các trường chuyên, các trường trung
học phổ thông hết sức quan tâm.
Bồi dưỡng nhân tài là một trong những nhiệm vụ quan trọng và thiêng
liêng mà đất nước và thời đại giao phó cho ngành giáo dục. Mỗi nhà trường, mỗi
người thầy được nhận và phải nhận lấy nhiệm vụ đó như một vinh quang lại vừa
như một thách thức lớn nhất trong nghề nghiệp của mình.
II/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”- (Phạm
Văn Đổng). Người giáo viên khi đã chọn nghề dạy học là đã thể hiện lòng yêu
nghề, yêu người. Mục tiêu quan trong của ngành giáo dục là giáo dục nhân cách,
đào tạo nhân tài cho đất nước. Một trong những niềm vui, niềm tự hào nhất của
giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi các cấp. Để có được
những học sinh đạt giải trong các kì thi tuyển chọn học sinh giỏi thì ngoài năng
lực, tố chất của học sinh thì công lao bồi dưỡng của người thầy là điều không
thể phủ nhận được.
1
Mỗi môn học trong nhà trường việc học và dạy đều có đặc thù riêng.
Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước đến nay.


Học như thế nào cho tốt, dạy như thế nào cho thật sự có hiệu quả? Đó là điều
băn khoăn trăn trở của mỗi giáo viên dạy văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình
thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kĩ lưỡng mới có thể dạy tốt và mang lại
hiệu quả được. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn có yêu cầu cao
hơn nhiều. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng
tất đỗi vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ
ai khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là làm thế nào cho thật
sự đạt kết quả tốt nhất trong thời gian 7 tuần ôn luyện ngắn ngủi? Làm sao để
các em phát huy hết năng lực của mình trong một thời gian làm bài 180 phút ấn
định? Làm thế nào để công lao vất vả của thầy và trò không bị uổng phí? Làm
sao để mang lại niềm vinh dự cho bản thân các em và thành tích trong nhà
trường? Những câu hỏi ấy chính là động lực thúc đẩy người giáo viên phải luôn
tìm tòi, học hỏi, sáng tạo để đạt được hiệu quả cao nhất trong điều kiện cho
phép.
Điểm khác biệt căn bản giữa dạy học sinh giỏi và dạy học sinh đại trà là
ở chỗ: dạy học sinh giỏi phải sâu hơn, kĩ hơn; trong đó, cần giúp các em lí giải
vấn đề một cách đầy đủ hơn. Như vậy điều quan trọng nhất trong việc bồi dưỡng
học sinh giỏi không phải chỉ là tăng thời lượng bài giảng, mà chủ yếu là ở chất
lượng giảng dạy… Muốn dạy học sinh giỏi cần kiên trì, nỗ lực cập nhật kiến
thức, không có kiến thức thì không thể dạy được học sinh giỏi.
Dạy học sinh giỏi, phần lí luận văn học phải dạy kĩ hơn học sinh đại trà.
Bởi lẽ, đây chính là kiến thức công cụ để học sinh có thể hiểu sâu hơn, lí giải
xác đáng hơn các hiện tượng văn học. Dạy lí luân văn học cho học sinh theo hai
hướng: Cung cấp thêm hoặc củng cố thêm một số khái niệm lí luận văn học; vận
dụng những hiểu biết về lí luận để lí giải các hiện tượng văn học thường xuyên
xuất hiện trong các bài học.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong bồi dưỡng học sinh giỏi là
bồi dưỡng phương pháp tư duy, phương pháp học văn, nói cụ thể hơn là phương
2
pháp làm bài, cách vận dụng kiến thức…Đây là công việc khó khăn, không

những đối với người học mà đối với cả người dạy. Bởi thế, kết quả dạy học sinh
cách vận dụng kiến thức, cách làm bài là những căn cứ khá tin cậy để đánh giá
trình độ và tay nghề của thầy giáo dạy học sinh giỏi.
Để đạt được một số thành công trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
môn văn mỗi giáo viên lựa chọn những phương pháp phù hợp và vận dụng linh
hoạt theo cách riêng của mình. 11 năm liền nhận nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh
giỏi văn của trường THPT Long Thạnh là 11 năm tôi có học sinh giỏi đạt giải
của tỉnh, trong đó có 2 năm có học sinh giỏi đạt giải quốc gia. Vì vậy, năm nay
tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một vài kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi văn” để
trao đổi cùng đồng nghiệp.
III/ PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA ĐỀ TÀI
Muốn bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả thì mỗi giáo viên cần nắm
vững toàn bộ chương trình Ngữ văn THPT về : văn học sử, tiếng Việt, làm văn,
lí luận văn học…nhưng điều quan trọng là phải giúp các em từ việc hiểu rộng,
hiểu sâu vấn đề văn học, vấn đề của cuộc sống, biết cách vận dụng kiến thức vào
việc lí giải các vấn đề cụ thể của đề bài. Do sự phong phú về nội dung cần ôn
tập, sự vận dụng linh hoạt về phương pháp, trong bài viết này tôi chỉ trình bày
một vài kinh nghiệm đã bồi dưỡng thành công đối với học sinh giỏi lớp 11, 12.
IV/ MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Bồi dưỡng học sinh giỏi không phải chỉ bó hẹp trong việc chuẩn bị để có
học sinh đoạt giải trong các kì thi chọn học sinh giỏi mà việc thi học sinh giỏi và
các kì thi này cũng là một căn cứ tin cậy để đánh giá chất lượng dạy và học.
Chất lượng, kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi ít nhiều sẽ có ảnh hưởng tích cực
tới chất lượng giảng dạy ở các lớp trong trường.
Hơn nữa, trên cơ sở học vấn phổ thông, bồi dưỡng sâu thêm những năng
lực về ngữ văn, tạo cho học sinh có những điều kiện thuận lợi để tiếp tục học lên
và làm việc một cách sáng tạo, có hiệu quả trong các lĩnh vực khoa học xã hội
và nhân văn. Bồi dưỡng học sinh giỏi cũng là dịp để giáo viên thể nghiệm việc
3
đổi mới phương pháp dạy học. Thước đo trình độ của một giáo viên dạy học

sinh giỏi chính là phương pháp giảng dạy.
Chọn viết về đề tài này, bản thân tôi muốn nâng cao hiệu quả giờ lên lớp,
muốn trao đổi kinh nghiệm giảng dạy với đồng nghiệp, muốn nhận được ở
những đồng nghiệp tâm huyết với nghề sự góp ý chân thành.
B.PHẦN NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Phương pháp dạy học hiện nay rất coi trọng chủ thể học sinh. Việc dạy
học sinh giỏi cũng không nằm ngoài nguyên tắc ấy. Có điều là, để học sinh tự đi
trên con đường tìm ra kiến thức và có khả năng làm việc tương đối độc lập,
không quá phụ thuộc vào người thầy thì các em phải được trang bị một hệ thống
kĩ năng cần thiết. Do đó, giúp học sinh có những kĩ năng cần thiết là đã trao cho
các em chiếc chìa khóa để các em tự mở và khám phá những vẻ đẹp văn chương.
Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với đặc trưng bộ môn: vẻ đẹp của tác phẩm
văn chương là vô tận, nhiều tầng, nhiều lớp. Người đọc tùy theo sở trường, vốn
sống, vốn văn hóa mà phát hiện, cảm nhận ở những mức độ khác nhau.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là công việc khó khăn và cũng là niềm say mê,
hạnh phúc lớn đối với giáo viên văn. Nó đòi hỏi người thầy không chỉ có tầm
mà còn có tâm. Và chính sự tâm huyết với nghề mới hi vọng đem lại những
thành quả mong muốn. Bởi, học sinh giỏi văn thường là những em có năng
khiếu: biết tự làm giàu vốn kiến thức, có khả năng cảm thụ, tư duy tốt, biết vận
dụng các thao tác lập luận, các phương thức biểu đạt, kiến thức, kĩ năng để lí
giải tốt một vấn đề, một hiện tượng văn học, đời sống. Như vậy, một tiết dạy học
sinh giỏi đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị và đầu tư kĩ lưỡng, thậm chí giáo
viên phải có vốn kiến thức vừa rộng vừa sâu thì giảng dạy mới đạt hiệu quả, mới
thuyết phục được học sinh. Tiết dạy phải làm cho học sinh thực sự hứng thú, tin
tưởng và có niềm vui đồng sáng tạo.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ.
1.Thuận lợi:
4
-Là tổ trưởng chuyên môn, là giáo viên đứng lớp trên 30 năm, bản thân đã

