Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

sử dụng công nghệ thông tin trong thuyết trình bài giảng môn gdcd ở trường thpt cao bá quát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.6 KB, 32 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
TRƯỜNG THPT CAO BÁ QUÁT GIA LÂM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Sử dụng công nghệ thông tin trong
thuyết trình bài giảng môn GDCD ở
trường THPT Cao Bá Quát – Gia
Lâm
Môn : Giáo dục công dân
Người viết: Đào Thị Minh
Chức vụ : Tổ trưởng chuyên môn
Tổ : Sử-Địa –Giáo dục công dân
Tài liệu : Đĩa CD
Năm học 2011-2012
2
PHỤ LỤC

TÊN MỤC TRANG
Nội dung đề tài 1
Phần I – Lý do chọn đề tài 2
Phần II – Cơ sở lý luận và thực tiễn 4
Phần III – Quá trình triển khai và thực hiện để tài
1 – Công nghệ thông tin và ưu điểm của nó trong dạy học
2 – Tầm quan trọng của việc sử dụng CNTT trong giảng dạy
GDCD
3 – Thực trạng sử dụng CNTT trong việc giảng dạy môn
GDCD ở trường THPT Cao Bá Quát
4 – Sự cần thiết kết hợp CNTT trong thuyết trình bài giảng
GDCD nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh
trường THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm
5 – Các nguyên tác chỉ đạo xây dựng quá trình dạy học môn
GDCD theo phương pháp thuyết trình có sử dụng CNTT


8
8
9
12
15
19
Phần IV – Đánh giá kết quả thực hiện 27
Phần V – Kết luận 29
Phần VI – Những đề xuất và kiến nghị 30
3
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
PHẦN I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở thực tiễn
PHẦN III. QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI VÀ THỨC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Công nghệ thông tin và ưu điểm của nó trong dạy học
2. Tầm quan trọng của việc sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
GDCD
3. Thực trạng sử dụng CNTT trong việc giảng dạy môn GDCD ở trường
THPT Cao Bá Quát
4. Sự cần thiết kết hợp Công nghệ thông tin trong thuyết trình bài giảng
GDCD nhằm phát huy tính tích cực học tập cho học sinh Trường THPT
Cao Bá Quát – Gia Lâm.
5. Các nguyên tắc chỉ đạo xây dựng quá trình dạy học môn GDCD theo
phương pháp thuyết trình có sử dụng CNTT
Thuyết trình và sử dụng CNTT trong dạy học GDCD phải bám sát
nội dung tri thức môn học.
PHẦN IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC TIỄN
PHẦN V. KẾT LUẬN

PHẦN VI. NHỮNG ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ
4
PHẦN I - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH với mục tiêu đến
năm 2020 Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành một
nước công nghiệp, hội nhập cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi
của công cuộc CNH, HĐH và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn lực
người Việt Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên mặt bằng
dân trí cao. Báo cáo chính trị tại Đại Hội Đại Biểu lần thứ 10 của Đảng đã
chỉ rõ : “Về giáo dục và đào tạo, chúng ta phấn đấu để lĩnh vực này cùng với
khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu thông qua việc đổi mới toàn
diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng
nến giáo dục Việt Nam”.
Mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông là hình thành và phát triển
toàn diện nhân cách của thế hệ trẻ. Đó sẽ là những công dân tương lai, những
người lao động mới phát triển hài hòa trên tất cả các mặt đức dục, trí dục, mỹ
dục, thể dục, lao động; những người đã xây dựng đất nước ngày càng phồn
vinh, sẽ nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng tươi đẹp
và hạnh phúc.
Để hình thành và phát triển những con người như vậy, nhà trường phổ
thông phải có chương trình và nội dung giáo dục, giáo dưỡng phù hợp với đất
nước, con người Việt Nam đồng thời phải phù hợp với sự phát triển của thời
đại. Tất cả yêu cầu đó phải được quán triệt trong tất cả các chương trình và nội
dung học tập của toàn bộ các môn học trong nhà trường nói chung và trường
PTTH nói riêng. Vì vậy mỗi môn khoa học được giảng dạy trong trường phổ
thông đều có phương pháp giảng dạy phù hợp với học sinh. Môn GDCD đã
được xác định là một môn khoa học xã hội trong trường PTTH, điều này nói
lên vị trí quan trọng của môn GDCD vì nó góp phần đào tạo những người lao
động vừa có tri thức khoa học, vừa có đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn,
vừa có phẩm chất chính trị tư tưởng tốt, vừa có ý thức trách nhiệm với cộng

