Tải bản đầy đủ (.doc) (211 trang)

tuyến điểm tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.14 MB, 211 trang )

TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
I. KHÁI QUÁT VỀ TÂY NGUYÊN:
Tây Nguyên nằm trong một vùng đất cao rộng lớn ở sau lưng vòng cánh cung của
vùng núi Trường Sơn Nam. Toàn bộ vùng Tây Nguyên gồm có nhiều cao nguyên với
những độ cao khác nhau và các tỉnh của Tây Nguyên được phân bố trên các cao nguyên:
cao nguyên Kon Tum, Pleiku có độ cao trên 500 – 600m với nhiều dấu tích của núi lửa
như biển hồ T’Nưng và ngọn núi Ngọc Linh cao trên 2598m ở phía Bắc. Cao nguyên Đắc
Lắc có độ cao từ 400 – 500m với hồ Lăk rộng lớn khoảng 600ha và ngọn núi Chư Yang
Sin cao 2405m. Cao nguyên Lâm Viên có độ cao trên 1500m với đỉnh LangBiang cao
2169m. Ngoài ra còn có cao nguyên Bảo Lộc – Di Linh cao gần 800m.
 Diện tích: 56.083 km
2
chiếm tới
1
/
6
diện tích lãnh thổ Việt Nam.
 Dân số: khoảng 3,6 triệu người(1999). Hiện nay khoảng 4.33 triệu người(2001)
chiếm khoảng
1
/
2
dân số cả nước.
Tây Nguyên gồm có 4 tỉnh là Gia Lai, Đắc Lắc , Lâm Đồng và Kon Tum. Và được
chia thành 2 phần là Nam Tây Nguyên (gồm Lâm Đồng, Đắc Lắc); Bắc Tây Nguyên
(gồm Gia Lai, Kon Tum).
 Gia Lai : tỉnh lò là thành phố Pleiku. Diện tích khoảng 16.212 km
2
, dân số khoảng
1.048.000 người (2001), ngoài dân tộc Kinh còn có dân tộc Ba Na và Gia Rai…
 Kon Tum : tỉnh lò là thò xã Kon Tum. Diện tích khoảng 9934 km


2
, dân số khoảng
330.700 người, ngoài dân tộc Kinh còn có dân tộc Ba Na, Xơ Đăng sinh sống.
 Lâm Đồng : tỉnh lò là thành phố Đà Lạt. Diện tích khoảng 10.137 km
2
, dân số
khoảng 1.049.900 người, gồm các dân tộc Kinh, M’nông, K’ho.
 Đắc Lắc : tỉnh lò là thành phố Buôn Mê Thuột. Diện tích khoảng 19.800 km
2
đây
là tỉnh có diện tích lớn nhất nước, dân số khoảng 1.901.400 người, gồm các dân tộc Kinh,
Êđê, M’nông…
Diện tích rừng ở Tây Nguyên chiếm gần 50% diện tích rừng cả nước, khoảng 0,2
triệu ha tương đương với 20.000 km
2
. Rừng Tây Nguyên có các loại gỗ q như: giáng
hương, sao, căm xe, bằng lăng…kèm theo phản thực vật phong phú che phủ tòan bộ diện
tích khu vực. Các khu rừng quốc gia ở Tây Nguyên là Yook Don, Suối Trai và Năm Căn
nằm trong kế hoạnh bảo tồn và phát triển của nhà nước ta.
Khí hậu Tây Nguyên tương đối mát mẻ, nhiệt độ trung bình khoảng 23
0
C. Có hai
mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Do chế
độ thích hợp nên các loại thực vật phát triển tốt đặc biệt là loại đất đỏ Bazan thuận lợi
cho việc phát triển các loại cây công nghiệp như: cà phê, cao su, trà, điều, thuốc lá, tiêu,
bông…ngoài ra Tây Nguyên còn có nhiều cây lương thực và có các đồng cỏ lớn để chăn
nuôi gia súc.

71
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT

Những con sông lớn ở Tây Nguyên là Krông Nô, Krông Ana, Sêrê Pôk…chảy qua
các dãy núi hiểm trở, tạo thành nhiều thác nước đẹp như: thác Drây Sap, Drây H’Linh,
Yali…
1. Về kinh tế:
Công nghiệp và lâm nghiệp là 2 thế mạnh của Tây Nguyên. Do vùng này có tới
70% đất đỏ Bazan nên phù hợp với việc phát triển cây công nghiệp và phần lớn nó tập
trung nhiều ở 2 tỉnh Đắc Lắc và Lâm Đồng. Cây chè và cà fê là 2 loại cây công nghiệp
mang lại hiệu quả kinh tế cao với sản lượng hàng triệu tấn mỗi năm. Và đây là trung
tâm cà fê của cả nước. Hiện nay sản lượng cà fê của Việt Nam đứng thứ hai trên thế
giới sau Brazil. Ngoài ra còn có các loại cây khác như: cao su, điều, thuốc lá…các loại cây
gỗ, các loại dược liệu q cho ngành y.
Tương lai đến năm 2005 theo qui hoạch đây sẽ là trung tâm của cây cao su trên cả
nước với diện tích dự kiến trên 30.000ha, cây cao su này tập trung phần lớn ở vùng phía
Nam Tây Nguyên.
Nông nghiệp Tây Nguyên nằm trên vùng đồng bằng thung lũng, chân núi và ven
sông nên người dân trồng các loại cây lương thực như: lúa, bắp, đậu, khoai…góp phần
phát triển nông nghiệp và đẩy mạnh ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm.
2. Về giao thông:
Hệ thống đường giao thông của Tây Nguyên với các đòa phương khác khá thuận lợi
bao gồm các tuyến đường bộ sau:
Đường quốc lộ 14: thành phố HCM – Thủ Dầu Một – Ban Mê Thuột: 353km
Đường quốc lộ 27: thành phố HCM – Đức Trọng – Ban Mê Thuột
Đường quốc lộ 26: Nha Trang – Ban Mê Thuột: 185km
Đường quốc lộ 19: Qui Nhơn – Pleiku: 175km
Đường quốc lộ 25: Tuy Hòa – Pleiku
Ngoài hệ thống đường bộ còn có các sân bay của quân Mỹ trước kia như: sân bay
Liên Khương(Lâm Đồng), sân bay Ban Mê Thuột, sân bay Pleiku. Hiện nay có nhiều dự
án sửa chữa và nâng cấp các tuyến đường giao thông và hệ thống sân bay ở Tây Nguyên
để phục vụ cho việc đi lại, thông các miền khác và thu hút khách du lòch.
3. Về đòa lý:

Sông ngòi :
Tây Nguyên là nơi phát nguồn của nhiều con sông thế giới:
 Sông Đồng Nai: xuất phát từ cao nguyên Lâm Viên điểm kết thúc ở vònh Gành
Rái, đỗ ra biển Đông. Tổng chiều dài của sông là 532km.
 Sông Mương Mán ( Bình Thuận): xuất phát từ cao nguyên Lâm Viên. Sông Cà Ty
là một nhánh của sông Mương Mán.
 Sông Lũy (Bắc Bình Thuận): sông này bắt nguồn từ cao nguyên Di Linh ở gần núi
Tà Cú, một nhánh của sông này đổ ra của Phan Rí.
 Sông Cái (Nha Trang): bắt nguồn từ ngọn núi Chư Yang Sin ở Nam Tây Nguyên.
 Sông Đà Rằng (Phú Yên): xuất phát từ Man Yang và đèo An Khê.
 Sông Trà Bồng, sông Thu Bồn cũng đều xuất phát từ Tây Nguyên.

72
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
 Sông Poko (1 nhánh) khi hết nhánh thì sông này còn có tên là ĐakBla tên gọi là
sông Sê San thuộc tỉnh Gia Lai, Kon Tum, nay cũng là nguồn chảy chính cung cấp nguồn
nước cho thủy điện Trò An một trong những công trình thủy điện lớn nhất nước.
Nay là những con sông chảy theo hướng từ Tây sang Đông. Nhưng ở Tây Nguyên
cũng là kơi khởi nguồn của con sông chảy ngược từ Đông sang Tây như: sông Krông Nô,
Krông Ana. Hai nhánh sông này hợp thành sông Serepok ở Đắc Lắc.
Dãy Trường Sơn : có đặc điểm dốc về phía Đông, thoai thoải về phía Tây.
Dãy Ngọc Linh : có độ cao là 2596m là ngọn núi cao nhất Bắc Tây Nguyên.
Dãy Ngọc Phan : cao 2295m.
Chư Yang Sin : cao 2406m.
Chơ Hơ Mu : cao 2050m khi qua đèo Phượng Hoàng trên đèo này ta có thể nhìn
thấy đỉnh Chơ Hơ Mo.
Dãy Chư Cang La (Bình Phước) : cao 2150m
4. Về nền văn hóa và xã hội :
Tại vùng cao nguyên này tập trung hơn 30 dân tộc thiểu số trong cộng đồng 54 dân
tộc anh em ở nước ta. Người Việt ở Tây Nguyên chiếm khoảng 50% dân số, còn lại là

dân tộc Ba Na, Ê đê, Gia Rai, M’Nông, Cà Tu, Xê Đăng, X’Tiêng, K’Ho sinh sống tại
các vùng núi cao hiểm trở và tại các nguồn nước lớn. Cho nên đời sống xã hội – văn hóa
của Tây Nguyên có sự pha trộn giữa nền văn hóa của dân tộc Việt và nền văn hóa của
các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên về cơ bản các dân tộc miền núi vẫn giữ gìn và phát huy
các phong tục - tập quán truyền thống của riêng họ. Phần lớn các dân tộc thiểu số theo
chế độ mẫu hệ nên vai trò phụ nữ trong gia đình rất quan trọng.
Đơn vò cư trú nhỏ nhất của họ là Buôn (Ban), làng (Phei). Đứng đầu chủ làng là già
làng có uy tín nhất trong cộng đồng và quyết đònh hết mọi việc trong làng. Các lễ hội
chính như : mừng năm mới, mừng được mùa lúa, tục cưới hỏi, ma chay, đặc biệt là lễ hội
đâm trâu được tổ chức rất long trọng mang đậm tính truyền thống văn hóa của người
dân tộc.
Từ khi thực dân Pháp áp đặt chế độ bảo hộ ở Việt Nam, họ rất chú trọng đến lực
lượng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Một số giáo só người Pháp đã len lỏi vào cộng đồng
người Ê đê, Ba Na, M’Nông, Xê Đăng để truyền đạo và thành lập các tổ chức chính trò
riêng biệt. Do đó phần đông người Ê đê, H’Mông theo đạo Tin Lành hoặc đạo Thiên
Chúa Giáo. Tại nơi này còn có nhiều căn cứ quân sự ở Pleiku, An Khê, Ban Mê Thuột
do Pháp xây dựng khi chiếm đóng ở đây.
5. Về du lòch :
Đến với Tây Nguyên là đến với một vùng đất mang đậm nét nguyên sơ, khám phá
những phong tục – tập quán của người dân tộc là một loại hình thu hút rất nhiều khách
du lòch. Ngoài ra du khách có thể chiêm ngưỡng nhiều cảnh đẹp của núi rừng Tây
Nguyên hùng vó.
II. GIỚI THIỆU MỘT SỐ NÉT VỀ VĂN HÓA CỦA MỘT SỐ
DÂN TỘC NGƯỜI TÂY NGUYÊN :