đúc rút được nhiều kinh nghiệm giảng dạy để nâng cao hiệu quả giờ lên lớp; 11
năm bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 11, 12 của trường, tôi dành nhiều thời gian, tâm
huyết nghiêm cứu chuyên môn, vừa dạy vừa rút kinh nghiệm để nâng cao chất
lượng giờ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi.
-Bản thân luôn chịu khó đọc các tài liệu tham khảo, các tác phẩm văn học,
các vấn đề lí luận văn học, tham khảo, cập nhật đề thi học sinh giỏi tỉnh, học
sinh giỏi quốc gia hàng năm.
-Ban giám hiệu, hội khuyến học trường, một số đồng nghiệp tâm huyết
thường có sự quan tâm, khen thưởng, động viên đúng mức, kịp thời đến công tác
này.
-Kết quả thi học sinh giỏi hàng năm của trường luôn là động lực thúc đẩy
thầy và trò chúng tôi phải cố gắng nhiều hơn, không được bằng lòng với những
gì đã đạt được.
2. Khó khăn.
- Trường Trung học phổ thông Long Thạnh ở địa bàn vùng nông thôn, có
quyết định thành trường THPT năm 2000, điểm tuyển học sinh vào học tại
trường hàng năm rất thấp (thường tuyển hết), nhiều em học sinh giỏi hết cấp hai
là ra tỉnh học trường chuyên, lớp chọn. Số học sinh giỏi văn hàng năm của
trường không nhiều. Một số em được tuyển chọn bồi dưỡng đi thi HSG tỉnh chỉ
là học sinh học khá môn văn. Hơn nữa, học sinh được chọn vào đội tuyển
thường có trình độ không đều: một số em có khả năng hành văn thì vốn kiến
thức văn học chưa được phong phú; một số em khác có vốn kiến thức văn học
khá phong phú thì lại non về kĩ năng làm văn, nhất là dạng bài nghị luận, lí luận
văn học.
- Tài liệu, sách tham khảo ở thư viện trường còn hạn chế, chưa có đủ để
giáo viên và học sinh đọc, nghiên cứu theo yêu cầu.
- Những năm gần đây, việc khuyến khích học sinh giỏi đạt giải trong các
kì thi HSG tỉnh, quốc gia chưa thật thỏa đáng, khiến một số phụ huynh, học sinh
không mặn mà lắm với việc thi học sinh giỏi Văn. Vào đội tuyển văn của
5

trường thường là những em chỉ học khá giỏi môn văn hoặc những học sinh giỏi
không được tuyển vào các môn khoa học tự nhiên mới ôn môn văn.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Chọn học sinh giỏi.
-Chọn học sinh từ lớp 10. Tìm hiểu kết quả học môn văn của học sinh ở
THCS qua điểm tổng kết, điểm thi học sinh giỏi, điểm thi tuyển vào lớp 10 (môn
văn), có thể tham khảo ý kiến của giáo viên đã trực tiếp dạy học sinh đó để nắm
bắt mặt mạnh- mặt hạn chế của các em; đặc biệt chú ý đến điểm các bài làm văn,
điểm kiểm tra học kì I môn văn lớp 10.
-Học sinh giỏi văn phải đạt được những yêu cầu cơ bản như: có năng lực
cảm thụ, say mê văn chương, có sự chủ động sáng tạo khi thực hành, có ý thức
học tập nghiêm túc. Đội tuyển học sinh được hình thành, chọn lọc theo hướng
loại dần qua quá trình ôn luyện, qua các đợt thi. Không đưa học sinh mới vào
khi đang dạy, làm như vậy kiến thức của các em không đồng đều và việc tiến
hành ôn luyện phải làm lại, vất vả, mất thời gian.
Chúng ta đã biết mỗi một tác phẩm văn học đều là “con đẻ tinh thần” của
nhà văn. Người nghệ sĩ khi viết tác phẩm phải dồn hết tâm huyết của mình vào
việc sáng tạo. Họ quan sát thế giới hiện thực, nghiền ngẫm trước những vấn đề
đời sống, lựa chọn đề tài và phương pháp sáng tác nhằm qua tác phẩm của mình
gửi đến người đọc những thông tin thẩm mĩ và có giá trị để từ đó giáo dục, cảm
hóa, bồi dưỡng năng lực nhận thức, năng lực thẩm mĩ của đông đảo bạn đọc. Vì
thế, khi học văn học sinh phải có khả năng tìm ra cái hay, cái đẹp trong từng tác
phẩm, hiểu rõ tình cảm của nhà văn gửi gắm vào trong tác phẩm từ đó biết phát
huy cái hay, cái đẹp ấy một cách linh hoạt sáng tạo trong quá trình học tập và
lĩnh hội tác phẩm. Sau đó, học sinh phải có khả năng tự “giãi bày” theo cách
riêng của mình để qua đó biểu lộ được thế giới tâm hồn, tình cảm, trí tuệ phong
phú đa dạng của chính mình.
2. Lập kế hoạch bồi dưỡng.
-Về thời lượng: Đội văn được thành lập và bồi dưỡng từ học kì II lớp 11
đến giữa học kì I lớp 12. Mỗi học kì học sinh được bồi dưỡng 60 tiết. Tổng cộng

6
khoảng 120 tiết. Giáo viên dạy bồi dưỡng lập kể hoạch, cụ thể nội dung ôn
luyện từng học kì.
-Về nội dung: căn cứ vào hường dẫn của Sở giáo dục và đào tạo.
3. Biện pháp thực hiện.
a. Tiến hành bồi dưỡng học sinh giỏi từ những tuần cuối học kì 2 lớp
10. Đồng thời cho học sinh học trước trước chương trình lớp 11, tạo điều kiện
cho những học sinh 11 tham dự thi học sinh giỏi cùng học sinh 12 và để lớp 11
sẽ có thời gian học trước chương trình 12.
b. Dạy nền:
* Giáo viên cung cấp tài liệu hay, bổ ích cho học sinh đọc thêm bằng cách
phô tô rồi phát cho từng em; cho các em mượn tài liệu chuyền nhau đọc hay
cung cấp tên sách để học sinh tìm đọc.
* Bám sát chương trình, dạy thật kĩ, thật sâu, thật chu đáo từng bài trong
chương trình quy định để các em có một mặt bằng kiến thức chắc chắn, tạo cơ
sở cho học sinh có khả năng thẩm văn một cách chính xác và sáng tạo. Nghĩa là
giáo viên phải phấn đấu để hướng dẫn học sinh “Phát hiện ra, bằng năng lực
thẩm mĩ chất văn đích thực của tác phẩm” (Nguyễn Đăng Mạnh). Để phát huy
được tính sáng tạo của học sinh, tôi áp dụng phương pháp dạy học “Lấy học sinh
làm trung tâm”, nhằm làm cho học sinh thấy yêu tác phẩm, cảm phục tài nghệ
của nhà văn mà thấy yêu văn học, yêu cuộc sống hơn. Kết quả là khi làm bài
kiểm tra, học sinh có khả năng tự “giãi bày”, lúc đó thầy giáo không chỉ gặp lại
mình mà còn được tiếp xúc với trò, với thế giới tâm hồn, tình cảm và trí tuệ
phong phú, đa dạng của các em.
c. Dạy tìm hiểu chiều sâu, mở rộng.
* Theo sát các tác gia, tác giả, tác phẩm, các giai đoạn văn học mà đề ra
những chuyên đề bổ trợ kiến thức cho học sinh nhằm cung cấp cho học sinh môt
lượng kiến thức phong phú, toàn diện, sâu sắc và hệ thống.
* Học đến đâu luyện tập đến đó. Một mặt là để củng cố kiến thức, mặt
khác để rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Yêu cầu của việc luyện tập là phải tạo