đồng lại có ý thức trách nhiệm với gia đình và bản thân. Hơn nữa môn GDCD
không chỉ cung cấp cho những công dân tương lai, những tri thức vừa khái
quát hóa, mà còn trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức về thế giới
quan một cách tương đối hệ thống toàn diện, giúp cho học sinh hiểu đúng quy
luât phát triển tất yếu của tự nhiên, xã hội và của tư duy; đồng thời cũng giúp
cho học sinh nhận thức đúng đắn cuộc sống của cá nhân và cộng đồng phải
phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử xã hội, biết sống
trong điều kiện cụ thể của bản thân, gia đình và xã hội, luôn có ý thức vươn tới
cái cao đẹp. Chính trên cơ sở những tri thức đó học sinh sẽ hình thành dần
5
những quan điểm mới, khuynh hướng tư tưởng mới, động cơ hoài bão, lòng tin
và hành vi tốt đẹp của con người. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới
đang có biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc, khi mọi mặt của cuộc sống xã hội đang
trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc mà trên đất nước ta đang có những biến đổi
toàn diện thì vị trí của môn GDCD lại càng trở nên quan trọng. Đó là một tất
yếu khách quan buộc người giáo viên phải nhận thức đấy đủ và đúng đắn vị trí
của bộ môn từ đó sửa chữa và tránh được những khuynh hướng sai lầm để góp
phần vào việc thực hiện “chiến lược con người” mà chúng ta đang triển khai
trong tư duy và hành động.
Các phương pháp giảng dạy cổ truyền chỉ làm cho học sinh dễ hiểu, dễ
nhớ. Nghĩa là dùng mọi cách tác động vào đối tượng học sinh sao cho trong
một thời gian ngắn người học sinh thu được một khối lượng tri thức xác định.
Với phương pháp đó người học sẽ tiếp thu tri thức một cách thụ động, ít sáng
tạo cần thiết trong tư duy. Với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy giáo dục công dân đã kích thích được nhu cầu thu nhận tri thức của học
sinh, từng bước hình thành và phát triển năng lực tư duy khoa học, độc lập,
sáng tạo, biết tự mình đặt ra và giải quyết các vấn đề của cuộc sống trong
tương lai. Mà còn thông qua đó xây dựng phương pháp tư duy khoa học, hình
thành phát triển thói quen cũng như năng lực nắm bắt những thành tựu mới
của khoa học và vận dụng tri thức đó vào thực tiễn đạt kết quả cao. Xuất phát

từ những vấn đề cấp thiết trên tôi chọn đề tài: ”Sử dụng công nghệ thông tin
trong giảng dạy môn giáo dục công dân”
6
PHẦN II- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết để có thế hòa nhập vào xu thế phát triển chung của
thế giới thì đổi mới phương pháp giảng dạy giáo dục ở THPT gắn bó chặt chẽ
và thực chất là nằm trong khuôn khổ giáo dục phổ thông nói chung. Như vậy,
đổi mới chương trình phổ thông phải là một quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội
dung, phương pháp đến phương tiện giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục kể
cả việc đổi mới cách xây dựng chương trình.
Nghị quyết số 40/2000/QH10 quốc hội khóa 9 đã khẳng định mục tiêu
của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông lần này là: “Xây dựng nội dung
chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực phục vụ CNH – HĐH đất nước, phù hợp với thực tiễn và
truyền thống Việt Nam, tiếp cận với trình độ giáo dục phổ thông ở các nước
phát triển trong khu vực và thế giới”.Văn bản đồng thời yêu cầu: “Đôi mới
chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung,
phương pháp giáo dục, khắc phục những mặt hạn chế của chương trình, sách
giáo khoa, tăng cường tính thực tiễn kỹ năng thực hành, năng lực tự học, coi
trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, bổ sung những thành tựu khoa
học công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh. Bảo đảm
sự truyền thống kế thừa và phát triển của chương trình giáo dục nghề nghiệp,
giáo dục đại học, thực hiện phân luồng trong hệ thống giáo dục quốc dân để
tạo sự cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực, bảo đảm sự thống nhất về kiến thức
và kỹ năng, có phương án vận dụng chương trình sách giáo khoa phù hợp với
hoàn cảnh và điều kiện của các địa bàn khác nhau”.
Để thực hiện tốt nội dung giảng dạy và hoàn thành tốt nhiệm vụ của môn
học, người giáo viên phải tuân theo những yêu cầu thiết yếu trong việc truyền

thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng cho học sinh vì bản chất của quá trình dạy học là
quá trình giảng dạy của thầy và học tập của học sinh, là quá trình xử lí thông
tin, chuyển giao thông tin của thầy giáo và thu nhận thông tin, xử lí thông tin
của học sinh. Căn cứ vào mục đích và nội dung của môn học, kết cấu các loại
tri thức, thầy giáo cần có phương pháp giáo dục và giáo dưỡng thích hợp. Để
xây dựng và phát triển một phương pháp giảng dạy cho môn học phải căn cứ
vào nhiều yếu tố, trong đó mục đích và nội dung của môn học giữ vai trò quan
trọng. Mỗi một môn học có một phương pháp giảng dạy nhất định, không thể
7
dùng phuơng pháp giảng dạy của môn này thay cho phương pháp giảng dạy
của môn khác. Vì vậy căn cứ vào đặc trưng của bộ môn GDCD với những tri
thức mang tính chất tổng hợp, khái quát về triết học, kinh tế chính trị học,
CNXH khoa học, đạo đức, pháp luật, đường lối xây dựng đất nước theo một hệ
thống tri thức xác định. Đồng thời để có được phương pháp chuyển giao và
giúp học sinh tiếp nhận, xử lý thông tin đúng đắn, đòi hỏi giáo viên phải có
được một phương pháp dạy học vừa đảm bảo sao cho nội dung khoa học của
bộ môn được học sinh tiếp nhận một cách tích cực, chủ động, sáng tạo, mặt
khác phải phản ánh đúng sự phát triển của đất nước con người Việt Nam. Do
đó để phát huy trí lực học sinh bằng ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy GDCD là một trong những phương pháp hình thành tri thức học sinh, phát
triển tư duy sáng tạo, thế giới quan khoa học, niềm tin của học sinh từ đó sáng
tạo ra mục đích hoạt động xã hội xác định.
2. Cơ sở thực tiễn
Do yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đối với việc phát triển nguồn
nhân lực trong giai đoạn mới và do sự phát triển nhanh, mạnh với tốc độ mang
tính bùng nổ của khoa học - công nghệ thể hiện qua sự ra đời nhiều lý thuyết,
thành tựu mới cũng như khả ăng ứng dụng chúng vào thực tiễn cao, rộng và
nhanh, mà học vấn nhà trường phổ thông trang bị không thâu tóm được mọi tri
thức mong muốn. Vì vậy phải coi trọng việc giảng dạy phương pháp dạy cách
đi tới kiến thức của loài người, trên cơ sở đó tiếp tục học suốt đời. Xã hội đòi

hỏi người có học vấn hiện đại không chỉ có khả năng lấy ra từ tri thức đưới
dạng có sẵn đã lĩnh hội ở nhà trường phổ thông mà còn có khả năng chiếm
lĩnh, sử dụng các tri thức mọt cách độc lập, khả năng đánh giá các sự kiện, hiện
tượng mới, các tư tưởng một cách thông minh, sáng suốt khi gặp trong cuộc
sống trong lao động và trong quan hệ với mọi người.
Do có những thay đổi trong đối tượng giáo dục là trong những năm gần
đây với kết quả nghiên cứu tâm lý học sinh thì cho thấy thanh thiêu niên học
sinh có những thay đổi trong sự phát triển tâm lý, đó là sự thay đổi có gia tốc.
Trong điều kiện phát triển của phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội
nhập giao lưu, học sinh được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong
phú từ nhiều mặt của cuộc sống, hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thức tế hơn
so với các thế hệ trước đây vài chục năm cùng lứa tuổi, đặc biệt là học sinh
THPT. Trong học tập, học sinh không thỏa mãn với vai trò của người tiếp thu
thụ động, không chỉ chấp nhận các giải pháp có sẵn được đưa ra. Như vậy, học
sinh ở lứa tuổi này này sinh một yêu cầu và cũng là quá trình, sự lĩnh hội độc
8
lập các tri thức và phát triển các kỹ năng. Để hình thành và phát triển phương
pháp học tập tự lập ở học sinh một cách có chủ định thì cần thiết phải có sự
hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi. Chính vì vậy, phương pháp dạy học nêu
vấn đề, đàm thoại, có tác dụng vô cùng to lớn đối với việc phát huy tính độc
lập sáng tạo của học sinh.
Do xu thế hội nhập trên thế giới hiện nay, chương trình giáo dục đều
hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, trực tiếp góp phần cải thiện
chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người,
khắc phục tình trạng học tập nặng nề, căng thẳng gây mất hứng thú và niềm tin
đối với việc học tập của học sinh, giáo dục thoát ly đời sống, quá nhấn mạnh
đến tính hệ thống, yêu cầu quá cao về mặt lý thuyết mà coi nhẹ những tri thức
và kỹ năng liên quan trực tiếp tới cuộc sống hằng ngày của học sinh khiến
năng lực hoạt động thực tiễn của người học bị hạn chế.
Ngày nay tri thức khoa học của loài người luôn được bổ xung gấp bội