73
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
1. DÂN TỘC Ê ĐÊ:
Dân tộc Ê Đê là 1 trong 54 dân tộc đang có mặt trên lãnh thổ Việt Nam. Người Ê
Đê có nguồn gốc từ vùng biển và ngôn từ của họ thuộc hệ Mayalo – Polynenen. Trước

kia trong việc học tập truyền bá kiến thức họ áp dụng lối làm mẫu, bắt chước, truyền
khẩu đến đầu thế kỷ thứ XX, một người dân tộc Ê Đê đã tìm tòi sáng tạo ra chữ viết
riêng cho dân tộc mình vào năm 1923. Loại chữ này là sự pha trộn giữa tiếng La Tinh và
tiếng Việt nhưng được phát âm theo tiếng Ê Đê, đây là một sự kiện lớn trong đời sống
văn hóa đồng bào Ê Đê giúp họ tiến gần hơn đến nền văn minh khoa học kỹ thuật và
nền văn minh nhân loại.
Dân tộc Ê Đê hiện nay có khoảng 195.000 người sống tập trung ở tỉnh Đắk Lắk và
miền Tây 2 tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên. Người Ê Đê có các nhóm đòa phương như : Ra
Đê, Kpa, A Dham, Krung, Krul, Dlie Ruê, Blô, Mdhur, Bíh.
Về hoạt động kinh tế người Ê Đê chủ yếu trồng lúa rẫy trên các sườn đồi cao
nguyên. Riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ dùng trâu dặm đất thay việc cày,
cuốc đất. Trước kia họ thường đốt rừng làm đất trồng khoai, ngô, đậu, lúa, thuốc lá sau
khoảng 5 đến 7 vụ họ bỏ miếng đất đó đi tìm khoảng đất khác và trồng lại rừng. Người
Ê Đê còn chăn nuôi gia súc, gia cầm kết hợp với việc dệt vải đan lát làm các vật dụng
trong gia đình từ mây, tre, nứa họ còn đánh cá trên sông hồ suối, săn bắt thú trong
rừng, hái lượm rau quả để bổ sung nguồn thức ăn.
Y phục cổ truyền mà người Ê Đê thường mặc là màu chàm có điểm những hoa văn
rực rỡ. Đàn bà mặc áo quấn váy, đàn ông đóng khố mặc áo. Và họ ưa dùng các trang
sức bằng đồng, bạc hay cườm để trang điểm cho mình.
Trước đây dân tộc Ê Đê theo tín ngưỡng thần giáo, sau này các giáo só người Pháp
lên đây truyền bá và hiện nay họ theo đạo Tin Lành, Hồi giáo hoặc Thiên Chúa giáo.
Tuy nhiên các phong tục tập quán vẫn được giữ nguyên và lưu truyền cho đến ngày nay.
Người Ê Đê tin có nhiều thần linh nên thực hiện nhiều kiêng cử cúng bái nhằm
mong cho mùa màng bội thu, người khỏe mạnh, tránh rủi ro, hỏa hoạn
Người Ê Đê có kho tàng văn học truyền miệng rất phong phú : thần thoại, cổ tích,
ca dao, tục ngữ, đặc biệt là khan ( trường ca, sử thi ) và nổi tiếng với khan Đam San,
khan Đam Kteh Mlan
Một số phong tục tập quán của người Ê Đê :
a/ Tục cà răng – cà tai :
Đây là hình thức nghệ thuật theo truyền thống của người Ê Đê đối với những thế

hệ mới của cộng đồng. Có thể nói đây là cột móc đánh dấu tuổi trưởng thành. Đối với
những đứa bé giỏi người ta dùng tre, nứa căng vành tai dành cho những gia đình
nghèo, còn đối những gia đình giàu thì họ căng bằng ngà voi. Phần dái tay càng to càng
dài thì chứng tỏ vò trí quan trọng và tài năng của họ.
Còn tục cà răng là một nghi thức sát hạch đánh dấu tuổi trưởng thành của thiếu
niên. Người ta dùng liền hoặc đá mài cà những răng cửa sát lợi, việc này rất mất vệ sinh
và nguy hiểm đến tính mạng của ngững đứa trẻ. Ngày nay các tập tục này không còn

74
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
phù hợp nữa nên cũng dần bò xóa bỏ, thêm vào đó là ý thức của người dân tộc có phần
đổi mới theo nếp sống văn minh của người Việt.
b/ Phong tục cưới hỏi :
Người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ nên người phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong
gia đình và hoàn toàn chủ động trong hôn nhân. Thanh niên nam nữ khi đến tuổi trưởng
thành được tự do tìm hiểu và lập gia đình với nhau. Khi đến tuổi trưởng thành các cô gái
phải tự tìm người bạn trăm năm qua các lễ hội, các buổi cúng giỗ, thăm viếng nếu chọn
người hợp ý và sau một thời gian qua lại mà chàng trai chấp nhận tiến tới hôn nhân, cô
gái sẽ thưa chuyện với cha mẹ mình. Bên nhà gái sẽ nhờ một người mai mối qua bên nhà
trai hỏi chuyện. Bố mẹ của chàng trai sẽ hỏi ý kiến con mình trước khi trả lời.
Lễ trao vòng hay lễ hỏi sẽ được tổ chức khi bên đàn trai đồng ý cho cưới. Nhà gái
sẽ nhờ một người mai mối đem lễ vật sang nhà trai: gồm một vòng đồng hay vòng hạt
cườm hoặc một chén rượu ngon. Cũng có trường hợp nhà gái đưa cho nhà trai một chén
bằng đồng – tượng trưng cho vú mẹ đã nuôi lớn chàng trai và một tấm chăn tượng trưng
cho người mẹ thường bế chàng trai lúc còn bé. Sau đó cô gái và chàng trai cùng nắm tay
vào chiếc cồng bằng đồng thể hiện ý nghóa hai người đã là vợ chồng.
Lễ cưới sẽ được tổ chức sau khi già làng đã chọn được ngày thích hợp và được tổ
chức linh đình. Nhà gái sẽ tổ chức mổ heo, trâu, gà làm tiệc đãi bên đàng trai, họ hàng
hai bên cùng toàn thể khách mời trong buôn. Theo sự thách cưới của nhà trai, cha mẹ cô
gái sẽ chuẩn bò mấy cái cồng, mấy chén rượu và một đến hai con trâu để trao cho mẹ

chú rể, ngoài ra các chò các cô dì của chú rể đều được cúng lễ vật tùy theo thứ bậc và
tuổi tác. Nều nhà nghèo không đủ tiền cưới cô gái sẽ ở bên nhà trai vài năm để trừ vào
tiền sắm lễ vật. Nếu không đủ tiền làm đám cưới lớn thì phải sắm đủ lễ và cúng tượng
trưng cho ông bà cha mẹ chú rể. Sau đó hai vợ chồng mới được phép về nhà ở chung với
cha mẹ cô gái. Khi rước rễ về thì nhà gái phải đánh trống, cồng chiêng báo tin, sau đó
thết đãi rượu cần và ăn tiệc.
Theo tập tục từ xưa cả làng sẽ ăn mừng đám cưới trong 2 ngày : ngày đầu nhà gái
sẽ làm tiệc chiêu đãi nhà trai và làm lễ rước rễ về nhà mình. Đây là buổi lễ long trọng,
mọi người ăn uống và hát ca suốt đêm. Sáng ngày thứ 2 khi các nghi thức đã xong thì cả
buôn mổ bò ăn mừng cho cô dâu chú rể. Từ đó trở đi chú rể luôn ở bên nhà vợ và chính
thức trở thành một thành viên trong gia đình.
Người Ê Đê có những qui đònh nghiêm ngặt đối với hôn nhân. Do đó trong lễ cưới
hai họ thỏa thuận với nhau về mức phạt đối với người phá vỡ hôn nhân. Vì nhà gái đã bỏ
tốn rất nhiều tiền của để cưới chàng trai nên khi chàng trai ngoại tình hay bỏ vợ thì sẽ
bò phạt rất nặng, có thể bò đuổi vónh viễn ra khỏi cộng đồng. Mức độ phạt sẽ do già làng
và các vò thâm niên quyết đònh, có sự đồng ý của người dân trong buôn. Trong trường
hợp nếu người vợ không may chết trước thì người chồng phải lấy người chò hoặc em gái
của vợ mình vì cha mẹ nhà gái không muốn chia tài sản cho người ngoài. Nếu nhà gái
không có người thay thế thì người chồng phải về ở với chò, em gái của ông ta cho đến sau
lễ bỏ mã thì mới được quyền tái giá. Nếu người chồng chết trước thì người vợ sẽ mang
thi thể của anh ta về cho cha mẹ chồng chôn cất. Người vợ phải đợi cho qua lễ bỏ mã
mới được tái giá, tức là khoảng 3 năm sau khi chồng chết.

75
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
Nhìn chung thì các qui luật này được thực hiện tự giác thể hiện khía cạnh lành
mạnh văn minh của người Ê Đê.
c/ Phong tục tang lễ :
Theo quan điểm của các dân tộc thiểu số con người sau khi chết sẽ đi về một thế
giới khác. Từ sau cái chết đến lễ bỏ mã, linh hồn của người chết vẫn còn ở lại với hàng

xóm và gia đình.
Khi chôn cất gia đình có người chết phải thông báo cho cả buôn biết tin, đồng thời
lo chuẩn bò sẵn tang lễ và làm hòm để chôn cất người quá cố. Về cách thức mai táng của
người Ê Đê có khác so với mộ số dân tộc khác : có nơi người ta cho vào hòm gỗ chôn cất
cẩn thận, có nơi người ta để xác trên sàn cây cho rữa ra rồi lấy chum để bên dưới hứng
phần nước thòt đem chôn ngày nay một số phong tục này đã bò cấm, do đó người Ê Đê
đã chôn cất người chết trong hòm.
Khi có người chết một số thanh niên trong làng kéo nhau lên rừng chọn gỗ lớn về
làm áo quan tài, mọi người cùng đến chia buồn cùng tang chủ và giúp tiến hành tang lễ.
Xác người chết được tẩm liệm cẩn thận trong quan tài sau đó gia đình và cả buôn đem
hòm ra nghóa trang cúng tế rồi chôn xuống huyệt. Đặc biệt tại huyệt người ta làm hai
cái lỗ thuyên sâu xuống tới quan tài để khi người nhà mang đồ ăn thức uống ra cúng cho
người quá cố thì đổ đồ ăn thức uống xuống hai lỗ này. Kế tiếp cho dựng một nhà nhỏ
ngay bên nấm mộ gia đình ngày ngày đem thức ăn , đồ uống cho người chết trong vòng 3
năm. Sau 3 năm gia đình tổ chức lễ bỏ mã, tiễn biệt linh hồn người chết, lúc này người
chết mới thực sự rời bỏ trần thế để đi về một thế giới khác. Sau lễ bỏ mã thì không ai
đến thăm và cúng tế nữa.
Trong gia đình người Ê Đê, tang cha mẹ đều do con gái lớn đứng ra lo liệu và cô ta
được hưởng gia tài của người quá cố. Trong khi chôn cất người chết, gia đình luôn luôn
chia phần vật dụng trong nhà cho người chết và đem để lên mộ phần của họ. Do đó khi
du khách vào thăm viếng mộ sẽ thấy ngổn ngang các vật dụng trong mộ.
Nét nghệ thuật trong lễ bỏ mã:
Ở Tây Nguyên có nhiều lễ hội khác nhau nhưng lớn hơn cả là lễ bỏ mã, là lễ cắt đứt
hoàn toàn quan hệ giữa người sống với người chết sau một thời gian dài giữ mộ.
Người Tây Nguyên với quan niệm con người sau khi chết hồn sẽ đi về làng ma, trải
qua một vài kiếp sống khác thì hồn ma mới được trở lại làm người. Để hồn trở lại làng
ma thì người sống phải làm một lễ chia tay lần cuối nhằm báo cho hồn ma biết rằng mọi
sự vướng mắc nợ nần phân chia tài sản đã xong và người sống đã hoàn thành xong phận
sự của mình.
Đấy là cuộc lễ hội cuối cùng sau những hàng loạt các lễ nghi khác. Do đó lễ bỏ mã

thường có qui mô lớn. Nó huy động một số lượng lớn nhân lực và vật lực cùng tham gia.
Do tính chất của buổi lễ quan trọng như vậy nên hầu như trong lễ hội này đồng bào
mang tất cả những sản phẩm văn hóa nghệ thuật đặc sắc, cao giá nhất để phô diễn. Đặc
biệt là một vài cấm kò trong nghệ thuật cũng được đem ra trình diễn.
Tại nhà mồ gia chủ quét dọn sạch sẽ, sửa sang lại nhà mồ, người ta dựng các cây cộ
thờ (kút dao), cột tượng (T’me H’đăng) vẽ lên đấy những hoa văn truyền thống với đủ
các màu sắc có sẵn của rừng Tây Nguyên. Duy nhất nghệ thuật điêu khắc được thể hiện