được thói quen phân tích đề, lập dàn ý- đó là một thao tác hết sức cần thiết mà
7
lâu nay học sinh ít chú ý và thường hay bỏ qua khi làm bài. Luyện tập còn là để
bồi dưỡng kĩ năng nói và viết lưu loát cho học sinh để từ đó mà nâng lên thành
kĩ năng diễn đạt sáng rõ, khúc triết, hàm súc và có sức truyền cảm cao. Qua
luyện tập, một lần nữa giáo viên phải hướng dẫn học sinh cách thức tiếp cận vấn
đề, từ đó tạo thói quen cho học sinh cách thức khám phá, phát hiện vấn đề, dám
giải quyết những vấn đề khó, dám đưa ra quan điểm riêng của mình tạo ra phong
cách riêng, độc đáo của người viết.
Từ những bài tập, học sinh phải có khả năng biến kiến thức của thầy, của
tài liệu thành kiến thức của mình, có được những lí giải thuyết phục trước những
vấn đề văn học. Học sinh có cảm thụ đúng là tốt nhưng phải tạo thói quen cho
học sinh biết cách phân tích sâu sắc các hình tượng, các khía cạnh, các vấn đề
văn học.
d. Tìm hiểu đề. tìm ý và lập dàn ý cho đề bài.
e. Giáo viên ra đề cho học sinh thực hành làm bài theo thời gian ấn
định.
4. Những việc làm cụ thể.
a. Giáo viên cung cấp tài liệu cho học sinh đọc tham khảo về các tác gia,
tác giả, các tác phẩm của họ được dạy và học trong nhà trường như: Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,…Xuân Diệu,
Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Tản Đà, Nguyễn Bính,…Nguyễn Tuân, Thạch Lam,…
Nam cao, Vũ Trọng Phụng,…Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Quang
Dũng, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh,…Tô Hoài, Kim
Lân, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,…Học sinh tìm hiểu về các tác giả, hoàn
cảnh ra đời của các tác phẩm làm cơ sở cho việc lĩnh hội giá trị các tác phẩm.
Trong việc tích lũy kiến thức, kĩ năng đọc có vai trò quan trọng. Một trong
những “tiêu chuẩn” của học sinh giỏi là vốn kiến thức phải phong phú, sâu rộng,
chắc chắn và có hệ thống. Những kiến thức mà các em thu lượm được trong nhà
trường, trong bài giảng của thầy là không đủ. Vậy là các em phải tích lũy nó qua

con đường: tự đọc sách. Nhưng sách vở, tài liệu tham khảo có thể gọi là “tràn
lan” nếu không khéo sẽ rơi vào tình trạng “đa thư loạn mục”. Vì vậy, trang bị
8
cho học sinh kĩ năng đọc là rất cần thiết. Học sinh phải đọc có hệ thống; đọc
theo mục đích; đọc theo đề tài; đọc để mở rộng…Chẳng hạn như khi học Nam
Cao, một học sinh giỏi không chỉ biết tác phẩm “Chí Phèo”, “Đời thừa”, “Lão
Hạc” mà còn phải đọc rộng và am hiểu thêm nhiều truyện ngắn của Nam Cao
trước và sau Cách mạng tháng Tám. Ngoài việc nắm và cảm thụ tác phẩm văn
học, học sinh còn cần phải đọc các sách, các tài liệu lí luận văn học, nghiên cứu
phê bình văn học mới thực sự có điều kiện thâm nhập một cách đầy đủ về tác
phẩm. Ví dụ: khi học thơ mới với các bài thơ “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”,
“Thơ duyên” của Xuân Diệu, “Tràng giang” của Huy Cận, “Đây thôn Vĩ Dạ”
của Hàn Mặc Tử giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc thêm các tập thơ của
Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám, tập thơ “Lửa thiêng” của Huy Cận, các
tập thơ của Hàn Mặc Tử, và đọc cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh-
Hoài Chân để học tập, cảm nhận những lời bình giảng độc đáo, súc tích. Như
vậy, đọc về tác giả, tác phẩm và các tài liệu nghiên cứu phê bình văn học là một
hoạt đông rất quan trọng trong yêu cầu bồi dưỡng học sinh. Giáo viên phải
thường xuyên quan tâm hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra để các em có được những
kiến thức cần thiết trong quá trình làm bài. Kiến thức văn học phong phú, vững
vàng là cơ sở và nền tảng đầu tiên để học sinh viết một bài văn tốt.
b. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về tác gia, tác giả, tác phẩm.
-Tìm hiểu về tác gia, tác giả, giúp học sinh hiểu sâu, hiểu kĩ về tiểu sử, sự
nghiệp văn học của nhà văn đồng thời giúp các em có cái nhìn đối sánh về nét
tương đồng và khác biệt trong phản ánh hiện thực đời sống của nhà văn. Thời
đại, hoàn cảnh sống, học vấn, tuổi tác,…góp phần tạo nên nét riêng trong phong
cách của nhà văn.
-Tìm hiểu tác phẩm, trước hết các em phải tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của
nó. Hoàn cảnh ra đời có tác động đến khuynh hướng tư tưởng. Những tác phẩm
văn học ở những thời kì khác nhau thì khuynh hướng tư tưởng cũng khác nhau.

Đọc những tác phẩm này, có thể thấy được dấu ấn khuynh hướng tư tưởng của
từng thời kì văn học. Chúng ta thấy khuynh hướng tư tưởng của truyện ngắn
“Một đám cưới” (1944) của Nam Cao khác với khuynh hướng tư tưởng truyện
9
ngắn “Vợ nhặt” (in trong tập “Con chó xấu xí”, 1962) của Kim Lân. Tuy về đề
tài hai tác phẩm này có phần gần gũi nhau. Tác phẩm của Nam Cao viết về một
đám cưới chạy đói, qua đó thể hiện thấm thía và sâu sắc một nông thôn ảm đạm,
đói nghèo xơ xác đang trên con đường bần cùng hóa không lối thoát. Qua từng
trang văn có thể thấy rõ lòng xót thương chân thành của Nam Cao, nhưng cũng
bộc lộ rõ cái nhìn nhuốm màu sắc bi quan của ông đối với tiền đồ của người
nông dân lao động. Trang truyện khép lại rồi mà hình ảnh một đám cưới buồn
thê thảm không hơn gì một đám ma nghèo cứ ám ảnh và day dứt mãi trong lòng
người đọc…Sau Nam Cao, Kim Lân miêu tả cảnh lấy vợ có phần còn thê thảm
hơn nhiều: Cảnh anh cu Tràng nhặt được vợ vào cái thời điểm nạn đói khủng
khiếp mùa xuân năm Ất Dậu (1945) ở miền Bắc. Một thứ vợ nhặt được chỉ bằng
vài câu nói đùa và mấy bát bánh đúc giữa đường giữa chợ (chứ không phải vợ
cưới). Cái giá của con người thật rẻ rúng. Đêm tân hôn, hạnh phúc của vợ chồng
Tràng bị bủa vây bởi không khí thê lương, ảm đạm, chết chóc: “Mùi đống rấm ở
những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”, “Giữa sự im lặng của đôi
vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào lúc to lúc nhỏ”…Cảnh
tượng thật là thê thảm, có phần thê thảm hơn “Một đám cưới” của Nam Cao.
Nhưng khuynh hướng tư tưởng của “Vợ nhặt” không hề có nét bi lụy. Những
người đói trong tác phẩm của Kim Lân không nghĩ đến cái chết mà cứ nghĩ đến
cái sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát
khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào
tương lai…Cách kết thúc của “Vợ nhặt” cũng khác với “Một đám cưới”. Truyện
ngắn “Một đám cưới” của Nam Cao khép lại bằng cảnh chia tay của bố con Dần
trong tiếng khóc nức nở- đúng là cái kết thúc của một đám cưới không dẫn đến
hạnh phúc mà đánh dấu một sự ly tán, chia lìa, và cùng với nó là một tương lai
mù mịt. Còn truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân lại kết thúc bằng hình ảnh