nhờ những thành tựu khoa học và công nghệ nhận thức của con người ngày
càng phát triển, thực tiễn nhất là thực tiễn xã hội biến đổi nhanh chóng nên nội
dung giảng dạy trong nhà trường cũng phải đổi mới để đáp ứng với sự biến đổi
đó. Mà môn GDCD có một nhiệm vụ rất quan trọng trong việc giáo dục tư
tưởng đạo đức, chính trị cho học sinh, nó có thể giáo dục trực tiếp cho học sinh
về thế giới quan một cách có hệ thống toàn diện, cơ bản thiết thực của triết học
duy vật biện chứng, của lý luận về CNTB và CNXH, về nhà nước và pháp
quyền, về đạo đức lối sống có đạo đức, những quan điểm về xây dựng đất
nước ngày càng giàu mạnh văn minh, con người ngày càng ấm no hạnh phúc.
Mặt khác còn giáo dục cho học sinh những quan điểm khoa học và cách mạng,
tư duy mới về thế giới và thời đại về các quá trình xã hội đang diễn ra trên
thế giới và đất nước ta, về cuộc đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, giữa cái tiến bộ và cái bảo thủ lạc hậu, trên cơ sở đó hình thành niềm
tin có cơ sở khoa học, về lý tưởng cao đẹp mà con người luôn vươn tới và sự
tất thắng của cái chân, thiện, mỹ, mà còn bồi dưỡng cho học sinh phương pháp
tư duy biện chứng hình thành thói quen và kĩ năng vận dụng tri thức khoa học
vào thực tiễn cuộc sống. Từ lâu việc giảng dạy GDCD hầu như được thực hiện
bằng con đường tự phát kinh nghiệm chủ nghĩa, dựa trên cơ sở của phương
pháp giảng dạy và nghiệp vụ sư phạm nói chung. Với phương pháp này sẽ
không giúp cho học sinh có đầy đủ năng lực tiếp thu khối lượng tri thức ngày
càng nhiều và mới. Đồng thời học sinh khó có thể áp dụng những tri thức đã
học được vào thực tế cuộc sống đang biến đổi sâu sắc.
9
Khác với các bộ môn khác, việc giảng dạy GDCD việc mô ra và giải
thích của giáo viên chiếm rất nhiều thời gian . Mặt khác, giáo viên không chỉ
mô tả hoặc chỉ giải thích mà phải kết hợp chặt chẽ giữa mô tả và giải thích ,
trên cơ sở đó hướng học sinh đến việc tìm hiểu và nắm chắc các tri thức trừu
tượng và khái quát hóa cao, từ đó giáo viên giúp học sinh vận dụng tri thức đó
vào thực tiến. Muốn vậy học viên phải biết đặt ra và giải quyết vấn đề có sự
hướng dẫn của giáo viên hoặc do bản thân thực hiện . Một đặc điểm của tri

thức môn GDCD là gắn trực tiếp với những vân đề của đời sống hằng ngày,
gắn trực tiếp với hành động hằng ngày của học sinh và của những người xung
quanh họ. Những tri trức của bộ môn mà học sinh thu nhận được có thể vận
dụng ngay vào cuộc sống của họ. Vì vậy, việc minh họa các khái niệm, phạm
trù, kể cả quy luật trong giảng dạy môn học bằng những ví dụ xung quanh họ
không có gì khó khăn. Họ có thể thu nhận và vận dụng tri thức vào ngay cuộc
sống của chính họ. Nhưng khó khăn lớn trong giảng dạy là làm thế nào chọn
lọc được ví dụ minh họa, sao cho tri thức của môn học không bị tầm thường
hóa, không bị mặc cảm là tri thức chính trị và thông qua những ví dụ có thể
nâng dần trình độ khái quát của học sinh đến tầm nhất định.
Ưu điểm nổi bật của phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin so
với các phương pháp dạy học truyền thống là những thí nghiệm, tài liệu được
cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh chữ, âm thanh sống đọng làm cho
học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có lý, học sinh có thể có những
dự đoán về các tính chất, những quy luật mới. Đây là một công dụng lớn của
công nghệ thông tin và truyền thông trong quá trình đổi mới phương pháp dạy
học. Từ tình hình thực tế đó viếc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn
GDCD ở trường THPT hiện nay là cần thiết để thực hiện tốt “chiến lược con
người ” và đổi mới trong dạy học để phát huy tính, tự lực của học sinh có như
vậy mới nâng cao nhận thức về bộ môn và nâng bộ môn ngang tầm phát triển
của xã hội con người Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung.
10
PHẦN III- QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI VÀ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Công nghệ thông tin và ưu điểm của nó trong dạy học:
Công nghệ thông tin và truyền thông là sự tổng hợp của 3 thành phần: máy
tính, truyền thông ( đặc biệt là viễn thông) và các nguồn tài liệu đảm bảo phục
vụ cho hoạt động của các trang thiết bị thuộc hai lĩnh vực ấy hoặc trong một
chừng mực nào đấy có thể coi là sự giao nhau của Điện tử- Tin học- Viễn
thông.
Ban đầu điện tử và điện toán là hai nghành nghiên cứu độc lập. Sự liên kết