76
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
hết sức phong phú và đa dạng trong lễ hội này. Bằng những dụng cụ sinh hoạt hằng
ngày dao, rìu các nghệ nhân đã tạc lên đầu mỗi cột lỗ có đường kính 20 – 30 cm những
tượng người đứng ngồi giã gạo, cõng con, những anh lính qua các thời kì xã hội, những xe
tăng, máy bay, cầm thú đặc biệt loại hình nghệ thuật này chỉ xuất thiện trong lễ hội
nhà mồ mà không thấy bất kì ở đâu khác.
Nói đến lễ bỏ mã là phải nói đến dân vũ vì đây là hình thức nghệ thuật được nhiều
người tham gia nhất không phân biệt già trẻ gái trai quen lạ tất cả đều có thể nhảy múa
chung vui. Và họ gọi việc nhảy múa ở nhà mồ là nhảy xoang. Múa xoang phải có đông
người cùng tham gia, họ nắm tay nhau tạo thành một vòng tròn bao quanh khu mộ và
bước nhòp nhàng theo tiếng chiêng. Ngoài ra múa xoang còn là dòp nhiều đôi trai gái tìm
hiểu yêu đương. Vì vậy trong những dòp lễ hội thanh niên thường chọn mặc những bộ đồ
đẹp nhất, rực rỡ nhất để trình diễn, các cụ già có dòp để tỉ tê tâm sự với nhau và với hồn
người chết thông qua một hình thức gọi là chok.
Chok là hình thức khóc kể lể nhớ thương tâm sự cùng người chết khác với khóc
bình thường khi bò đánh đau, khi tức giận, khi tuổi thân mà khóc người ta gọi đó là hea.
Chok là cách thức vừa khóc vừa nói nhưng có vần điệu có lên bổng xuống trầm người
khóc nhớ đến đâu nói đến đấy. Cái khó của chok là làm sao khóc có vần giọng lúc cao
lúc thấp. Người khóc có thể khóc cả ngày.
Một loại hình không thể thiếu trong lễ bỏ mã đó là kể khan. Khi đêm đã về khuya
người múa đã mỏi, nhạc chiêng đã ngừng người ta kiếm một khoảng đất ngủ ở bên mộ

cũng là lúc những người già cất cao giọng ngâm nga về mộ câu chuyện sử thi, anh hùng
ca và lời kể như hóa thân vào cùng nhân vật câu chuyện như ru con người về một thời
xa xâm kể khan cũng gần giống như khóc chok người kể có lúc ngâm nga như hát
nhưng ở chok là sự tỉ tê tâm sự, còn ở khan thì người kể phải lên giọng theo từng nhân
vật ở mỗi đoạn đối thoại và ngân nga ở những đoạn mô tả cứ thế câu chuyện sẽ kéo dài
đến suốt đêm. Với những câu chuyện dài người ta phải kể hàng mấy đêm mới hết.
Suốt trong mấy ngày người ta nhảy múa quanh nhà mồ, quanh những chóe rượu và
những chảo thức ăn to. Họ vừa vui chơi vừa ăn uống và thay nhau nhảy múa. Hội không
chỉ thu hút tất cả già trẻ trai gái trong buôn làng mà còn thu hút cả những buôn xung
quanh. Tất cả một vùng vang lên tiếng trống chiêng trầm bổng, tiếng reo hò tạo nên
một vùng đất Tây Nguyên tràn đầy sức sống và tình yêu.
d/ Âm nhạc của người Ê Đê :
Đa số người dân tộc rất yêu ca hát, họ có thể ca hát lúc nào cũng được hễ khi nghe
thấy có tiếng nhạc và họ hiểu hết các nhạc cụ truyền thống một cách tường tận. Các
loại nhạc cụ thường có : cồng chiêng các loại trống, khèn, đàn, bộ gõ bằng tre, gỗ khá
đa dạng và có nhiều âm tiết.
Trống của người Ê Đê được làm bằng gỗ tốt, đầu bòt da trâu được gọi là trống đực.
Khi đánh lớn có âm thanh trầm buồn nên chỉ đánh để báo tin buồn như có ngưòi bệnh
nặng, có người chết nếu đầu trống bòt da trâu cái gọi là trống cái. Khi đánh có âm
thanh trong dùng để báo tin vui như: lễ hội, đám cưới
Sáo, khèn, đàn của người Ê Đê được dùng để bày tỏ tâm sự, tình cảm vui buồn,
ước mơ trong cuộc sống đời thường. Có nhiều loại sáo khác nhau nên âm tiết của nó

77
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
cũng khác nhau tạo nên những âm thanh rất đặc biệt làm say lòng người. Và có các loại
sáo như:
Sáo ding tacta: gọi theo tiếng chim chèo bẻo, một đầu để thổi một đầu để gắn trai
bầu. Sáo này được thổi trong những dòp lễ hội, những đêm trăng sáng, lúc tờ mờ sáng
bắt đầu một ngày lao động các cụ thổi sáo này để răn dạy con cháu, để điều khiển, để

tâm sự
Sáo ding vuốt: là một ống tre dài một người thổi một người hát phụ họa. Nội dung
bản nhạc và bài hát nói lên sự hoài cổ của các cụ dù cuộc sống thay đổi nhiều sung túc
hơn. Nhưng cá cụ vẫn nhớ về ngày xưa sống nương nhờ vào rau rừng, nước suối, săn bắt,
hái lượm, cuộc sống thanh bình gần gũi với thiên nhiên cộng đồng giúp đỡ lẫn nhau.
Sáo ding năm: là một loại nhạc cụ rất độc đáo, khó chơi gồm năm ống tre ghép lại
với nhau. Âm thanh của loại sáo này rất vui nhộn nó được thể hiện trong các lễ hội, lúc
thu hoạch vụ mùa. Trai gái thổi sáo này để trao duyên, trẻ em thổi sáo này để ghẹo
nhau, để tiêu khiển.
Sáo ding túc: gồm năm ống sáo riêng biệt một đầu sáo bòt kín có năm người thổi
âm thanh vui nhộn.
Trong những nhạc cụ đó đặc sắc với nền văn hóa cồng chiêng. Chiêng được đúc
bằng đồng ở giữa có núm lồi lên thường được đánh để giữ nhòp, cồng cũng được đúc
bằng đồng nhưng không có núm thường để đánh sau chiêng để hòa âm và khi chơi loại
nhạc cụ này người Ê Đê ngồi trên ngế Kpan dài rồi dùng dùi cui đánh vào cồng, chiêng
do đó âm thanh nó phát ra rất hùng hồn và mạnh mẽ. Loại nhạc cụ này thường được thể
hiện vào các dòp lễ hội như: lễ cưới, lễ mừng năm mới, lễ cầu mưa, lễ cúng trăng, lễ
cúng được mùa, lễ chào đón q khách những bài hát từ nhạc cụ cồng chiêng của người
Ê Đê thể hiện rõ bản chất của người cao nguyên: phóng khoáng, mộc mạc và cũng
hoang dã dữ dội như rừng sâu thác nước.
e/ Nhà sàn dài của người Ê Đê:
Phân biệt người Ê Đê và một số dân tộc thiểu số khác thì ngoài trang phục và
tiếng nói, chữ viết khác nhau thì đặc biệt nổi bật nhất của người Ê Đê là kiến trúc của
căn nhà sàn dài. Tuy hiện nay chất liệu xây dựng có thay đổi khác trước nhưng người Ê
Đê vẫn bảo lưu được truyền thống trong việc tạo dựng các ngôi nhà sàn dài của họ.
Người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ do đó khi người con gái có chồng sẽ không ra ở
riêng nhưng được cha mẹ chia cho một phần trong ngôi nhà để sinh hoạt ăn ở. Thông
thường thì gia chủ sẽ làm thêm một gian nữa nối tiếp vào phần nhà chính dành cho cô
con gái vừa lấy chồng. Nhà nào có nhiều con gái thì ngôi nhà sẽ càng dài hơn. Trước kia
nhà Ê Đê rất dài có khi đến 100m nhiều thế hệ của một gia đình sống chung một nhà.

Nếu muốn biết căn nhà có bao gian thì đếm số các bếp lửa hoặc số các cửa sổ trong ngôi
nhà. Tranh là nguyên liệu thích lợp mái hiện nay đã được thay thế bằng tôn hoặc ngói
còn cấu trúc ngôi nhà vẫn được giữ nguyên với dàn và cột bằng gỗ tốt để nguyên cây.
Phía đầu ngôi nhà có đặt 2 cầu thang được đẽo gọt bằng gỗ. Một cầu thang dành
cho phụ nữ dài hơn và bề ngang lớn hơn. Bên đầu trên cầu thang có tạc một bộ ngực của
người phụ nữ và một vầng trăng khuyết hoặc ngôi sao. Bộ ngực tượng trưng cho đầu vú
của người mẹ vì họ theo chế độ mẫu hệ nhưng theo luật thì có những gia đình nào có khả

78
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
năng nuôi cả buôn trong vòng 20 ngày trong đầu năm mới thì mới được phép tạc bộ
ngực phụ nữ trên đầu cầu thang. Còn vầng trăng non tượng trưng cho ước mơ ngày mai
tốt đẹp hơn, ngôi sao thể hiện hy vọng và niềm tin vào tương lai. Cầu thang người đàn
ông gọi là cầu thang đực nhỏ hơn và thô hơn cầu thang cái và không trang trí hoa văn.
Ngày thường thì cả gia đình chỉ sử dụng cầu thang đực để lên xuống. Khi nhà có khách
thì người khách khi lên xuống thì phải đặt hai tay lên đầu vú để tỏ ý tôn trọng chủ nhà.
Khi bước lên nhà sàn thì gian đầu tiên là gian tiếp khách. Chính giữa gian này có
một cái bếp lửa gọi là bếp đực chỉ dùng đốt lửa để sưởi ấm hoặc nướng thòt đãi khách.
Bên cạnh là cây nên để cột các ché rượu. Nhà giàu thường có những ché rượu q từ lâu
đời được trang trí hoa văn và có màu rất đặt biệt. Sát vách có một băng gỗ dài gọi là
ghế kpan dành riêng cho các nhạc công ngồi chơi nhạc khi nhà có giỗ, lễ hội
Gian kế là gian ở của ông bà cha mẹ, kế đến là gian của những người con chưa lập
gia đình. Phần sau là gian của những cô gái đã có chồng cuối căn là nhà bếp chính. Cả
gia đình nấu ăn ở bếp chính gọi là bếp cái. Trên sàn nhà người ta lấy 4 khúc gỗ tạo
thành một ô vuông lót lá chuối bên dưới hay tôn rồi đổ một lớp đất dầy bên trên tạo
thành cái bếp cái. Vào một ngôi nhà sàn ta thấy trần và vách đều nám khói đen bóng vì
thế các vật dụng làm bằng gỗ và các kèo nhà ít khi mục nát vì hun khói như là một cách
chống mối. Thường người Ê Đê làm nhà theo hướng Bắc – Nam sân dưới nhà làm nơi
chứa củi, để dụng cụ lao động, chỗ ở của trâu gà hoặc được quét dọn làm nơi dệt vải.
f/ Rượu cần :