hiện lên trong óc Tràng: Đoàn người tấp nập đi phá kho thóc của Nhật cùng với
lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình ảnh này đối lập với những hình ảnh
về cuộc sống thê thảm của người nông dân được miêu tả ở phần trước của thiên
truyện. Như vậy, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã phản ánh hiện thực đời sống theo xu
10
hướng vận động tích cực, mở ra hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ
ra con đường sống của người nông dân, và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói
khát cùng đường thì những người nông dân nghèo khổ sẽ hướng tới Cách mạng.
Có thể nói, đọc “Một đám cưới” và “Vợ nhặt”, có thể thấy được dấu ấn của hoàn
cảnh lịch sử xã hội, khuynh hướng văn học và phong cách nghệ thuật của mỗi
nhà văn. “Một đám cưới” viết trước Cách mạng (1943) trong hoàn cảnh đen tối
của xã hội Việt Nam đương thời. Còn “Vợ nhặt” viết sau 1945 khi quần chúng
đã được cách mạng giải phóng. “Một đám cưới” thuộc khuynh hướng văn học
hiện thực phê phán chưa tìm thấy lối thoát, tương lai tươi sáng của người nông
dân. Còn “Vợ nhặt” là tác phẩm của nền văn học cách mạng từ sau 1945 có khả
năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời sống xã hội.
- Tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm giúp học sinh nằm vững
mối quan hệ giữa các tác phẩm văn học với hoàn cảnh xã hội, với tư tưởng và
cuộc đời tác giả, nhất là mối quan hệ giữa tác phẩm văn học với đời sống hiện
nay,…Học sinh lĩnh hội những điều đó làm cơ sở cho việc so sánh sự khác biệt
trong việc phản ánh và lí giải hiện thực đời sống của các nhà văn như: nét riêng
trong tiếng nói và vẻ đẹp của người phụ nữ ở hai bài thơ: “Tự tình” (bài 2) của
Hồ Xuân Hương, “Sóng” của Xuân Quỳnh một phần được lý giải do thời đại,
xuất thân, hoàn cảnh sống, học vấn, tuổi tác của mỗi nhà thơ; tiếng cười trào
phúng trong thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương khác nhau một phần là do Nguyễn
Khuyến là người đỗ đạt, sống gắn bó với làng quê…còn Tú Xương là người
sống ở thành thị trong xã hội thực dân nửa phong kiến, là người không đỗ đạt,
sống trong cảnh nghèo, nợ nần chồng chất…
c. Giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu chiều sâu của các tác phẩm: yêu
cầu các em phải phân tích và cảm thụ các tác phẩm ấy trong thế đối sánh với

nhau để chỉ ra sự độc đáo, vẻ đẹp riêng biệt của mỗi tác phẩm. Có thể so sánh
các tác phẩm có cùng đề tài, cảm hứng, hình tượng trong một khuynh hướng văn
học; trong một giai đoạn văn học; của một tác giả hoặc khác giai đoạn, khuynh
hướng, tác giả.
11
Chẳng hạn, so sánh nội dung nhân đạo của các tác giả văn học hiện thực
phê phán (1930-1945) để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt. Từ
chỗ chỉ ra sự khác biệt trong cái nhìn nhân đạo của Kim Lân, Tô Hoài, Nguyễn
Khải so sánh với cái nhìn nhân đạo của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công
Hoan. Ngoài tấm lòng yêu thương, khẳng định phẩm chất và khát vọng sống của
những nhân vật bất hạnh, Kim Lân, Tô Hoài và Nguyễn Khải đều mở ra con
đường tương lai tươi sáng để đưa những nạn nhân khốn khổ ấy đến với cuộc đời
hạnh phúc. Vợ chồng Tràng, vợ chồng A Phủ, Đào được thoát khỏi cuộc sống
cũ, trong lúc chị Dậu của Ngô Tất Tố vẫn bế tắc với “bầu trời tối đen như mực”,
Chí Phèo của Nam Cao thì giết được kẻ thù rồi cũng tự đâm chết mình; đưa các
em đến với khẳng định: sự khác biệt ấy là bước tiến quan trọng trong cái nhìn
nhân đạo của các nhà văn cách mạng, được nảy sinh từ nền văn học mới (1945-
1975) do cuộc sống mới tác động. Ta gọi giá trị nhân đạo trong ba tác phẩm “Vợ
nhặt”, “Vợ chồng A Phủ”, “Mùa lạc” là giá trị nhân đạo mới của văn học cách
mạng giai đoạn 1945-1975.
Hay, học sinh có thể thấy được sắc thái nhân đạo riêng biệt của ba Tác
phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân), “Chí Phèo” (Nam Cao), “Hai đứa trẻ”(Thạch Lam).
Cùng nói lên nỗi thống khổ, tủi nhục của người dân trước Cách mạng tháng Tám
1945 nhưng mỗi nhà văn có một cách thể hiện riêng. Nói cách khác, cảm hứng
nhân đạo của họ hướng tới những khía cạnh khác nhau của sự khốn cùng, khốn
khổ của những kiếp người.
+ Với “Chí Phèo”, Nam cao tập trung hướng tới bi kịch không được làm
người, bi kịch bị tước đoạt mọi quyền sống, quyền được lương thiện của con
người. Con người ở đây không chỉ khốn khổ vì đói rét mà còn tủi nhục vì không
được coi là người. Chí Phèo chỉ là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hãy cứu lấy

nhân phẩm và nhân cách của con người, đó là tiếng nói tố cáo, tiếng nói thông
cảm và cũng là tiếng nói khát khao, ước vọng. Đó là cảm hứng nhân đạo của
Nam Cao ở tác phẩm này.
+ Ở truyện “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam lại tập trung thể hiện tấm lòng
thương xót cảm thông với những con người nhỏ bé, dường như bị lãng quên
12
trong một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, một cuộc sống đơn điệu, buồn tẻ, nhàm
chán u buồn và vô nghĩa. Con người ở đó chỉ là những cái bóng vật vờ, uể oải,
leo lét như những đốm sáng yếu ớt trong màn đêm ở phố huyện nghèo. Ánh
sáng rực rỡ của con tàu đêm đêm chỉ làm tăng thêm sự buồn chán cô đơn của
con người và sự u tối nghèo nàn của phố huyện mà thôi.
+ Đọc truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân, người ta lại thấy con người ở đấy
nghèo khổ, tủi nhục đến thế là cùng. Tác giả đã tạo dựng được một tình huống
rất độc đáo trong tâm trạng của mẹ con bà cụ Tứ: vui mà tội nghiệp, mừng mà
vừa tủi vừa lo. Tự nhiên nhặt được vợ ngoài đường, nhưng có vợ rồi liệu “chúng
nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Phải thông cảm
và hiểu những con người khốn khổ ấy một cách sâu sắc lắm Kin Lân mới mô tả
và thể hiện được một tâm trạng rất chân thực và xúc động này. Ý nghĩa nhân dạo
ở “Vợ nhặt” còn thể hiện ở “con đường thoát cảnh đói nghèo” mà tác giả hé mở
ra ở cuối thiên truyện bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trong tâm
trí Tràng.
Cùng viết về mùa thu nhưng mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến, Xuân
Diệu, Nguyễn Đình Thi đều có sắc thái riêng:
+ Ở bài “Thu vịnh”, Nguyễn Khuyến lấy cảm hứng từ một vùng quê thôn
dã- vùng quê Yên Đổ rất mực gắn bó và thủy chung với tâm hồn ông. Có thể nói
mùa thu ở đây là một mùa thu tiêu biểu cho mùa thu của làng quê Việt Nam (đặc
biệt là vùng đồng bằng Bắc Bộ). Đó là một mùa thu thơ mộng, tĩnh lặng, trong
trẻo và yên ả đến kì lạ…Trước cảnh thu ấy, tác giả vừa đắm say vừa buồn bã.
Một nỗi buồn dịu nhẹ, bâng khuâng thấm đượm và bao phủ lên toàn bộ cảnh
thu. Cuối bài thơ, nỗi buồn đã trở thành nỗi thẹn, nỗi đau man mác về khí tiết