giữa hai khoa học này được đánh dấu bằng hai việc phát minh ra chiếc máy
tính điện tử lớn Eniac đầu tiên vào năm 1945, rồi sự ra đời của máy vi tính vào
năm 1981 của hãng IBM. Cho dến nay sự thay đổi công nghệ về bộ vi xử lý,
về tốc độ và các phần mềm ứng dụng đã không còn tính bằng thập niên hay
năm mà đo bằng tháng.
Cuối những năm 70 của thế kỷ trước, nước Pháp sử dụng từ Informatique
-Tin học. Còn người Mỹ quen dùng thuật ngữ truyền thống là: Computer
Science và tiếng Anh là Information Technology (viết tắt là I.T). Cônh nghệ
thông tin, viết tắt là CNTT nghành ứng dụng công nghệ quản lí và xử lý thông
tin, đặc biệt trong các cơ quan tổ chức lớn.
Ở Việt Nam thì khái niệm công nghệ thông tin (CNTT) được hiểu và định
nghĩa trong Nghị quyết 49/CP ký ngày 04/08/1993 về phát triển công nghệ
thông tin của Chình phủ Việt Nam, như sau: “Công nghệ thông tin là tập hợp
các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại – chủ
yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có
hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi
lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”. Thuật ngữ do hội đồng Chính
phủ quyết định, trong đó các chuyên gia vẫn bảo lưu thuật ngữ tin học.
Tuy nhiên từ năm 2000, thế giới bắt đầu phổ cập thuật ngữ ICT:
Information and Commmunication Technology, CNTT&TT. Sự thay đổi thuật
ngữ phản ánh sự thay đổi của cả thực tiễn phát triển công nghệ và nhận thức.
Sự ứng dụng và phát triển của ICT ở nước ta hiện nay cũng gia tăng với tốc
độ chống mặt. Người tiêu dùng, trong đó có nghành giáo dục dang được hưởng
những tiện ích cũng như những dịch vụ thông tin tốt hơn bao giờ hết. điều đó
cũng đồng nghĩa với việc cơ hội và thách thức cho nền giáo dục được nhân lên.
Thực tế cho thấy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở nước ta
vẫn còn hạn chế so với các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, việc đổi mới PPDH
11
và ứng dụng CNTT góp phần vào việc đổi mới PPDH là việc làm cần thiết và
quan trọng của nghành giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để sử

dụng công nghệ thông tin trong dạy học có hiệu quả, chúng ta phải nắm rõ
những ưu điểm và hạn chế của nó.
Việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học giup giáo viên có thể
truyền tải được một lượng tin tức lớn đến học sinh việc trao đổi thông tin sẽ
nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Có thể khẳng định rằng, môi trường công nghệ thông tin và truyền thông
chắc chắn sẽ có tác động tích cực tới sự phát triển trí tuệ của học sinh và điều
này nảy sinh những lý thuyết học tập mới. Tuy nhiên, những gì đã đạt được
vẫn còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vương mắc và những thách thức vẫn còn
ở phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Chẳng hạn, tuy công nghệ
thông tin mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong một mức
độ nào đó thì công cụ hiện đại naỳ không thể hỗ trợ giáo viên hoàn toàn trong
các bài giảng của mình. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài giảng chú
khong phải toàn bộ chương trình do nhiều nguyên nhân.
Bên cạnh dó, kiến thức, kĩ năng về công nghệ thông tin ở một số giào viên
còn hạn chế, chưa đủ ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né tránh.
Mặt khác phương pháp dạy học cũ vẫn còn một lối mòn khó thay đổi…Điều
đó làm công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình dạy học vãn chưa
thể phát huy một cách chọn vẹn tính tích cực và trọn vẹn của nó.
Đổi mới phương pháp dạy học bằng các phương tiện hiện đại đang là vấn
đề cốt tử để nâng cao chất lượng dạy học. Đó là một trong những mục tiêu
quan trọng nhất trong cải cách giáo dục ở nước ta hiện nay.
2.Tầm quan trọng của việc sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
GDCD
Thế giới hôm nay đang chứng kiến những thay đổi có tính chất khuynh đảo
trong mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nhờ những thành tựu công nghệ
thông tin. Công nghệ thông tin đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những
nhân tố năng động mới của nền kinh tế và xã hội, và do đó, cho quá trình hình
thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Có thể nói, công nghệ thông tin và truyền thông trong hai thập niên cuối