cũng như các dân tộc khác rượu cần là loại thức uống không thể thiếu trong nhà
của người Ê Đê. Rượu cần thể hiện nét đẹp văn hóa của người dân tộc, một bộ phận cấu
thành phong tục – tập quán và những gì tinh túy nhất, thiêng liêng nhất đối với họ.
Thông thường người ta làm rượu cần từ gạo, khoai, bắp nguyên liệu được nấu chính cho
vào cái nia để nguội. Sau đó trộn với men rượu rồi tất cả cho vào cái ché rồi ủ lên men
sau một thời gian. Ché dùng ủ rượu phải rửa sạch và khô ráo, lớp đáp được rải một lớp
trấu cho hỗn hợp vào ché rồi cho một số lá chuối đè lên và cuối cùng phủ lên một lớp lá
chuối sạch nữa. Miệng ché được nút kín lại sau đó ủ lên men trong khoảng hơn 10 ngày
là có thể dùng được. Người ta đem phơi nắng các ché rượu để rút ngắn thời gian lên
men.
Cần để uống rượu là những ống mây dài rỗng ruột, rửa sạch và cắm vào ché rượu.
Khi uống thì người có đòa vò cao nhất hay người cao niên sẽ được mời uống trước. Trong
lúc uống nếu rượu cần vơi dần thì đổ nước lạnh vào thêm, cho đến khi nước nhạt rồi đổi
ché khác.
Người dân tộc nói chung là rất hiếu khách, họ tiếp đãi khách rất ân cần và chu
đáo. Nếu khách thân quen với gia đình thì họ có thể mỏ tiệc lớn, tổ chức đánh cồng
chiêng để chào mừng.
2. DÂN TỘC GIA RAI:
Dân tộc Gia Rai sống rải rác ở phía Nam tỉnh Kon Tum, phía Tây và Nam của
Pleiku (tập trung ở huyện Chưpăh, Đức Cơ, Chưsê, Ayunha, Krông pa thuộc tỉnh Gia
Rai) một bộ phận ít hơn sống ở phía Bắc tỉnh Đăk Lăk, phía Tây tỉnh Phú Yên. Ngoài ra

79
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
còn một số người Gia Rai sống ở Bo Kham (Lào), Natrakini (Campuchia). Dân tộc Gia
Rai bao gồm những nhánh nhỏ và cư trú ở nhiều vùng như :
Gia Rai Pleiku sống ở chung quanh thành phố Pleiku
Gia Rai Chao Reo sống ở Ayuba (Phú Bổn)
Gia Rai A Rap sống ở Đông Bắc Pleiku, Đông Nam Kon Tum
Gia Rai Tbuan ở Pleiku

Ngoài ra còn một số nhóm người Gia Rai khác:
Gia Rai Hro ở Tây Phú Yên, đây là nhóm Gia Rai hòa huyết giữa người Ê Đê và
Gia Rai nhưng có nhiều huyết thống Gia Rai hơn.
Gia Rai M’Dhu ở Nam Phú Yên, đây cũng là nhóm Gia Rai hòa huyết với người Ê
Đê nhưng người Ê Đê có phần trội hơn.
Người Gia Rai gọi đơi vò cư trú của mình là Play hoặc Buôn tức là làng. Ranh giới
tự nhiên giữa các Play là những ngọn núi hay quả đồi, khúc sông hay con suối do các
Play qui đònh với nhau và có sự tôn trọng giữa các Play.
Mỗi Play đều có những tên riêng mang những tên gọi nhất đònh có những Play đặt
tên của một dòng sông như : Play Phin (suối Iaphin), Buôn Broai (có mỏ nước
broai) cũng như một số dân tộc khác ở Tây Nguyên và việc đặt tên người là hình thức
phổ biến như : Play của Pa Tau La (vua nước), Pa Tau Pui (vua lửa), Play Bạc làng ông
Bạc. Lại có những trường hợp đặt tên làng theo cách nói “ông bà cha mẹ” như : buôn a
ma hơ bư (làng của cha nàng hơ bư), buôn a ma dương ( làng của cha chàng dương).
Có những Play mang tên một người và giữ mãi tên đó nhưng cũng có những Play
mang tên cha sau khi chết thì truyền sang tên con rễ do đặc điểm của mẫu hệ.
Nét văn hóa trong quá trình thành lập Play của người Gia Rai :
Khi thành lập một làng mới thì công việc đầu tiên của họ là tìm một vùng đất mới.
Người Gia Rai bói tìm vùng đất mới bằng cách đặt trứng gà trên ngọn lửa rồi đục một lỗ
phía trên nếu lòng trứng trào ra ngoài lỗ nhỏ là không được chấp thuận, ngược lại chỉ
sủi bọt trong lòng trứng tức là thần đất (Janlang) đã cho phép. Khi được thần đất cho
phép thì dân làng đánh chiêng, đánh trống, múa hát suốt 3 ngày đêm để làm đất thức
dậy. Họ dựng tạm những cái lều nơi vùng đất mới sau đó già làng mang 7 hạt gạo bỏ
xuống mặt đất rồi lấy cái bát bằng đồng úp lên để bói xin ý thần đất một lần nữa. Sau 3
ngày đêm tiếp theo nếu 7 hạt gạo còn nguyên tức là được thần chấp nhận, nếu mất đi
một hạt thì phải đi tìm vùng đất mới. Khi bói được đất dựng nhà thì già làng được xây
dựng trước sau đó là các gia đình trong làng.
Play của người Gia Rai thường tập trung đông theo từng dòng họ và xây dựng theo
các thung lũng, dọc theo đường giao thông hay ven các sườn đồi gần nguồn nước. Play
thường để cửa chính mở ra quay về hướng Bắc, hai cửa phụ để ra bến nước hay ra vườn

hoặc lên rẫy. Trước đây xung quanh làng thường có hàng rào bao bọc.
Ngày nay khi ta đến với làng Gia Rai ta thấy đã khác xưa một chút như nhà ở được
sắp xếp theo dãy, mỗi ngôi nhà cách nhau một cự li nhất đònh khoảng 10 – 15m hình
thức làm vườn xung quanh nhà để tạo ra một khuôn viên của từng gia đình.
Trong làng rất ít trồng cây cao chỉ có cây còn hay còn gọi là cây dung làm cây cột
trong lễ hiến Nhà của người Gia Rai là nơi cư ngụ của những tiểu gia đình mẫu hệ.

80
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
Gia đình – dòng họ – nét văn hóa đặc trưng của tiểu gia đình mẫu hệ của người Gia
Rai :
Gia đình :
Gia đình người Gia Rai là tiểu gia đình mẫu hệ, mỗi gia đình là một đơn vò kinh tế
cá thể, có tư liệu sản xuất riêng do người sở hữu đất đai được đảm bảo do có luật tục. Vì
vậy khi cần thiết có thể bỏ làng ra đi một cách dễ dàng. Họ không bò ràng buộc một
cách sâu sắc về quan hệ dòng họ, thân thuộc, xóm làng
Mỗi một nếp nhà của người Gia Rai chỉ có hai vợ chồng, con cái chưa lấy vợ lấy
chồng sau khi lập gia đình con trai về ở nhà vợ con gái chỉ rước rể về ở tạm thời sau đó
tách ra riêng. Lúc tuổi già thì cha mẹ chọn riêng cho mình một đôi vợ chồng về ở chung
thường là con gái út.
Khi con trai đi lấy vợ không được chia một phần tài sản nào còn các cô gái khi ra ở
riêng đều được chia tài sản.
Đôi vợ chồng được chọn nuôi cha mẹ thì thừa kế toàn bộ tài sản cha mẹ để lại.
Phụ nữ Gia Rai là người quản lý mọi tài sản và phân chia công việc trong gia đình.
Ngược lại người đàn ông là lực lượng sản xuất chủ yếu đóng vai trò quyết đònh mọi công
việc ngoài xã hội. Do đó tuy người Gia Rai cũng có đặc trưng mẫu hệ nhưng quyền làm
cha đã được xác nhập
Dòng họ :
Con cái người Gia Rai hoàn toàn tính theo dòng họ mê. Theo thống kê không đầy
đủ thì người Gia Rai thường có các họ sau : rehom, ksor, rơ ô, rah lan, ramah, nay, kpa,

hieu, pui.
Nhìn chung những tên họ đều trùng tên với những cây hay vật như :
Ksor : cây bỏ hóa
Rơ ô : cây tre
Ran lan : đường đi
Ksor : rẫy bỏ hoang
Theo sử tích sở dó có tên gọi đó là vì đều là con của Hbia Hlrang. Đây là cơ sở để
người Gia Rai cho rằng họ có chung một cội nguồn.
Mỗi người tự kiêng ăn những con vật khác nhau và mỗi họ đều có truyền thuyết kể
về sự kiêng kò đó, ví dụ :
Họ reehom kiêng ăn thòt bò
Họ nay trong kiêng ăn chim niăc
Họ siec kiêng ăn loài chim khưu bạc sâu đó chính là dấu ấn của tín ngưỡng totem
Trong các dòng họ của người Gia Rai họ Siu giữ đòa vò làm Ptao (Pơtao Ia, Pơtao
Pui) chỉ phụ nữ họ Rchom mới được lấy Pơtao làm chồng. Vì vậy Rchom cũng là dòng họ
được xã hôi tôn trọng.
Tập tục hôn lễ, ma chay của dân tộc Gia Rai :
Hôn lễ :
Người Gia Rai theo chế độ ngoại hôn nên hôn nhân với người cùng họ bò luật tục
nghiêm cấm. Trên cơ sở chế độ ngoại hôn đó những qui đònh có tính chất tập quán đặt
ra cho phép hoặc ngăn cấm việc kết hôn.

81
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
Tập quán hôn nhân hôn lễ của người Gia Rai cho phép con cái của con cô con cậu
được phép lấy nhau và cấm việc kết hôn giữa các chò em gái (vì cùng được sinh ra từ bà
Tô) và giữ a những người con của anh em trai.
Tập quán cho phép người vợ lấy anh em chồng nếu chồng chết và ngược lại. Người
chồng cũng được lấy chò em vợ nếu vợ chết.
Đến tuổi trưởng thành trai gái được lựa chọn người yêu. Con gái chủ động lựa chọn

cho mình người chồng tương lai bằng cách nhờ ông mối đưa tặng vòng cho người con trai
đó. Nếu ưng thuận thì người con trai nhận vòng. Nếu không thì người con gái vẫn theo
đuổi nhờ ông mối trao 3 lần nữa đến khi hết hy vọng mới thôi.
Để chuẩn bò cưới chồng cho con thì nhà gái phải chuẩn bò một ché rượu cần cho ông
mối, một ché rượu cho người chồng tương lai và một ché rượu cho mình. Còn bên nhà
trai thì chuẩn bò một con lợn.
Hôn lễ được tiến hành bên nhà gái và trải qua 3 bước sau :
Lễ thành vợ thành chồng :
Ché rượu được đặt ở giữa nhà, đôi lứa ngồi song song quay mặt về phía cửa ra vào
ông mối ngồi bên cạnh và nói “đây là lúc đôi bên nín thở để hắt hơi” ngụ ý nam nữ
chung đụng nhau lần đầu. Sau khi ông mối đổi vòng cho đôi lứa và giao ước “nếu cô gái
bỏ chồng phải bắt em gái thay thế, nếu con trai bỏ vợ thì phải đền 4 trâu” tiếp đến là
tục lệ đổi còng gò cho nhau.
Đoán phận trong giấc mơ :
Đêm đó hai bên mơ điềm dữ lành đều phải báo cho ông mối biết. Nếu mơ đi lấy
nước là lành, mơ bắt cá bỏ vào bầu là có con. Nếu mơ cầm dây hay cắt cỏ tranh, chặt tre
là điềm dữ, 2 vợ chồng phải ly thân, ly dò. Ông báo sẽ có lời thần báo mộng để hoãn điềm
gỡ trong vòng 1 năm. Nếu mơ gặp giấc mơ dữ họ phải chia tay nhau bất chấp có chuyện
gì xảy ra.
Trở lại nhà mẹ :
Và hôm sau khi cưới người chồng bỏ về nhà mẹ mình. Người vợ đặt một ché rượu,
mổ một con gà mang sang mời chồng trở lại nhà mình. Theo tục lệ người chồng sẽ khước
từ. Một tháng sau thì vợ lại sang nhà chồng biếu mẹ mình cái váy mà mình đã dệt, biếu
chồng một con gà. Cô gái ở lại nhà chồng 3 ngày làm phận sự con dâu. Sau đó 2 người
xin phép đưa nhau về ở hẳn bên nhà vợ và hôn lễ kết thúc.
Ở người Gia Lai luật tục hôn nhân gia đình không ghi thành văn bản, nó chỉ tồn tại
và qui đònh bằng miệng. Nhưng buộc mọi người phải biết tôn trọng và thực hiện. Các
trường hợp vi phạm bò phạt rất nặng, bò cộng đồng lên án, nhất là tội ngoại tình sẽ bò
phạt 1 con lợn để cúng danh dự cho dòng họ.
Người chồng bỏ vợ sẽ bồi thường 2 con bò, nếu có con chung thì một người con bồi