của chính bản thân mình. Chính điều này làm người đọc yêu mến và kính trọng
ông hơn.
+ Bài “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu: khác với cảnh thu “cổ điển” tiêu
biểu cho làng quê Việt Nam của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu lấy thu hứng từ
cảnh sắc một mùa thu “hiện đại”, nơi phố phường thành thị. Những “rặng liễu
đìu hiu”, những “màu áo mơ phai”và “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói” cùng
13
với cảnh sắc, âm hưởng, không gian, khí trời…đã nói lên điều đó. Trước cảnh
thu này cũng là nỗi buồn nhưng nỗi buồn của Xuân Diệu khác với nỗi buồn
Nguyễn Khuyến. Đây là nỗi buồn da diết, lắt lay, thấm đượm một nỗi lạnh lùng
run rẩy, “cảnh vật như nhuốm màu tử khí” như có người đã nhận xét. Đó là một
nỗi buồn rất thơ mới.
+ Bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: tác giả không viết riêng về mùa
thu như hai bài thơ tên. Tuy vậy, cảm hứng về mùa thu vẫn dạt dào trong bài
thơ, bởi những sự kiện lớn lao của đất nước trong những năm tháng ấy luôn gắn
với mùa thu. Mùa thu Cách mạng tháng Tám thành công (1945) rồi toàn quốc
đứng dậy kháng chiến. Sau chín năm gian khổ, đất nước sạch bóng xâm lăng
cũng đúng vào mùa thu tháng tám. Trong bài thơ có hai mùa thu, hay đúng hơn
là có hai mùa thu trong tâm hồn Nguyễn Đình Thi. Mùa thu ra đi kháng chiến là
mà thu chia tay với đất trời Hà Nội. Đó là một mùa thu đượm buồn, lạnh lẽo heo
may, xao xác những phố dài lá rụng và những kỉ niệm buồn. Còn mùa thu kia là
mùa thu kháng chiến thành công. Một mùa thu dạt dào vui sướng, trong biếc,
thiết tha…
Tóm lại: mùa thu trong tâm hồn Nguyễn Khuyến là mùa thu của một ông
già tha thiết với quê hương xứ sở, nhưng chua chát, buồn chán trước thời cuộc,
nhân thế. Mùa thu trong tâm hồn Xuân Diệu là mùa thu của lớp thanh niên tiểu
tư sản chán nản trước thực tại xã hội, cô đơn, bế tắc không lối thoát. Mùa thu
trong tâm hồn Nguyễn Đình Thi là mùa thu của những chàng trai Hà Nội, hăm
hở đến với cách mạng, buồn bã mà vẫn kiên quyết ra đi kháng chiến và dạt dào
niềm vui khi thắng lợi trở về.

*Giáo viên hướng dẫn học sinh học kết hợp với luyện tập: theo các nhóm
chuyên đề.
-Giảng chuyên đề về tác gia, tác giả: trước hết, giáo viên hướng dẫn tìm
hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến sự nghiệp, quá trình sáng tác, đặc điểm nổi bật
của quá trình sáng tác, phong cách nghệ thuật, quan điểm sáng tác, quan điểm
nghệ thuật, những thành công, tiến bộ, hạn chế, thi pháp đặc trưng của từng tác
giả như: Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn
14
Tuân, Thạch Lam…sau đó hướng dẫn luyện tập để củng cố và nâng cao kiến
thức. Ví dụ: học sinh tìm hiểu nét thống nhất và nét riêng trong phong cách nghệ
thuật thuật của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám qua hai hình
tượng nhân vật: Huấn Cao và ông lái đò sông Đà; nét riêng trong phong cách
nghệ thuật của Hồ Chí Minh trong văn chính luận, truyện kí và thơ ca.
-Giảng chuyên đề về nhóm tác phẩm, giai đoạn, trào lưu, xu hướng văn
học: thơ mới, thơ kháng chiến chống Pháp, thơ 1945-1975, văn xuôi chống Mỹ,
số phận người phụ nữ qua một số truyện kí 1945-1975,…Giáo viên cho học sinh
luyện tập một số bài tập: “cái tôi” qua các bài thơ của các nhà thơ mới: Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử; nét chung và nét riêng trong cảm hứng về đất
nước qua các bài thơ “Đất nước” (Nguyễn Đình Thi), “Bên kia sông
Đuống”(Hoàng Cầm), “Việt Bắc”(Tố Hữu”, “Tiếng hát con tàu” (Chế Lan Viên)

-Chuyên đề về kĩ năng làm văn: thơ và phân tích thơ, truyện và phân tích
truyện, bình luận văn học, nghị luận lí luận văn học, điều kiện để làm một bài
văn hay, chi tiết nghệ thuật trong truyện kí…
-Chuyên đề lý luận văn học: học sinh cần được trang bị những kiến thức
cơ bản về: đặc trưng của văn học; mối quan hệ giữa văn học và hiện thực; thế
giới quan và sáng tác nghệ thuật; nội dung và hình thức, quá trình sáng tác, giá
trị văn học và tiếp nhận văn học, nhà văn, phong cách sáng tác, phong cách nghệ
thuật điển hình…Những kiến thức này vừa được học thành bài cụ thể, vừa được
học xen kẽ trong các giờ văn học sử, giảng văn; được vận dụng trong các bài

làm và qua các tiết ôn tập, hệ thống hóa.
Dạy lý luận văn học cho học sinh là khâu đặc biệt quan trọng. Học sinh
học có ghi chép những kiến thức được xem như chìa khóa để đi vào khám phá
tác phẩm văn học. Ví dụ dạy bài “Giá trị văn học”, cần cung cấp cho các em các
kiến thức sau:
+ Giá trị văn học là gì? (Giá trị văn học chính là những tác động, những
ảnh hưởng tốt đẹp của văn học đối với con người và cuộc sống).
15
+ Cơ sở của giá trị văn học và các giá trị văn học: Con người có ba nhu
cầu cơ bản để sinh tồn và phát triển, để tạo thành một sinh thể màu nhiệm nhất
của tạo hóa, vượt lên muôn loài. Đó là: hiểu biết, giáo dục và thẩm mĩ. Vì vậy,
văn học- một hình thái ý thức cao nhất của con người cũng có ba giá trị cơ bản
nhằm giúp con người hoàn thiện. Đó là nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ. Từ việc
giáo dục con người hiểu biết về thế giới, về xã hội, về con người, về chính mình,
văn học hướng đạo cho con người biết yêu, biết ghét, biết trách nhiệm và tình
thương và hơn thế biết cảm nhận và thu nhận cái đẹp.
+ Thực hành tìm hiểu các giá trị văn học ở một vài tác phẩm cụ thể.
Các chức
năng văn
học
Truyện ngắn “Chữ người tử
tù”-Nguyễn Tuân
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài
xa”-Nguyễn Minh Châu.
Giá trị
nhận thức.
Đọc tác phẩm, người đọc
hiểu thêm về nghệ thuật chơi
chữ thanh cao, nho nhã của
người xưa;tác phẩm cũng tái