cùng của thế kỷ trước đã tạo ra những nền tảng cơ bản cho phép con người
thay đổi phương thức tổ chức và xử lí thông tin trên phạm vi toàn xã hội, từ
tiềm năng trở thành hiện thực, từ vị trí thụ động chuyển thành một sức mạnh
chủ động sáng tạo và làm nên sự giàu có của xã hội. Với thông tin đã được số
12
hóa và nối mạng, con người có thể tích hợp thông tin trong những “kho tin”
khổng lồ được liên kết tích hợp với nhau, biến chúng thành nguồn tài nguyên,
có thể chia sẻ, trao đổi thông tin trên toàn cầu một cách dễ dàng thông qua
Internet trong một khoảng thời gian. Với tác động của công nghệ thông tin và
truyền thông, môi trường dạy học cũng thay đổi, nó tác động mạnh mẽ tới mọi
nguyên tố của quá trình quản lí, giảng dạy, đào tạo và học tập dựa trên sự hỗ
trợ của hệ thống các phần mềm ứng dụng, website và hạ tầng thông tin đi kèm.
Những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của cong nghệ thong tin đã ảnh
hưởng sâu sắc đến giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong đổi mới phương pháp
dạy học. Các phương tiện nghe nhìn phục vụ cho việc khai thác, xử lí, lưu trữ
và trình diễn thông tin( máy chiếu đa năng, video, máy tính, Internet) đã có
nhiều trong hệ thống trường học. Chính vi vậy mà việc ứng dụng CNTT để đổi
mới phương pháp dạy học không còn là mới mẻ.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy nói chung và giảng dạy bộ
môn GDCD nói riêng sẽ góp phần cải tiến và đổi mới phương pháp dạy học
truyền thống, thay đổi lối dạy thụ động một chiều làm cho hoạt động dạy và
học trở lên tích cực hơn.
Trong một bài dạy GDCD, người giáo viên không bao giờ chỉ dùng một
phương pháp. Vấn đề đặt ra là phải phối hợp các phương pháp như thế nào?
Vấn đề kết hợp đó phải bắt đầu từ sự phân tích nội dung. Nội dung môn
GDCD rất đa dạng mà mỗi phương pháp chỉ giải quyết được một nội dung
nhận thức nào đó. Vì vậy, phải sử dụng nhiều phương pháp trong giảng dạy.
Vấn đề là bao giờ cũng có một phương pháp chủ đạo, phương pháp khác chỉ là
hỗ trợ cho phương pháp chủ đạo. Nếu không nhận thức được điều đó thì hoạt
động của giáo viên sẽ không chủ động khi lên lớp.

Do đó việc kết hợp phương pháp thiết trình với các phương pháp dạy học
khác, đặc biệt là phương pháp sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn
GDCD góp phần phát huy ưu điểm của phương pháp sử dụng CNTT, minh
họa, sử dụng phương pháp tiện dạy học hiện đại, khắc phục hạn chế của
phương pháp thuyết trình. Phương pháp này không phát huy đầy đủ tính tích
cực, độc lập và tư duy sáng tạo của học sinh, học sinh tiếp thu kiến thức một
cách thụ động, ép buộc và nếu thấy truyền đạt không hấp dẫn, thiếu sức thuyết
phục thì học sinh chán nản, buồn ngủ, không muốn nghe, không muốn ghi
chép. Phương pháp này làm cho học sinh suy giảm khả năng chuyển hóa kiến
thức đã được học thành kiến thức của riêng mình. Cho nên, khó có khả năng
vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết một vấn đề thực tiễn cụ thể.
13
Vì vậy, mục tiêu cuối cùng của viêc ứng dụng công nghệ thông tin trong
thuyết trình bài giảng GDCD là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập
của học sinh, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ
không đơn thuần chỉ là “thầy đọc trò chép” như kiểu truyền thống, học sinh
được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ đọng tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp
lí, quá trình học tập tự rèn luyện của bản thân mình.
Môn GDCD là một môn khoa học độc lập nhưng do nhiều nguyên nhân vẫn
còn việc sử dụng nối dạy học truyền thống. Đây là phương pháp thông tin một
chiều. Vì vậy việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp sử dụng
CNTT trong giảng dạy môn GDCD sẽ giúp cho học sinh có khả năng tư duy về
môn học, có điểm tựa để hiểu sâu sắc những khái niệm trừu tượng của môn
học. Bởi đây là môn học mang tính lý luận, khái quát và trừu tượng hóa cao.
Tính logic của vấn đề do phương pháp thuyết trình đem lại, phải có các yếu tố
minh họa, mô phỏng của CNTT hỗ trợ sẽ đem lại hiệu quả cao. CNTT trong
thuyết trình bài giảng GDCD nhằn mục đích khắc phục những hạn chế của
phương pháp thuyết trình, khắc phục khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn,
làm dễ dàng hóa quá trình nhận thức của học sinh, chuyển từ đối tượng mang
tính trừu tượng sang cụ thể.