thường 2 con bò ( trợ cấp nuôi con), nếu không có tài sản thì phải thế chấp đất đai.
Người vợ ngoại tình thì cũng bò phạt rất nặng thậm chí còn nặng hơn.
Trường hợp vợ hoặc chồng bò bệnh hiểm nghèo, ly hôn thì không bò phạt.
Trường hợp vi phạm lời hứa hôn mà không có lý do thì bên vi phạm bò phạt 1 chiếc
ghè, 1 con lợn và chi phí ăn hỏi.

82
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
Hiện nay người Gia Rai vẫn còn tồn tại các thủ tục lạc hậu với luật hôn nhân gia
đình của nước ta. Do không qui đònh tuổi kết hôn nên thường kết hôn ở tuổi vò thành
niên. Có nơi chỉ nhìn vào ngoại hình, làm được việc, đảm nhận được vai trò của người
cha, người mẹ thì được kết hôn. Đa số các cuộc hôn nhân đều do cha mẹ sắp đặt. Bên
cạnh đó họ thường không đăng ký kết hôn trước chính quyền mà chỉ cần mai mối và có
già làng tổ chức làm lễ cưới thì đôi trai gái nên duyên vợ chồng.
Ma chay :
Trong xã hội người Gia Rai việc tang ma không phải là việc riêng trong gia đình,
mà là việc chung của cả cộng đồng. Khi có người chết người sống thương tiếc và phải cố
tạo hết điều kiện để cho linh hồn của người đó biến thành ma vónh viễn ở thế giới bên
kia. Người ta tổ chức tang lễ để linh hồn sau khi thành ma sẽ không trở lại quấy rầy.
Người Gia Rai xưa có tục chôn tất cả ngững người chết theo dòng họ mẹ chung 1 huyệt.
Người đàn ông chết phải khiêng về chôn ở làng mẹ. Hiện nay người chồng được cùng
chôn chung với họ nhà vợ. Khi huyệt chung đã nhiều đất đắp mồ đã cao thì tiến hành lễ
bỏ mã. Sau lễ này thì quan hệ của người sống và người chết không còn.
Trước khi hạ huyệt thì người thân bỏ một vài hạt gạo với ngụ ý để cho người chết
trước đó ăn sau đó sẽ hạ huyệt và lắm đất. Phần thức ăn của người chết bao gồm: cơm,
thòt, gà, lợn, thuốc lá được bỏ vào gùi đặt trên nhà mồ. Từ đó ngày nào người nhà cũng
mang cơm cho ma ăn vào lúc xế chiều và tiến hành một số nghi thức khác.
Sau một tháng sẽ làm lễ giỗ gọi là Hoomnơi (giỗ 1 tháng) sẽ mổ lợn, ché rượu và ăn
uống tại mồ. Sau đó đánh chiêng uống rượu nhảy múa suốt đêm. Sau lễ này sẽ hết lệ
đem cơm cúng cho ma vào buổi chiều hằng ngày.

3. DÂN TỘC M’NÔNG :
Dân tộc M’Nông có 67.300 người gồm nhiều nhóm đòa phương : Preh, Gar, Prâng,
Nong, Kuyên. Đồng bào cư trú ở phía Nam tỉnh Đăk Lăk một phần tỉnh Lâm Đồøng và
Bình Phước.
Tiếng nói của người M’Nông thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer
Người M’Nông làm ruộng là chính, ruộng nước chỉ có ở vùng ven hồ, đầm, sông.
Những con vật nuôi thông thường trong gia đình là trâu, chó, dê, lợn, gà và một số nhà
nuôi cả voi. Người M’Nông ở Bản Đôn có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi nổi tiếng.
Nghề thủ công của người M’Nông có dệt vải sợi bông do người phụ nữ đảm nhiệm và
đan lát các dụng cụ như : gùi, giõ, mũng do đàn ông làm.
Người M’Nông có cả nhà sàn và nhà trệt. Ngôi nhà trệt của người M’Nông khá đặt
biệt bởi chân mái thường gần đất nên cửa ra vào có cấu trúcvòm như tổ tò vò.
Mỗi làng thường có vài chục nóc nhà, ông trưởng làng đóng vai trò quan trọng
trong dân làng. Mỗi người sống trong kinh nghiệm và tập tục truyền lại từ nhiều đời.
Nam nữ, già trẻ ai cũng thích rượu cần và thuốc lá cuốn.
Đàn ông M’Nông thường đóng khố ở trần. Đàn bà mặc váy quấn buông dài trên
mắt cá chân. Thanh niên nam nữ thường mặc áo chui đầu, khố, váy, áo màu chàm thẫm
trang trí hoa văn đẹp mắt.

83
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
Người M’Nông cũng như người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ,
trong gia đình người vợ giữ vò trí chính nhưng người chồng không bò phân biệt đối xử, họ
sống tôn trọng nhau. Cha mẹ về già thường sống với con gái út.
Theo nếp cũ đến tuổi trưởng thành người M’Nông phải cà răng mới được yêu
thương lấy vợ, lấy chồng. Phong tục cưới xin gồm 3 bước chính là dạm hỏi, lễ đính hôn, lễ
cưới chàng rể thường về nhà vợ ở. Nhưng cũng có nơi đôi vợ chồng trẻ ở phía nào là tùy
thỏa thuận giữa 2 gia đình. Người M’Nông thích nhất là con gái sinh con sau 1 năm mới
đặt tên chính thức.
Trong tang lễ đồng bào có tập quán ca hát, gõ chiêng trống bên quan tài suốt ngày

đêm. Sau khi hạ huyệt đồng bào dùng gậy, que và cây trải kín miệng hố rồi lắp đất lên
trên. Qua 7 ngày hoặc 1 tháng thì gia chủ làm lễ đoạn tang.
Người M’Nông có rất nhiều thần linh liên quan đến cuộc sống của mình trong đó
thần lúa giữ vai trò đặc biệt hàng năm cùng với việc canh tác người M’Nông thực hiện
những nghi thức nhằm giữ gìn thần lúa cầu mong mùa màng bội thu.
Lễ hội đâm trâu của người M’Nông :
Vào mùa xuân khi ta lên Tây Nguyên du khách có thể bò thu hút bởi cảnh quan
thiên nhiên của núi rừng hùng vó. Nhưng độc đáo nhất là lễ hội đâm trâu, một trong
những lễ hội hay trong hàng chục lễ hội khác của người M’Nông trên cao nguyên đất đỏ.
Lễ hội đâm trâu thực ra là cách gọi dễ hiểu chính xác hơn là một hình thức sinh
hoạt văn hóa của một số lễ hội như lễ cúng thần kèn G’let, lễ cầu sức khỏe, lễ báo 100
gùi lúa trong đó lễ cúng thần kèn bao giờ cũng phải tiến hành nghi thức đâm trâu. Các
lễ hội nói trên nghi thức đâm trâu theo quan niệm tâm linh của người M’Nông là để
hiến tế thần linh, bày tỏ lòng biết ơn và cầu mong thần linh ban cho sự ấm no, hạnh
phúc.
Tục đâm trâu có từ xa xưa, tục này là sự biểu hiện cụ thể, trực tiếp và sinh động về
dấu ấn văn hóa và phong tục từ thû xa xưa của người M’Nông. Ngày nay người ta vẫn
còn giữ lại phong tục này của tộc người M’Nông, người Nông, người Prông ở Đak Nông,
người Pleh ở Đak R’lấp. Khi bông mai vàng trên núi nở rộ thì lễ hội đâm trâu đây đó
trong các buôn làng M’Nông cũng tưng bừng náo nhiệt.
Lễ hội đâm trâu là lễ hội qui mô mang tính chất cộng đồng nên để tiến hành lễ hội
người ta phải chuẩn bò trước đó vài ngày. Trong đó việc chính phải tập trung là vào rừng
tìm cây gai gòn chặt đem về để làm cây nêu. Cây nêu là biển hiện chính của ngày hội,
cây nêu cao vút từ 8-9m, với nhiều nét trang trí hoa văn truyền thống của người
M’Nông. Cây nêu là một công trình sáng tạo tập thể, biểu hiện nét nghệ thuật tạo hình
điêu khắc của người M’Nông.
Ngày thứ nhất dựng xong cây nêu, sang ngày thứ 2 những thanh niên khỏe mạnh
của buôn làng mang những cuộn dây thừng bện bằng vỏ cây rừng lên nương rẫy tìm bắt
trâu. Sau khi bắt được trâu thì đem trâu cột vào cây cột đã được chọn sẵn đặt ngay
trung tâm lễ hội. Chủ nhà và một số thành viên quyến thuộc trong y phục cổ truyền, tay

cầm chuông đi đón khách, vừa đi họ vừa đánh chuông âm thanh vang vọng náo nức cả
núi rừng.