hiện được không gian và thời
gian lịch sử- xã hội của thời
đại đó…
-Truyện ngắn cho biết thêm về cuộc
sống của người dân miền biển sau
chiến tranh, ở đó vẫn còn bao lam
lũ, vất vả, khó nhọc…
-Cho ta khám phá được thế giới tình
thương của người phụ nữ miền biển
với con cái, gia đình.
Giá trị
giáo dục.
Trên cơ sở ngợi ca và trân
trọng tài năng, nhân cách và
khí phách cao đẹp của Huấn
Cao, tác phẩm hướng người
đọc đến những giá trị đạo
đức, nhân cách tốt đẹp.
-Phải biết nhìn sâu hơn vào cuộc
sống: đàng sau bức tranh toàn bích,
tuyệt vời kia là một nỗi đời của một
người phải cịu bao dữ dằn, khốn
khổ, hung ác, tàn nhẫn. Đằng sau
nỗi đời ấy là một triết lí mà ngay cả
người cầm cán cân công lí cũng
không hiểu được: người đàn bà trên
thuyền với bầy con gần chục đứa
không thể thiếu người đàn ông.
16
-Phải biết cảm thương lo âu cho số

phận con người, cho xã hội. Chiến
tranh kết thúc không có nghĩa là
hạnh phúc , là sung sướng. Còn có
bao nhiêu kẻ thù mà những cuộc
chiến tranh không giải quyết được:
đói nghèo, dốt nát, lạc hậu.
Giá trị
thẩm mĩ.
- Nguyễn Tuân đen đến cho
chúng ta một quan niệm thẩm
mĩ thú vị, thấm đẫm tư tưởng
nhân văn: cái đẹp có thể nảy
sinh ở chốn ngục tù, ngọn lửa
chính nghĩa có thể bùng cháy
ở nơi sự bẩn thỉu, tối tăm ngự
trị, thiên lương cao cả có thể
tồn tại giữa nơi đầy tội ác.
- Để tạo ra giá trị thẩm mĩ ấy,
Nguyễn Tuân đã vận dụng
nhiều thủ pháp nghệ thuật,
trong đó đặc biệt là thủ pháp
đối lập và thủ pháp đòn bẩy.
-Tác phẩm ca ngợi những thân phận
đàn bà vùng biển, họ sống cho
chồng, cho con, cho thế hệ mai sau.
-Những vẻ đẹp bên ngoài là giả dối:
chiếc thuyền lưới vó với bức danh
họa trời cho. Chiếc thuyền ngoài xa
thật sự là người đàn bà đang vượt
biển đời đầy giông tố. Chiếc thuyền

không thể thiếu cái bánh lái cho
cuộc đời- người đàn ông hung hãn.
-Câu chuyện nhiều tầng nghĩa đầy
huyền diệu với cách đặt tình huống
đầy bất ngờ, thú vị, cách khắc họa
nhân vật linh hoạt, ngôn ngữ đa
dạng, đa chiều…
Dạy bài phong cách nghệ thuật: cần học sinh nằm vững khái niệm phong
cách nghệ thuật, các biểu hiện phong cách nghệ thuật của nhà văn trong tác
phẩm văn học. Từ đó học sinh vận dụng lí thuyết đề phân tích phong cách nghệ
thuật của nhà văn trong các sáng tác của họ. Hiểu được phong cách nghệ thuật
của các nhà văn, học sinh sẽ chủ động trong việc tìm hiểu chiều sâu của tác
phẩm văn học, nắm chắc hơn cách phát hiện, khám phá và lí giải cuộc sống của
nhà văn.
d. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, tìm ý cho bài văn…
17
1.Tìm hiểu đề:
Đề thi học sinh giỏi văn thường là những đề hay và khó. Vì vậy, trước hết
phải nhận thức đề cho đúng và cho trúng. Có một thực tế, nhất là đối với những
học sinh chưa có nhiều kinh nghiệm làm văn, khi mới đọc qua đề, chưa cần tìm
hiểu gì đã vội vàng viết ngay, làm ngay nên rất dễ bị lạc đề, xa đề. Mỗi đề văn,
nhất là đề văn hay, người ra đề ngoài những yêu cầu bình thường, luôn luôn “cài
đặt” trong đó một ẩn ý sâu xa mà chỉ có học sinh chịu khó tìm hiểu, suy nghĩ
mới phát hiện và đáp ứng được.
Ví dụ đề bài: Nhà văn Nga Lêônít Lêônốp có nói: “Mỗi tác phẩm phải là
một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Anh (chị) hãy bình
luận ý kiến trên.
Khi làm đề văn này nhiều học sinh đã đi phân tích và bình luận thế nào là
nội dung? Thế nào là hình thức nghệ thuật? Mối quan hệ giữa nội dung và nghệ
thuật như thế nào” Nội dung quyết định hình thức hay hình thức quyết định nội

dung? Tại sao? Nhận thức như vậy là đã lạc sang một vấn đề khác: vấn đề tầm
quan trọng và mối quan hệ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật trong một tác
phẩm văn học. Thực chất, vấn đề cơ bản của đề này là yêu cầu bình luận về bản
chất của sáng tạo văn học nghệ thuật. Bản chất ấy là: mỗi tác phẩm luôn là một
khám phá mới, một phát hiện mới cả nội dung và hình thức “khơi những nguồn
chưa ai khơi” như Nam Cao đã nói. Nếu cho rằng đề yêu cầu bàn về mối quan
hệ giữa nội dung và hình thức như trường hợp đầu, tưởng không sai nhưng
không trúng, không chính xác và do vậy dàn ý và hướng đi của bài viết sẽ thay
đổi theo một hướng khác, bạn sẽ phải lí giải bằng các luận điểm sau:
*Thế nào là nội dung của một tác phẩm văn học?
*Thế nào là hình thức nghệ thuật?
*Tại sao nội dung lại quyết định hình thức?
*Điều đó có ý nghĩa như thế nào?
*Chứng minh.
Trong khi nhận thức theo hướng sau, các luận điểm và sự lập luận lại theo
một hướng khác:
18
*Trình bày sơ qua thế nào là nội dung và thế nào là hình thức nghệ thuật
của một tác phẩm văn học.
*Giải thích qua phát minh là gì, khám phá là gì và đặc biệt phải dùng kiến
thức lí luận văn học để lí giải câu hỏi tại sao mỗi tác phẩm phải là một sự phát
hiện về nội dung và một khám phá về nghệ thuật?
*Câu nói của nhà văn Nga có ý nghĩa như thế nào? (đối với nhà văn, đối
với người đọc và đối với lịch sử văn học).
*Chứng minh bằng cách so sánh các tác phẩm viết về cùng một đề tài mà
vẫn có những cách thể hiện rất phong phú và khác nhau.
Như vậy, nhận thức đề cho đúng và cho trúng là hết sức quan trọng. Để
nhận thức chính xác đề văn cần đọc kĩ và trả lời các câu hỏi: Đề văn này thuộc
loại nào?: văn học sử, phân tích, cảm thụ tác phẩm độc lập hay đề lí luận văn
học? Thực ra thì bất kì đề văn hay nào người viết cũng sẽ phải vận dụng cả ba

mảng kiến thức và năng lực trên. Bài yêu cầu vận dụng những thao tác lập luận
nào, thao tác nào là chính? Phạm vi kiến thức cần huy động để làm sáng vấn đề
là gì?
2.Tìm ý cho đề bài.
Để hình thành ý cho một đề văn, nhất là các đề văn kiểm tra kiến thức lí
luận văn học với thể loại giải thích, bình luận, người viết cần tập trung luyện tập
theo những hướng sau:
*Giải thích qua những thuật ngữ, khái niệm khó trong đề.
*Trả lời câu hỏi: câu nói ấy nghĩa là thế nào?
*Nói như thế có đúng không? Tại sao có thể nói như thế? Căn cứ vào
đâu?
*Điều ấy thể hiện trong văn học và trong cuộc sống như thế nào?
*Câu nói ấy có ý nghĩa như thế nào?
Tất nhiên, ở mỗi loại đề sẽ có những cách hình thành ý khác nhau.
Ví dụ tìm ý cho đề bài: Nhà phê bình Nga, Biêlinxki (1811-1848) đã định
nghĩa điển hình nghệ thuật như là: “một người lạ mặt quen biết”. Anh (chị) hiểu
19
điều đó như thế nào? Hãy phân tích một số điển hình văn học để làm sáng tỏ. ý
kiến của mình.
Các ý cơ bản cần đạt:
*Giải thích:
-Giải thích câu nói: Câu nhận xét của Biêlinxki thực chất là nêu lên cái
chung và cái riêng, tính phổ quát và tính cá biệt…của điển hình văn học. “Người
lạ mặt” chính là cái riêng, cái cá biệt, cái độc đáo mà nhìn vào đó ta phân biệt
được nó với nhân vật khác, con người khác. Còn “quen biết” là do những nét
chung, tính phổ quát của điển hình nghệ thuật. Qua điển hình đó mà ta nhận ra
được đặc điểm và phẩm chất của một loại người, một tầng lớp, một giai cấp, một
dân tộc. Với ý nghĩa nghiêm nhặt này chỉ đến chủ nghĩa hiện thực mới có những
điển hình toàn vẹn.
-Tại sao điển hình nghệ thuật lại là “Một người lạ mặt quen biết”?