Công nghệ thông tin là một phương tiện có khả năng truyền tải lượng thông
tin cực kỳ phong phú và sinh động, giúp học sinh lĩnh hội tri thức đầy đủ và
chính xác. Đồng thời, khắc sâu, mở rông,củng cố và hoàn thiện tri thức, rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo cần thiết. Phát triển năng lực độc lập nghiên cứu tư duy
tìm tòi khám phá, năng lực quan sát, phân tích, tổng hợp các hiện tượng xảy ra
và giải thích có cơ sở khoa học các hiện tượng đó, góp phần củng cố và vận
dụng tri thức vào thực tiễn. Kết hợp CNTT trong thuyết trình sẽ tạo ra khả
năng to lớn làm tăng chất lượng nhận thức của học sinh phát huy tính tích cực
nhận thức, hứng thú học tập, phát triển năng lực thực hành, hoạt động thực
tiễn; tăng hiệu quả làm việc của giáo viên và học sinh; làm thay đổi phong
cách tư duy và hành động của học sinh trong quá trình dạy học.
Mặt khác, sử dụng CNTT trong thuyết trình bài giảng GDCD còn có khả
năng giúp giáo viên có những thuận lợi cơ bản để trình bày bài giảng tinh giản
nhưng vẫn đảm bảo nội dung đầy đủ, sâu sắc và sinh động, điểu khiển quá
trình nhận thức của học sinh có hiệu quả, tạo điều kiện cho giáo viên kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập học sinh được chính xác và đầy đủ hơn, giúp giáo
viên tổ chức điều khiển quá trình học tập của học sinh một cách chủ động, tích
cực, đáp ứng nhu cầu và hứng thú học tập của người học.
14
Việc kết hợp phương pháp dạy học thuyết trình với phương pháp sử dụng
CNTT trong dạy học GDCD là vô cùng quan trọng. Mỗi phương pháp đều có
mặt ưu và nhược điểm riêng của nó, qua đó sẽ phát hiện được sức mạnh của
phương pháp thuyết trình và thế mạnh của phương pháp sử dụng CNTT.
3. Thực trạng sử dụng CNTT trong việc giảng dạy môn GDCD ở trường
THPT Cao Bá Quát
Cùng với sự vận động và phát triển liên tục của nhà trường, quá trình
dạy học môn GDCD đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả nhất định.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên đã không ngừng học hỏi, bồi dưỡng
chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả giảng dạy
của giáo viên cũng như chất lượng học tập của học sinh đối với môn học. Tuy

nhiên, để đáp ứng nhu cầu giáo dục và đào tạo của nước ta hiện nay thì trên
thực tế cho đến nay vẫn chưa khắc phục được căn bản tình trạng yếu kém về cả
mặt nội dung và phương pháp giảng dạy nên hiệu quả giảng dạy và học tập
môn học này chưa đáp ứng dược yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo
dục.
Để tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng CNTT&TT trong thuyết trình
bài giảng GDCD nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh Trường
THPT Cao Bá Quát, chúng tôi đã điều tra tình hình giảng dạy của giáo viên
thông qua sự phản hồi ngược của 150 học sinh.
Qua thống kê số liệu dã được điều tra và nghiên cứu từ các thông tin
ngược của học sinh về thực trạng giảng dạy và học tập môn GDCD của nhà
trường chúng tôi đã thu được kết quả ở bảng 1.1:
STT Ý kiến đánh giá SL(HS) Tỷ lệ %
1 Giáo viên giảng dạy nhiệt tình 130 86.7
2
Giáo viên sử dụng chủ yếu phương pháp
thuyết trình
100 66.7
3
Giáo viên sử dụng phương tiện dạy học hiện
đại
30 20
4
Giáo viên có kết hợp phương pháp thuyết
trình với CNTT&TT
20 13
Từ kết quả trên thống kê trong bảng 1.1, chúng tôi nhận thấy: các giáo
viên dạy môn GDCD của Trường THPT Cao Bá Quát đều nhiệt tình có tinh
thần trách nhiệm cao với nghề nghiệp.
15