84
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
Chiều tà khi màn đêm buông xuống lũ làng gồm già trẻ, trai gái kéo nhau đến tập
trung bên cây nêu để vui chơi và xem bà chủ nhà làm lễ cúng cột trâu. Khi phần lễ trònh
trọng bắt đầu, tiếng nhạc cồng chiêng nổi lên trầm đục, hòa âm trong tiếng nhạc kèn
G’let réo rắt. Trong không khí thiêng liêng huyền bí bà chủ nhà đứng bên con trâu lầm
rầm khấn và hát bài khóc trâu trong giai điệu thống thiết an ủi con trâu trước lúc hiến
sinh. Phần nghi thức xong, dân làng vui vẻ hòa vào trong bài hát, điệu nhảy múa cổ
truyền cùng với tiếng nhạc của khèn, chiêng cuồng nhiệt và các ché rượu cần được mở
ra để uống.
Tảng sáng thứ 3 phần nghi thức khác lại tiếp tục. Chủ nhà làm lễ giao trâu cho
khách mời đặc biệt sau đó tiến hành nghi thức đâm trâu. Một người đàn ông khỏe mạnh
cởi trần mặc khố được trao một chiếc lao, đầu bòt sắt nhọn sau một vài động tác ma
thuật lạ lùng bất thần dồn hết sức mạnh đâm lao vào tim con trâu, tiếp theo anh ta lấy
gươm chặt vào 2 khủy chân con trâu. Khi con trâu chết người ta lấy một chiêng úp lên
đầu trâu. Sau đó lấy máu trâu bôi lên cây nêu, cột đâm trâu và kèn G’let. Lễ cúng tiếp
theo được cúng trên kho lúa. Người ta lấy sợi chỉ buộc từ kho lúa đến chỗ đặt đầu trâu,
một biểu tượng cho lối đi của hồn lúa. Người chủ nhà lấy huyết trâu hòa vào trong ché
rượu rồi đổ vào ngững chậu nước và sau đó tưới lên kho lúa để mong tắm mát cho hồn
lúa, vừa tưới nước mọi người vừa rửa tay làm như vậy họ tin rằng hồn lúa sẽ được mát
mẻ, mọi điều xấu tai ương sẽ qua đi, gia đình ngày càng thêm no đủ, hạnh phúc. Xong
điều đó người khác mổ trâu và sẻ thòt chia cho các gia đình trong buôn làng thể hiện sự
yêu thương, bình đẳng với nhau giữa các thành viên chung sống trong cộng đồng buôn
làng.
Nghi lễ với lễ hội đâm trâu với qui mô lớn đã khẳng đònh vai trò uy tín của gia chủ
trong buôn làng. Lễ đâm trâu đã trở thành ngày hội sinh hoạt văn hóa tinh thần của dân
M’Nông. Mọi người đến để chiêm ngưỡng những nghi lễ, uống rượu cần, cùng vui chơi

một cách hồn nhiên cùng nhau say sưa trong hơi ấm cộng đồng, của mùa xuân, của mai
vàng trên vách núi, của xứ sở hoang sơ, hùng vó đầy màu sắc huyền thoại.
Lễ cúng Voi :
Con Voi là vật nuôi cũng là tài sản q của người M’Nông. Khi đi săn, mua được voi
hoặc voi bò ốm đều phải cúng. Lễ cúng voi được tiến hành trong ngày mua voi.
Khi voi được đưa về nhà, chủ nhà phải cúng một con heo và một ché rượu. Lễ vật
bao gồm: một chén cơm, một chén gạo có cắm đèn sáp, một lá trầu có vôi, một quả
trứng, một chén thòt băm cùng gan, lòng, lá lách.
Người nài chăn voi đánh voi đến trước cửa nhà, chủ nhà đặt lễ vật vào cái nia đưa
lên đầu voi để cúng, sau đó ông ta đứng trước con voi, tay cầm chén rượu có cắm đèn
sáp, một quả trứng, một ly rượu hòa vào với huyết heo và đọc lời khấn. Sau đó người nài
đánh voi, cột vào cây trong rừng, chủ nhà đợi nài về để cúng tại ché rượu. Người nài
được mời ngồi, lấy cây dùi điều khiển voi cắm bên cạnh ché rượu.
Lễ vật cúng tại ché rượu gồm: một chén thòt băm, một chén lòng heo, một chén
cơm. Ông chủ lấy mỗi thứ một tí và rót vào rượu giao cho người nài. Người nài phải nhận
lễ vật bằng hai tay, trước khi ăn phải đọc lời cúng voi, lúc này người nài được xem như là

85
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
người thay thế con voi để nghe lời căn dặn, khuyên nhủ của người nhà. Sau đó người nhà
lấy cơm còn rượu dành lại cho chủ nhà. Người trong buôn đến tham gia vui chơi cùng gia
đình, đánh chiêng lên để mừng vui.
Lễ cúng cắt ngà Voi:
Người M’Nông thích nuôi voi đực hơn voi cái. Nuôi voi đực cắt được ngà, vài ba
năm cắt được cặp ngà, một cặp ngà đổi được một con voi con. Một đời voi đực cắt được
hàng chục lần ngà ngoài ra nó còn tham gia đi săn bắt voi rừng và vận chuyển thay sức
người.
Khi cắt ngà voi phải cúng xin phép thần Nguach Ngual, đây là vò thần linh thiêng
cai quản loài voi theo tín ngưỡng của người M’Nông. Buổi chiều hôm trước ngày cắt ngà
voi, chủ lấy một bát gạo, đốt một cây đèn sáp ong khấn nơi đầu con voi để xin cắt ngà,

người cúng vừa đọc lời cúng vừa bốc nắm gạo rẩy lên trên ngọn đèn sáp. Nếu hạt gạo
dính dựng đứng trên đèn sáp đến 3 lần tức là voi đồng ý cho ngà, còn không dính hạt
nào hoặc có dính nhưng hạt gạo nằm ngang, nằm nghiêng thì không được. Khi được rồi,
chủ voi lấy sợi chỉ buộc vào ngà voi để tối hôm đó con voi “tự điều chỉnh” đònh mức cắt
dài ngắn đến đâu thì mới cắt đến đó. Người cắt ngà voi cũng phải có nghề, nếu cứ cắt ẩu
tả sẽ làm long ngà bò hư và không mọc ra nữa. Cắt ngà xong phải “cúng” tạ thần voi
một con lợn, một ché rượu, trầu cau, thuốc, cơm nếp, chuối, mía, lễ cúng này cũng như
lễ cúng mừng voi mới mua. Nếu nhà cắt ngà nhiều con một lúc thì phải cúng tạ một con
trâu.

PHẦN I:
TỔNG THỂ TỈNH DAKLAK
A. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN:
1- Vị trí địa lý:
Tỉnh Daklak nằm về hướng Tây Nam dãy Trường Sơn, có toạ độ địa lý từ 11
0
30 đến 13
0
25
vĩ độ Bắc và 107
0
30 đến 109
0
30 kinh độ Đơng.
Phía Bắc Giáp tỉnh Gia Lai. Phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Bình Phước Phía Đơng
giáp tỉnh Khánh Hồ và tỉnh Phú n. Phía Tây giáp Cộng hồ nhân dân Campuchia có
đường biên giới chung dài 193 km.

86
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT

2- Địa hình:
Địa hình DakLak tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình từ 500 - 800 mét so với mặt
biển thấp dần từ Đơng Nam sang Tây Bắc.
Địa hình của tỉnh chia thành bốn kiểu chính:
• Kiểu địa hình núi.
• Kiểu địa hình cao ngun.
• Kiểu địa hình bình ngun Ea Súp.
• Kiểu địa hình vùng thấp trũng Lăk.
B. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN:
1- Vị trí địa lý:
Tỉnh DakLak nằm giữa cao ngun Nam Trung Bộ, có các trục đường giao thơng quan
trọng nối liền với nhiều tỉnh, thành phố như: Quốc lộ 14 nối Tp Đà Nẵng - Gia Lai, Ban Mê
Thuột, đến Bình Phước-Bình Dương và TP Hồ Chí Minh; Quốc lộ 26 nối Bn Ma Thuột -
Tp Nha Trang; quốc lộ 27 nối Bn Ma Thuột - Đà Lạt; Quốc lộ 28 từ Gia Nghĩa nối với
thị xã Phan Thiết và một số tuyến đường khác nối liền với vùng Đơng Bắc Campuchia
Bên cạnh đó, Daklak còn có cảng hàng khơng nối với Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố
Đà Nẵng và thủ đô Hà Nội.
Cùng với các điều kiện thuận lợi về đất, rừng, tài ngun khống sản, đây chính là một lợi
thế quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội, khoa học - cơng nghệ, mơi trường, an ninh
quốc phòng và giao lưu hàng hóa, giữa Daklak với các thị trường trong nước và quốc tế,
cho phép tỉnh xây dựng và phát triển một nền kinh tế mở.
2- Tài ngun đất:
Một trong những tài ngun lớn được thiên nhiên ưu đãi cho Daklak, đó là tài ngun đất.
Tồn tỉnh có diện tích tự nhiên là 1.959.950 ha, trong đó chủ yếu là nhóm đất xám, đất đỏ
bazan và một số nhóm khác như: đất phù sa, đất gley, đất đen. .
- Nhóm đất phù sa (Fuvisols):
Có diện tích 17.383 ha, được hình thành và phân bố tập trung ven các sơng suối trong tỉnh.
Tính chất của loại đất này phụ thuộc vào sản phẩm phong hố của mẫu chất
- Nhóm đất Gley (Gleysols):
Có diện tích 34.653 ha. Phân bố tập trung ở các khu vực thấp trũng thuộc các huyện Lăk,

Krơng Ana và Krơng Bơng.
- Nhóm đất xám (Acrisols):
Là nhóm lớn nhất trong số các nhóm đất có mặt tại Daklak, với diện tích 763.458 ha, phân
bố ở hầu hết các huyện, chiếm 39, 01% diện tích tự nhiên tồn tỉnh.

87
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
- Nhóm đất đỏ (Ferrasol, trong đó chủ yếu là đất đỏ bazan).
Là nhóm đất chiếm diện tích lớn thứ hai (sau đất xám) với 704.494ha, tương đương
36,02% diện tích tự nhiên tồn tỉnh và chiếm tới 55,6% diện tích đất đỏ bazan tồn Tây
Ngun. Trong 704.494ha đất đỏ, có tới 542.815ha có độ dốc dưới 150 (tương đương 75%
diện tích nhóm) và 595.824ha có tầng đất dày trên 120 cm (tương đương 82, 4% diện tích
của nhóm). Khơng những thế, đất đỏ bazan còn có tính chất cơ lý tốt, kết cấu viên cục độ
xốp bình qn 62 - 65%, khả năng giữ nước và hấp thu dinh dưỡng cao rất thích hợp với
các loại cây cơng nghiệp có giá trị kinh tế như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu và nhiều loại
cây ăn quả, cây cơng nghiệp ngắn ngày khác. Đây là một lợi thế rất quan trọng về điều kiện
phát triển nơng nghiệp của tỉnh Daklak.
3- Tài ngun nước
- Nguồn nước mặt
Với những đặc điểm về khí hậu-thủy văn và với 3 hệ thống sơng ngòi phân bố tương đối
đều trên lãnh thổ (hệ thống sơng Srepok; hệ thống sơng Ba, hệ thống sơng Đồng Nai) cùng
với hàng trăm hồ chứa và 833 con suối có độ dài trên 10 km, đã tạo cho Daklak một mạng
lưới sơng hồ khá dày đặc. Vì vậy, nhiều vùng trong tỉnh có khả năng khai thác nguồn nước
mặt thuận lợi để phục vụ sản xuất và đời sống, nhất là các địa bàn phân bố dọc theo hai
bên sơng Krơng Ana thuộc các huyện:Krơng Ana, Krơng Pắc, Lăk và Krơng Knơ
Nguồn nước ngầm:
Tập trung chủ yếu trong các thành tạo BaZan & Trầm tích Neogen đệ tứ, tồn tại chủ yếu
dưới 2 dạng: Nước lỗ hổng và nước khe nứt. Tổng trữ lượng ước tính:
• Trữ lượng tĩnh: 1.209.109 m3
• Trữ lượng động tự nhiên: 6.578.500 m3/ngày

• Trữ lượng khai thác tiềm năng: 9.615 m3/ngày
Chất lượng nước thuộc loại nước siêu nhạt, độ khống hố M= 0,1 - 0,5, pH = 7-9. Loại
hình hố học thường là Bicacbonat Clorua - Magie, Can xi hay Natri.
C. HÀNH CHÍNH-CÁC DÂN TỘC DÂN CƯ
1- Hành chính:
Tỉnh Daklak bao gồm 18 huyện và thành phố Bn Ma Thuột; 207 đơn vị hành chính cấp
xã (13 phường, 18 thị trấn, 176 xã) và 2.308 thơn bn, khối phố.
2- Dân tộc - Dân cư:
- Dân số Daklak 1.948.012 người (Theo thống kê năm 2001), bao gồm 44 dân tộc anh em
cùng định cư, sinh sống. Trong đó:
+ Thành phần các dân tộc tại chỗ ở Daklak chủ yếu là người Êđê, M’nơng và một số dân
tộc ít người khác như Ba na, Gia rai, Sê đăng nhưng số lượng khơng lớn. Tổng số dân các