+ Văn học nghệ thuật như người ta vẫn thường nói đó là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Hiện thực cuộc sống và con người khách quan
ngoài đời khi đi vào tác phẩm văn học là đã thông qua lăng kính chủ quan của
người nghệ sĩ, in đậm dấu ấn sáng tạo của nghệ sĩ. Hơn nữa yêu cầu của sáng
tạo nghệ thuật là không được lặp lại mình càng không được lặp lại người khác.
Mỗi tác phẩm, mỗi hình tượng phải là một khám phá mới mẻ, độc đáo…Chính
vì thế hình tượng nghệ thuật phải có những nét riêng, nét cá biệt từ nội dung đến
hình thức, để phân biệt với những sáng tạo nghệ thuật khác.
+ Nghệ sĩ sáng tạo nên hình tượng nghệ thuật mang đậm dấu ấn của cá
nhân mình nhưng không phải chỉ để cho riêng mình, mà là để nói hộ ngưởi khác,
nói về người khác.Cho nên điển hình nghệ thuật bao giờ cũng mang tính khái
quát cao. Nó phải phản ánh được đặc điểm, tâm lí tính cách, tư tưởng và nguyện
vọng của một tầng lớp xã hội, một giai cấp hay một loại người nào đó. Nhìn vào
những điển hình, mỗi người đều như thấy hình bóng mình trong đó.
+ Điển hình nghệ thuật phải là sự thống nhất hài hòa giữa tính chung và
tính riêng, tính cụ thể và tính khái quát đã nêu. Nếu chỉ chú ý tới tính chung thì
hình tượng mất tính sinh động, cụ thể, thủ tiêu cá tính sáng tạo của nghệ sĩ, xóa
20
nhòa phong cách riêng của mỗi tác giả. Nếu chỉ chú ý tới tính riêng thì hình
tượng trở nên xa lạ, mất tính phổ quát, đại chúng, không có sức truyền cảm,
không tạo được sự đồng điệu “đồng ý, đồng chí, đồng tình”.
*Phân tích một số điển hình văn học để làm sáng tỏ ý kiến của mình: Chí
Phèo, (“Chí Phèo”-Nam Cao), Xuân tóc đỏ (“Số đỏ”-Vũ Trọng Phụng), Bá Kiến
(“Chí Phèo”-Nam Cao), Nghị Quế (“Tắt đèn”-Ngô Tất Tố), Giăng Van Giăng,
Gia Ve (“Những người khốn khổ”-V.Huygô) …
3. Chọn một số đề thi có gắn với nội dung ôn thi, hướng dẫn học sinh
cách tiếp cận đề, nắm vững yêu cầu của đề ra, định hướng lập ý và tìm ý
cho bài văn nghị luận. Nhiều học sinh thất bại ngay từ khâu xác định không
đúng yêu cầu của đề. Có khi xác định đúng vấn đề cần nghị luận, tìm đúng, tìm
đủ các luận điểm, chọn các thao tác lập luận, nhưng chỉ đưa tư liệu vào bài

không đúng thì bài văn cũng hỏng. Kĩ năng làm bài không phải học sinh nào
cũng vận dụng thông thạo ở các đề. Vì vậy, để rèn luyện kỹ năng làm bài cho
học sinh giỏi, giáo viên có thể chọn một số đề thi học sinh giỏi trước đây để học
sinh luyện tập.
Ví dụ:
Đề1: Trong “Sổ tay thơ”, nhà thơ Chế Lan Viên đã bày tỏ quan điểm của
ông về vai trò của thực tiễn đời sống với thơ ca cũng như khẳng định thái độ
đúng đắn của một nhà thơ đối với thực tiễn như sau:
“Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng
Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi
Tâm hồn anh là của đời một nửa
Một nửa kia cũng lại của đời”
Hãy bình luận quan niệm trên của Chế Lan Viên. Chứng minh rằng sự cần
thiết của việc phải đi vào thực tiễn đời sống của một nhà thơ nói riêng và người
nghệ sĩ nói chung là một trong những nội dung được Chế Lan Viên thể hiện
thành công trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”.
Hướng dẫn làm bài: Đề yêu cầu bình luận quan điểm của Chế Lan Viên
về vai trò của thực tiễn đời sống đối với thơ ca cũng như về thái độ đúng đắn
21
của một nhà thơ đối với hiện thực. Quan điểm đó được phát biểu dưới một dạng
diễn đạt đầy những hình ảnh ẩn dụ kết hợp với một giọng thơ hùng biện quen
thuộc của chính thi sĩ. Để bình luận đúng hướng, học sinh ần hiểu đúng tinh thần
của đoạn thơ. Sau khi đã hiểu, người làm bài phải chứng minh được nội dung sự
cần thiết của việc phải đi vào thực tiễn đời sống của một nhà thơ nói riêng và
người nghệ sĩ nói chung là một trong những nội dung đã được Chế Lan Viên thể
hiện thành công trong “Tiếng hát con tàu”.
-Hướng dẫn xong, giáo viên dành khoảng 30 phút cho học sinh tìm ý, lập
dàn ý. Sau đó giáo viên cho từ hai đến ba em trình bày về cách hiểu đề và dàn ý
của mình, yêu cầu các em còn lại nhận xét, bổ sung. Cuối cùng giáo viên khẳng
định những ý đúng và cần thiết đối với yêu cầu của đề và có định hướng cho các

em một hệ thống các ý cần có.
-Bình luận:
+ Quan điểm của Chế Lan Viên về vai trò của thực tiễn đời sống: Đời
sống đặt ra cho thơ ca biết bao vấn đề bức thiết cần trả l7o2. Đời sống là chất
liệu thôi thúc, là đề tài mời gọi, là cảm hứng réo gọi …(thể hiện qua cách diễn
đạt ẩn dụ đầy mạnh mẽ: “đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng’).
+ Quan điểm của Chế Lan Viên được xem là đúng đắn về thái độ của một
nhà thơ đối với thực tiễn đời sống:
* Phải đi vào thực tiễn sôi động của dời sống để đón nhận, nắm bắt.
* Phải nhận thức tâm hồn của một nhà thơ chân chính hoàn toàn thuộc về
cuộc đời: cảm nhận, lắng nghê, nhìn thấy được nhiều phía cuộc đời, rồi thao
thức trăn trở với bao phải trái cuộc đời; cuối cùng mới tìm cách chuyển tải
những thao thức, trăn trở đó về lại với cuộc đời…( nói như cách nói triết lí của
Chế Lan Viên là “Tâm hồn anh là của đời một nửa-Một nửa kia cũng lại của
đời”)
-Quan điểm của Chế Lan Viên là một quan điểm đúng đắn. Quan điểm đó
phù hợp với quan điểm về đường lối văn nghệ của Đảng ta, phù hợp với chủ
trương tạo điều kiện để văn nghệ sĩ thâm nhập thực tế đời sống. Nhiều tác phẩm
lớn của văn học cách mạng đã ra đời sau những thâm nhập sâu sắc thực tế kháng
22
chiến như tập thơ “Việt Bắc”(Tố Hữu), truyện “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài), tập
thơ “Ánh sáng và phù sa” của Chế Lan Viên.
-Chứng minh: Sự cần thiết của việc phải đi vào thực tế đời sống của một
nhà thơ nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là một trong những nội dung
được thể hiện thành công trong “Tiếng hát con tàu” nhờ cách nói đậm chất suy
tưởng, trí tuệ, cách thể hiện đầy những hình ảnh so sánh ẩn dụ mới lạ kết hợp
với một giọng thơ hùng biện mang phong cách Chế Lan Viên.
+ Nhà thơ chế giễu những kẻ quẩn quanh trong cuộc đời chật hẹp mà Chế
Lan Viên mỉa mai là “GIữ trời Hà Nội”. Thôi thúc họ: “anh đi chăng”, “anh có
nghe”, “sao chửa ra đi”. Chỉ rõ sự bế tắc của việc ở lại: “Chẳng có thơ đâu giữa