88
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
dân tộc tại chỗ hiện nay là 355.266 người; trong đó dân tộc Êđê chiếm đến 70.1%, dân tộc
Mnơng chiếm 17%, các dân tộc khác như Ba na, Gia rai, Sê đăng chiếm 18,5%.
+ Trong những năm chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là từ sau ngày miền Nam hồn tồn giải
phóng (1975) đến nay, một bộ phận đồng bào các dân tộc ít người từ miền Trung và Bắc di
cư đến đây sinh cơ lập nghiệp, làm cho cơ cấu thành phần dân tộc trong tỉnh thay đổi
nhanh chóng. Trong số 44 dân tộc anh em có mặt trên địa bàn Daklak, một số dân tộc có số
dân lớn là:
Dân tộc Kinh chiếm 70,65% dân số,
• Dân tộc Ê đê 13,69 %,
• Dân tộc Nùng 3,9%,
• Dân tộc Mnơng 3,51%,
• Dân tộc Tày 3,03%
• Dân tộc Thái 1,04%
• Dân tộc Dao 0,86%
Từng dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Daklak tuy có truyền thống và bản sắc riêng độc

đáo, nhưng đã cùng nhau đồn kết, xây dựng q hương và hình thành nên một nền văn
hố phong phú và giàu bản sắc.
D. KINH TẾ XÃ HỘI:
1. Nơng - Lâm nghiệp
Nơng - Lâm nghiệp: chiếm 62,9%.
 Tốc độ tăng trưởng bình qn hàng năm (giai đoạn 1995 - 2000): 15,20%,
 Giá trị sản xuất tăng bình qn hàng năm là 9,8 %.
 Tổng giá trị sản xuất nơng nghiệp đạt 7.012.499 triệu đồng.
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu vào lĩnh vực như khai thác chế biến lâm
sản, ni trồng rừng. Năm 1995 đạt 154.009 triệu đồng, năm 2000 đạt 836.559 triệu đồng.
Daklak là tỉnh có diện tích rừng chiếm 51,44 % diện tích tự nhiên trong tồn tỉnh, phân
chia sau:
+ Diện tích.
Tổng diện tích rừng tự nhiên: 1.008.080 ha
Trong đó:
• Rừng sản xuất: 664.239 ha 65,8%
• Rừng phòng hộ: 156733 ha 15,5%
• Rừng đặc dụng: 187.107 ha 18,5%

89
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
(Nếu tính cả độ che phủ của 300.000 ha cây cơng nghiệp lâu năm (cà phê, cao su ) độ che
phủ của tồn tỉnh đạt xấp xỉ 70%)
+ Rừng sản xuất.
• Rừng giàu: 36.260 ha - Rừng trồng: gần 20.000 ha
• Rừng trung bình: 185.548 ha - Rừng hỗn giao: 22.906 ha
• Rừng nghèo: 425.000 ha - Rừng tre nứa: 37.143 ha
• Rừng non: 110.029 ha - Rừng gỗ lá kim: 4.508 ha
2- Cơng nghiệp - Tiểu thủ cơng nghiệp và xây dựng
Giai đoạn 1995 - 2000, cơng nghiệp - tiểu thủ cơng nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 8,8%

nền kinh tế tỉnh.
Cơng nghiệp (đến năm 2000): số cơ sở sản xuất cơng nghiệp 5.342
3- Thương mại - Dịch vụ và du lịch
Thương mại
Xuất khẩu (1996 - 2000) đã thực hiện 1.300 triệu USD, tăng gấp 5 lần so với giai đoạn 1991-
1995. Tốc độ tăng trưởng bình qn đạt 13,3%/năm. Thị trường xuất khẩu mở rộng trên
50 nước và vùng lãnh thổ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là cà phê (970.000 tấn), cao su
(30.400 tấn), tiêu (3.200 tấn), hạt điều (920 tấn)
Nhập khẩu (1996 - 2000) đạt 81 triệu USD, tăng 32% so với giai đoạn 1991 - 1995. Các mặt
hàng nhập khẩu chủ yếu là phân bón, hạt nhựa
Mạng lưới thương mại quốc doanh đến nay đã phát triển hơn 380 điểm mua bán hàng hố,
gồm:
• 67 cửa hàng (trong đó 30 cửa hàng thương mại nơng thơn được xây dựng kiên cố ở
vùng III với tổng số vốn ngân sách đầu tư cho cơ sở vật chất là 2152 triệu đồng)
• 43 chi nhánh, trạm
• 116 đại lý, 152 điểm, tổ, xưởng thu mua.
Dịch vụ
Hiện nay hệ thống điện thoại đã phát triển đến 92% xã, phường trong tỉnh, với 34.630 th
bao điện thoại cố định và 4.082 th bao di động.
Doanh thu du lịch đạt trên dưới 30 tỷ đồng mỗi năm
E. CƠ SỞ HẠ TẦNG:
1- Giao thơng

90
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
Mạng lưới giao thơng của tỉnh bao gồm 2 loại chính là giao thơng hàng khơng và giao
thơng đường bộ.
a- Giao thơng đường bộ.
Hiện nay trong tỉnh có 8614km đường các loại, bao gồm 5 tuyến quốc lộ, 16 tuyến tỉnh lộ,
77 tuyến đường huyện, trên 4400km đường xã, thơn và gần 110 km đường đơ thị. Bình

qn mật độ đường ơ tơ trên diện tích tự nhiên đạt 0,435 km/km2; bình qn đường ơ tơ
đạt 0,506km/1000dân. Hệ thống đường bộ nói chung đáp ứng được nhu cầu vận chuyển
hàng hố và đi lại của nhân dân.
b- Giao thơng hàng khơng.
Sân bay Bn Ma Thuột với các tuyến:
• BnMaThuột - Đà Nẵng - Hà Nội,
• BnMaThuột - Tp Hồ Chí Minh.
c- Thuỷ lợi
Tồn tỉnh có 560 cơng trình thuỷ lợi vừa và nhỏ (trong đó có 440 hồ chứa, còn lại chủ yếu
là đập dâng và các trạm bơm), với khoảng 1100km kênh mương. Trong số các hồ chứa, có
16 hồ dung tích trên 3 triệu m
3
nước, 23 hồ có dung tích từ 1-3 triệu m
3
nước 401 hồ có
dung tích dưới 1 triệu m
3
nước.
d- Điện năng
DakLak có hệ thống lưới điện phát triển nhanh, đến năm 2000 có 19/19 huyện, thành phố
có lưới điện quốc gia. 147/207 số xã, phường, thị trấn sử dụng điện lưới quốc gia.
e- Bưu chính viễn thơng
Tồn tỉnh có 57 bưu cục, trong đó 54 bưu cục có tổng đài, 26 ki ốt, 13 đại lý thuộc các xã
(khơng kể ki ốt, đại lý ở địa phương và thị trấn).
Mạng lưới bưu chính viễn thơng phục phụ cho 13 phường, 18 thị trấn, 153/207 xã, 3 đồn
biên phòng và một cửa khẩu.
2- Y tế
Hiện nay các xã, phường, thị trấn đều đã có trạm y tế. Tồn tỉnh có 216 cơ sở y tế với 2707
giường, 2785 cán bộ, cơng nhân viên (hệ nhà nước). Trong đó:
- Tuyến tỉnh có 1 bệnh viện đa khoa 500 giường, 1 bệnh viện chun khoa 100 giường, 1

khu điều trị phong, 30 giường cùng 7 cơ sở y tế khác (da liễu, sốt rét, tâmthần ).
- Tuyến huyện có 18 bệnh viện đa khoa với 1165 giường bệnh, 4 phòng khám đa khoa

91
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
khu vực với 40 giường và 18 đội vệ sinh phòng dịch sốt rét, 18 UBDS KHHGĐ. Các đơn
vị cơ sở có 207 trạm y tế, phòng khám đa khoa trên tổng số 207 xã, phường, thị trấn.
3- Văn hố - thơng tin
• Số trung tâm văn hố tỉnh, thành phố: 2
• Số trung tâm văn hố huyện: 11
• Số đơn vị nghệ thuật: 2
• Số thư viện: 17
• Số xã được phủ sóng truyền thanh: 204/204 xã, phường.
• Số xã phường được phủ sóng truyền hình: 155/204 xã, phường. (năm 2000)
4- Giáo dục - đào tạo
Tồn tỉnh có 608 trường (trong đó 365 trường tiểu học, 53 trường tiểu học và trung học
cơ sở, 153 trường trung học cơ sở, 15 trường trung học cơ sở và phổ thơng trung học,
22 trường phổ thơng trung)
• Mẫu giáo 148 trường
• Đại học: 01 (trường ĐH Tây Ngun)
• Cao đẳng: 01 (Trường Cao đẳng sư phạm Daklak)
• Trung học chun nghiệp : 03
• Trường đào tạo cơng nhân kỹ thuật: 02
G. VĂN HOÁ ĐĂKLĂK:
Nói đến văn hóa truyền thống ở Daklak, trước hết phải nói đến nền văn hóa mang đậm nét
đặc trưng của cư dân bản địa, từ bao đời nay đã tạo dựng nên một nền văn hóa vơ cùng
phong phú và đa dạng, với những di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể độc đáo và
đồ sộ.
Nói đến các di sản văn hóa dân tộc, khơng qn các di sản văn hố vật thể nổi tiếng như
đàn đá, nhạc cụ, cồng chiêng, kiến trúc nhà dài, kiến trúc nhà mồ, cơng cụ lao động dệt

cẩm thổ. tạc tượng cùng các di sản văn hố phi vật thể như luật tục, các lễ hội, các tập tục
và các sinh họat văn hóa, sinh họat cộng đồng.
Đồ sộ và phong phú hơn cả là kho tàng văn học dân gian với những bản sử thi (Dân tộc
Eđê gọi là Khan, dân tộc Mnơng gọi là át Nrơng), thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích,
truyện ngụ ngơn, lời nói vần đậm đà bản sắc dân tộc lưu truyền qua bao thế hệ. Ngòai ra
dân tộc Ê Đê còn có cả chữ viết mà sau này được phiên âm sử dụng phổ biến từ thời Pháp,
Mỹ cho đến nay.
Điểm nổi bật của văn hố bản địa Daklak là: Văn hố lễ hội nhà dài, văn hố cồng chiêng,
văn hố mẫu hệ, văn hố ẩm thực, văn hố sử thi, văn hố luật tục, văn hố cộng đồng
độc đáo, phong phú giàu bản sắc dân tộc.
Trước đây cũng như hiện nay, quan hệ xã hội cơ bản của đồng bào các dân tộc vẫn còn
mang đậm tính huyết thống và tính cộng đồng bền chặt. Nói chung, đồng bào các dân tộc Ê
Đê cũng như M’nơng, Gia Rai đều có một đặc điểm lớn, đó là sự tồn tại bền vững của