lòng đóng khép”.
+ Chế Lan Viên khẳng định: về với Tây Bắc, về với nhân dân, về với cuộc
đời, về với kỉ niệm kháng chiến là về với ngọn nguồn sáng tạo thi ca, nghệ thuật
“Tây Bắc ơi, ngươi là mẹ của hồn thơ!”.
Đề 2: Anh (chị) hiểu và suy nghĩ như thế nào khi nhà thơ Raxun
Gamratốp nói: “Thơ ca, nếu không có người, tôi đã mồ côi” ( Trích từ cuốn
“Đaghextan của tôi”-tập I-trang 150).
Từ kinh nghiệm học và đọc thơ của bản thân hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
Các ý cần đạt:
-Giải thích qua câu nói: hiểu được chữ “mồ côi” ở đây, nhà thơ dùng theo
nghĩa bóng: chỉ sự cô đơn, bơ vơ, không được cảm thông, chia sẻ…Câu nói của
R.Gamratốp có nghĩa là: Nếu không có thơ ca con người nói chung và các nhà
thơ nói riêng đã rơi vào cô đơn, lạc lõng, bơ vơ, không được sẻ chia, cảm thông
và an ủi, vỗ về; sẽ rơi vào tình trạng “mồ côi” về tinh thần, tình cảm.
-Giải thích tại sao có thể nói như thế.
+Đối với nhà thơ:
*Làm thơ thực sự là một sự giãi bày tình cảm, là sự khao khát muốn được
thổ lộ nỗi lòng. Nhà thơ khi có những xúc động mạnh mẽ, khi có những suy
nghĩ thầm kín, những tư tưởng sâu sắc và những tình cảm dâng trào “không nói
ra không được”, nếu không viết ra “có thể mình chết” như R.RiIke đã nói trong
23
“Thư gửi một nhà thơ trẻ”, lúc ấy thơ đến với họ và họ làm thơ và phải nói bằng
thơ. Làm thơ trước hết là để giãi bày lòng mình là vì thế. Cho nên rất nhiều
người chỉ làm thơ cho chính mình đọc, hoặc chỉ người hiểu mình mới cho đọc.
Nguyễn Khuyến khi Dương Khuê mất, thì coi như mất tri âm và không muốn
làm thơ nữa “Câu thơ nghĩ đắn đo không viết.Viết đưa ai ai biết mà đưa”…
*Tuy nhiên làm thơ không chỉ là sự giãi bày lòng mình mà còn muốn
được chia sẻ, mong được sự đồng vọng của nhiều tấm lòng “thơ là những điệu
hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu” (Tố Hữu). Làm thơ là muốn được người
khác hiểu lòng mình để “nỗi buồn nói ra vợi đimột nửa, niềm vui nói ra thì được

nhân đôi”. Không chỉ mong người khác hiểu lòng mình (nội dung) mà nhà thơ
còn muốn người khác cùng thưởng thức cách nói, cách thể hiện, cách phô diễn
những tình cảm và tư tưởng của mình bằng những hình thức nghệ thuật ngôn từ
độc đáo, khác lạ-hình thức của thơ.
*Nếu không có thơ ca, tức là không làm thơ, thì có nghĩa là không được
giãi bày, cũng không được sẻ chia, thông cảm với người khác và của người
khác, thì có nghĩa là nhà thơ sẽ rơi vào tình cảnh “mồ côi” về tinh thần, tình cảm
như Xuân Quỳnh đã tâm sự trong bài “Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”:
“Không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc
Trận mưa xuân dẫu làm ướt áo
Nhưng lòng em còn cảm xúc chi đâu
Mùa đông về quên nỗi nhớ nhau
Không xôn xao khi nắng hẻ đến sớm”.
+Đối với bạn đọc (cần phải thấy rằng nhà thơ cũng là một bạn đọc, đọc
thơ người khác). Vì sao không có thơ, con người (bạn đọc) sẽ “mồ côi”?
*Bạn đọc cũng như nhà thơ, đã là con người thì đều có những tâm trạng,
những tình cảm và suy nghĩ nhiều khi rất giống nhau trước hiện thực cuộc sống.
Nhưng nhà thơ khác người đọc ở chỗ: họ có tài nói lên được những điều đó bằng
thơ. Các nhà thơ đã nói hộ lòng người, cất lên “tiếng gọi đàn” (Chế Lan Viên),
có khi là tiếng nói của một dân tộc, thể hiện ý chí và nguyện vọng của một đất
24
nước; là “lương tâm của cả một thời đại”; “Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng chí,
đồng tình” (Tố Hữu) “Đọc thơ đồng chí ngỡ thơ mình” (Tế Hanh) là vì thế.
*Thơ là tâm hồn, tình cảm. Nó diễn đạt rất thành công mọi cung bậc tình
cảm đa dạng và phong phú của con người: niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn, tâm
trạng chán chường, tuyệt vọng, nỗi trăn trở, băn khoăn, sự hồi hộp, phấp phỏng,
một nỗi buồn vu vơ, một nỗi niềm bâng khuâng khó tả, một sự run rẩy thoáng
qua, một phút chốc ngẩn ngơ…Có những tâm trạng và cung bậc tình cảm của
con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ. Chính vì thế, thơ không chỉ nói hộ lòng
mình, thơ còn là sự an ủi, vỗ về, động viên, khích lệ người ta đứng dậy, đi tới…

Cuối cùng với đặc trưng và phương tiện thể hiện của mình, thơ còn giúp người
đọc thanh lọc chính tâm hồn mình, làm cho người đọc sống cao thưỡng hơn, bớt
thô bỉ đi và sống đẹp hơn…
*Từ những ý trên rút ra câu trả lời nếu không có thơ ca thì cuộc sống con
người sẽ nghèo nàn đi biết mấy, tâm hồn, tình cảm sẽ “mồ côi”; “Cuộc sống sẽ
tối sầm nếu không có thơ ca…Và con người sống nghèo nàn, hoang dại” (R.
Gamratốp).
-Nâng cao vấn đề: Câu nói của R. Gamratốp đã nói lên ý nghĩa và tầm
quan trọng to lớn của thơ ca đối với cuộc sống tinh thần của con người.
+ Nó giúp nhà thơ có ý thức và trách nhiệm hơn trong việc sáng tạo thơ
ca của bản thân: không chỉ nói lên tiếng nói của bản thân mà còn nói lên tiếng
lòng của muôn triệu con tim…
+ Câu nói cũng nhắc nhở bạn đọc cần trân trọng thơ hơn, thấy rõ được sức
mạnh của thơ ca, làm giàu tâm hồn mình bằng thơ ca và giúp ta đánh giá được
giá trị của mỗi bài thơ: Thơ hay phải là những bài thơ vừa thể hiện được cái
riêng của mỗi tâm hồn vừa phải là tiếng đồng vọng của muôn vạn tấm lòng.
-Chứng minh: Học sinh chọn một số bài thơ hay, tiêu biểu đã được học,
được đọc có tác động thật sự đến tâm hồn tình cảm của mình để minh họa và
làm sáng tỏ vai trò, tác dụng của thơ ca đối với bản thân.
25

×