92
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
những mối quan hệ xã hội cổ truyền tốt đẹp được hình thành qua các thời kỳ lịch sử lâu
dài.
Tinh thần cộng đồng, dân chủ, bình đẳng, tương thân tương ái Bên cạnh đó, tinh thần
thượng võ, nhân ái, u thiên nhiên, u chuộng hòa bình, cần cù sáng tạo cũng là những
đặc trưng nổi bật của đồng bào các dân tộc. Nổi bật hơn cả là ý chí đấu tranh bất khuất
chống chọi với thiên nhiên và truyền thống đấu tranh bảo vệ bn làng, bảo vệ q hương
đất nước. Truyền thống đó đã được phát huy cao độ trong những năm nhân dân Daklak
đứng lên theo Đảng làm cách mạng, chiến đấu chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm
lược.
Điểm tơ thêm nền văn hóa truyền thống của các dân tộc bản địa, DakLak còn có sự du
nhập nền văn hóa của các dân tộc thiểu số phía Bắc và nền văn hóa của người Kinh với đủ
sắc thái của ba miền Trung - Nam - Bắc. Tất cả đều được gìn giữ và phát triển, hòa quyện
trong q trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Ngồi ra, nói đến văn hóa ở Daklak cũng khơng thể khơng nói đến các danh thắng, các di

tích lịch sử văn hóa mang dấu ấn của lịch sử. Trên địa bàn Daklak đã tìm thấy một số di
chỉ khảo cổ học mang dấu tích của người tiền sử. Đó là các di chỉ ở Drai Si (huyện Cư
Mgar), xã Ea Tiêu, Quảng Điền (huyện Krơng Ana), thị trấn DakRLấp, xã Quảng Trực
(huyện DakRLấp), xã Bn Triết, hồ Lak (huyện Lak), xã Trường Xn, Dak Rung, thị
trấn Gia Nghĩa (huyện Dak Nơng), xã Dak Rồ (huyện Krơng Knơ), xã Ea Păn, xã Xn
Phú (huyện Ea Kar).
Qua các di chỉ trên, đã tìm thấy những cơng cụ, khí cụ, đồ trang sức bằng đá; đồ gốm và
bàn dập, bàn mài hoa văn trên gốm. Ngun liệu chế tác đều lấy từ đá bazan và đá biến
chất, vốn là đặc trưng của Tây Ngun. Kiểu dáng và kỹ thuật chế tác có nhiều điểm tương
đồng với văn hóa Biển Hồ (Gia Lai) và văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi). Thời đại đồ đồng
cũng đã phát hiện được 7 chiếc trống đồng ở huyện Ea Súp, Ea HLeo, Krơng Pac Ea Kar
và TP Bn Ma Thuột.
Đặc biệt trên mảnh đất này còn có những dấu tích của người Chăm để lại, đó là tháp Yang
Prong (Thần vĩ đại) ở xã Chư MLanh (huyện Ea Súp), những Rasungbatau (thùng lớn
đựng nước) ở Bn Ma Tht, khu mộ cổ thuộc địa phận xã Ea Ktur và xã Cư Ewy
(huyện Krơng Ana), giếng Chăm ở xã Yang Mao, khu phế tích ở xã Hòa Thành (huyện
Krơng Bơng). Trong đó, tháp Yang Prong được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII dưới thời
vua Sinhavarman III (Chế Mân), thờ thần Sinva. Đây là tháp Chăm cổ duy nhất còn lại ở
Tây Ngun.
Thời kỳ hiện đại, chúng ta có hàng chục di tích nổi tiếng như: nhà tù Bn Ma Thuột,
Đình Lạc Giao - nơi biểu hiện cho sự hiện diện của nền văn minh lúa nước của cộng đồng
người Việt ở Daklak, Đồn điền CADA, Biệt điện Bảo Đại - dấu ấn của triều đại phong kến
cuối cùng của Việt Nam, hang đá Dak Tr và rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa khác.
H. LỄ HỘI ĐĂKLĂK:
1.Hội đua voi Tây Nguyên:

93
TP HCM-BUON MA THUOT-NHA TRANG-ẹAỉ LAẽT
Nhỡn chung trong c nc, voi tp trung nhiu nht tnh ỏc Lc (hn 400 con voi nh),
trong ú huyn Ea Sỳp cú n voi ụng nht. Bn ụn thuc huyn Ea Sỳp, ni quy t

nhiu tc ngi M'nụng, ấờ, Lo khụng nhng ni ting vi n voi nh hng trm con,
m cũn l x s ca ngh sn bt v nuụi dy voi t lõu i.
Sn bt voi l mt ngh vụ cựng lý thỳ, nhng y gian lao nguy him, ũi hi s thụng
minh, lũng dng cm tuyt vi v s phn ng nhanh nhy ca ngh th sn trong mi
tỡnh hung.
Hi ua voi thng din ra vo mựa xuõn, c th hn vo dp thỏng ba õm lch, ú l thỏng
p nht trong nm õy: tri nng du, t rng khụ rỏo, dc bờn cỏc b sụng, b sui,
cỏc loi hoa rng ua nhau khoe sc, trng, vng, tớm, hng Ngi Tõy Nguyờn thng vớ
von ú l mựa con ong i ly mt, mựa con voi xung sụng ung nc; mựa em i phỏt ry
lm nng; anh vo rng t by gi chụng.
chun b cho ngy hi, t vi thỏng trc ú, nhng chng trai trong buụn cng nh
nhng mgỏt (ngi qun tng) a voi n nhng cm rng cú nhiu cõy c lm thc
n cho voi chỳng c n ung no nờ. H cũn bi dng thờm chui chớn, u chớn,
mớa cõy, bp ngụ, khoai lang, cỏm go v hu nh khụng bt voi phi lm nhng vic nng
nhc gi sc.
n ngy hi, nhng n voi t cỏc buụn lng xa gn nm np kộo v buụn ụn, tp
trung mt s bói, hoc cỏnh rng tha ven sụng Sờrờpc. Cựng vi nhng n voi, dõn
chỳng khp ni v d hi vi nhng b ỏo qun mu sc rc r.
Bói ua l mt di t tng i bng phng (thng l khu rng bng, ớt cõy to) b ngang
10 con voi ging hng i mt lỳc, b di t mt n 2km.
Mt hi tự v rỳc lờn, n voi di s iu khin ca nhng chng mgỏt ln lt tin vo
khong t bng, dn thnh hng ngang ngay ngn. Nhiu con rng vang, nh
bỏo hiu rng chỳng sp bc vo mt cuc thi ti quan trng. Theo lnh iu khin, tng
tp voi i vo ng tuyn xut phỏt. Con u n bc lờn phớa trc, trong t th uy
nghi, hai chõn trc ng thng, ngng cao, quay cỏi vũi my vũng ri cỳi u cho khỏn
gi hai bờn, xong li lựi vo v trớ c. Ting hoan hụ cựng nhng trng v tay c v vang
dy, trong khi ting chiờng, ting trng dúng lờn tng hi rn ró nh thỳc, nh gic.
Khụng khớ trng ua lỳc ny lng im, cng thng, mi ngi hi hp ch i. Trờn mi
con voi cú hai chng mgỏt dng mónh, trong b trang phc sc s kiu tng lnh ngy
xa ang trong t th sn sng ch lnh. Mt ting tự v rỳc to bỏo lnh xut phỏt. Nhng

chic chõn voi to nh cõy ct nh, thng ngy nhc lờn tng bc ung dung, u oi, thng
tut, t nhiờn bt lờn nh nhng chic lũ xo phúng v phớa trc trong ting hũ reo, la hột
ca khỏn gi cựng ting chiờng, ting trng õm vang c nỳi rng. Chng mgỏt ngi phớa
trc u voi cỳi rp mỡnh, ngng u quan sỏt v iu khin voi bng mt thanh st nhn
di mt một gi l kreo (ting M'nụng l gy iu khin) dựng õm mnh vo da,
thỳc voi tng tc , cũn anh chng mgỏt th hai ngi phớa sau thỡ dựng chic bỳa g
kc nn mnh vo mụng voi voi chy nhanh v thng ng. Trờn ng ua, bi t,
lỏ cõy khụ bc lờn, ting giú rớt, ting cnh lỏ b va qut xen ln vi ting rm rch ca
nhng bc chõn voi.
Khi búng dỏng chng mgỏt ngi trờn lng chỳ voi i u va xut hin t xa trong vũng

94
TP HCM-BUÔN MA THUỘT-NHA TRANG-ĐÀ LẠT
quay trở về đích, thì tiếng reo hò của khán giả vang lên như sấm. Tiếng trống, tiếng chiêng
giục giã liên hồi. Tiếp theo là tiếng hoan hơ những người thắng cuộc. Những chú voi được
giải, giơ cao chiếc vòi vẫy chào mọi người, rồi ngoan ngỗn bước đi ung dung, đơi tai phe
phẩy, mắt lim dim đưa vòi nhận những khúc mía màu tím hay ống đường của bà con các
nơi mang đến ủng hộ.
Cuộc đua voi kết thúc, những chú voi dự thi lần lượt trở lại các bn làng xa xơi, mang
theo tiếng hát, lời ca và khơng khí rộn ràng của ngày hội, khi về bn làng, lại một lần nữa
được dân chúng kéo nhau ra tận đầu bn để hân hoắm chào đón, thưởng q như những
người chiến thắng. Thường thường những con voi thắng cuộc vẫn thuộc về bn Đơn, một
bn của người M'nơng có nhiều voi nhất và có truyền thống chăm sóc, huấn luyện voi giỏi
nhất trong vùng.
Ngày hội đua voi là ngày vui lớn ở Tây Ngun, nó phản ánh tinh thần thượng võ của
người M'nơng, một dân tộc giàu đức tính dũng cảm, đã từng quen với tốc độ, từng đối diện
với bao tình huống hiểm nguy căng thẳng trong những cuộc săn bắt voi rừng. Chính cái
khung cảnh hùng vĩ của thiên nhiên Tây Ngun - nơi diễn ra cuộc đua đặc sắc - đã làm
tăng lên bội phần chất hùng tráng của ngày hội cổ truyền của họ.


2.Hội xuân Tây Nguyên:
Tháng 3 là tháng đẹp nhất trong năm ở Tây Ngun. Trong thời gian này, hoa rừng nở
khắp nơi thu hút ong rừng đi tìm mật và bắt đầu một mùa vụ mới. Ðây cũng là mùa lễ hội
của các dân tộc
Tây Ngun là vùng rộng đất rộng lớn của Việt Nam bao gồm 3 cao ngun lớn nhất của
Lâm Ðồng: Di Linh, Ðăk Lắk và Gia Lai - Kon Tum. Nguồn tài ngun thiên nhiên giàu có
với những khu rừng ngun thuỷ và hệ động thực vật phong phú. Nơi đây cũng hội tụ
nhiều lồi động vật q hiếm.
Ở đây, các dân tộc thiểu số khác nhau như Gia Rai, Ba na, Xêđăng, Gié Chiêng, K'hor,
Ktu, Eđê đang sinh sống. Mỗi dân tộc có phong tục và văn hố riêng. Chính vì vây, ở nơi
đây lễ hội văn hóa là lớn và rầm rộ nhất. Ơng Krơng Y Tun - Giám đốc của phòng Văn
hố Thơng tin của Ðắk Lắk cho biết thêm: "Vào tháng ba, các dân tộc như £đê, Mnơng và
Gia Lai tổ chức các lễ hội khác nhau, bao gồm lễ bỏ mả, lễ cầu sức khoẻ, lễ vụ mùa, lễ ăn
trâu, cầu mưa và hội đua voi". Những lễ hội này được tổ chức ở bn, làng và tại các dòng
họ. Ðây cũng là hoạt động văn hố cộng đồng thu hút rát nhiều khách tham gia.
Năm nay, lễ hội tháng Ba sẽ được tổ chức ở Bn Ðơn nới nổi tiếng về hội đua voi. Trước
khi vào cuộc đua, một hồi tù và vút lên, theo lệnh điều kiển của nài voi, lần lượt các chú voi
nối đua nhau rồi xếp thành hàng trước mặt Ban giám khảo, từ từ quỳ phục xuống chào.
Sau đó từng tốp voi vào vị trí xuất phát. Khi có hiệu lệnh, các chú voi bật lên, phóng về
phía trước trong tiếng chiêng, trống, tiếng hò reo của khán giả âm vang núi rừng. Cuộc
đua qua nhiều vòng , đến khi chọn được một chú voi chiến thắng về đích trước. Voi thắng
cuộc được đeo một vòng nguyệt quế, nó giơ cao chiếc vòi chào khán giả, đơi tai phe phẩy,
mắt lim dim đón nhận những khúc mía, những trái chuối và những người dự hội.

Nhạc khí truyền thống của các dân tộc là niềm tự hào của người Tây Ngun. Họ có gồng,

95

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×