Có 130/150 học sinh được điều tra (chiếm tỷ lệ 86.7%) đã đánh giá các
thầy cô là những giáo viên giảng dạy nhiệt tình.
Có 100/150 học sinh được điều tra (chiếm tỷ lệ 66.7%) cho rằng giáo
viên giảng dạy sử dụng phương pháp thuyết trình là chủ yếu, ít vận dụng thực
tiễn,thậm chí vẫn còn tình trạng đọc cho học sinh chép.
Việc sử dụng phương tiện dạy học hiện đại, có 30/150 (chiếm tỷ lệ 20%)
nhận xét rằng giáo viên chưa sử dụng phương tiện dạy học hiện đại, đạc biệt là
phương tiện dạy học hiện đại làm cho giờ học khô khan, kém hấp dẫn, sinh
động và không hiệu quả.
Việc sử dụng phương pháp thuyết trình với CNTT&TT trong giảng
dạy có 20/150 (chiếm tỷ lệ 13%). Hầu như giáo viên chưa sử dụng phương tiện
dạy học hiện đại nên chưa có sự kết hợp hai phương pháp này.
Nhìn vào kết quả chúng tôi nhận thấy thực trạng giảng dạy môn GDCD
ở Trường Cao Bá Quát – Gia Lâm là giáo viên chưa có sự đổi mới phương
pháp dạy học, vẫn dạy học theo phương pháp truyền thống, phương pháp
thuyết trình là chủ yếu. Quá trình giảng dạy vẫn mang nặng truyền thụ mặt lý
thuyết nhằm cung cấp khái niệm, phạm trù, quy luật. Vấn đề vận dụng lý
thuyết vào thực tiễn giảng dạy môn GDCD hoặc đưa những ván đề mang tính
thực tiễn vào làm sáng tỏ lý thuyết còn hạn chế.
Ngoài kết quả trên, chúng tôi còn thu được những ý kiến khác của học
sinh nhận xét về thực trạng giảng dạy có tính hấp dẫn, lôi cuốn của giáo viên
bộ môn GDCD. Những ý kiến đó được thể hiện ở bảng 1.2:
TT Hứng thú nghe giảng SL(HS) Tỷ lệ %
1 Có 40 36.7
2 Bình thường 90 60
3 Không 20 13.3
Nhìn vào bảng số liệu chúng ta thấy có 40/150 học sinh có hứng thú
nghe giảng (chiếm tỷ lệ 36.7%), mức độ bình thường có số lượng học lượng
học sinh lựa chọn nhiều nhất 90/150 học sinh (chiếm tỷ lệ 60%), có 20/150 học
sinh được hỏi lựa chọn mức độ không (chiếm tỷ lệ 13.3%).

Nhìn vào kết quả chúng ta thấy giờ giảng của giáo viên không thu hút
được hứng thú học tập của học sinh.
Thực tế dạy học chứng minh rắng, khi học sinh có hứng thú với môn học
thì kết quả học tập thu được thường rất cao, bởi khi đó các em dồn tất cả tâm
trí, trí lực của mình để tìm hiểu thế giới đa dạng, phong phú của môn học.
16
Ngược lại, nếu không khơi dạy được ở các em hứng thú với môn học thì kết
quả thu được sẽ không đạt được như mong muốn. Bởi vậy để khơi dậy được sự
hứng thú với môn học của học sinh có nhiều việc phải làm đòi hỏi sự nỗ lực,
cố gắng của người giáo viên trong dó có sự kết hợp các phương pháp, phương
tiện dạy học làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn hơn.
Nhiều học sinh có ý kiến rằng, giáo viên nên đổi mới phương pháp dạy
học, cấn cho học sinh tham gia vào bài giảng nhiều hơn trong quá trình giảng
dạy, giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình, tự đặt câu hỏi và trả lời nên
học sinh không được tham gia nhiều trong quá trình học, giáo viên nên cải tiến
phương pháp dạy học, sử dụng nhiều phương tiện dạy học hiện đại. Giáo viên
cần có cách giảng dạy dễ hiểu, không khô khan, nên liên hệ thực tiễn nhiều
hơn, lấy ví dụ hấp dẫn về các danh nhân, tình hình kinh tế chính trị, xã hội Việt
Nam và thế giới.
Bên cạnh việc điều tra thông qua ý kiến của học sinh, để có cái nhìn toàn
diện chúng tôi còn trưng cầu ý kiến của 12 giáo viên giảng dạy trong tổ bộ
môn và giáo viên trực tiếp giảng dạy môn GDCD về thực trạng sử dụng các
phương pháp giảng dạy môn GDCD ở Trường Cao Bá Quát – Gia Lâm ở bảng
1.3:
STT Đánh giá của giáo viên SL (HS) Tỷ lệ %
1 Thuyết trình 7 58.3
2 Vấn đáp, đàm thoại 7 58.3
3 Trực quan 5 41.7
4 Sử dụng phương pháp dạy học hiện đại 4 33.3
5 Kết hợp thuyết trình với CNTT&TT 3 25

Theo thống kê trên bảng 1.3 chũng tôi nhận thấy : Có 58.3% ý kiến giáo
viên đánh giá chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình. 58.3% kết hợp vấn đáp
đàm thoại do đặc trưng môn học giáo viên phải giải thích những khái niệm,
quy luật trừu tượng.
Có 41.7% ý kiến giáo viên sử dụng phương pháp dạy học trực quan,
30% ý kiến giáo viên đánh giá là có sử sụng các phương pháp dạy học hiện
đại. Theo tôi tỉ lệ này mới phản ánh có mức độ có sử dụng chứ chưa thường
xuyên vì : Thứ nhất, việc sử dụng hương tiện dạy học như máy chiếu
Overhead, máy chiếu Projector chưa đạt hiệu quả cao. Thứ hai, do việc các
phương tiện dạy học còn hạn chế, trường chỉ có 2 phòng nghe nhìn trong khi
đó chương trình của THPT có tới 12 môn học lý thuyết cần sử dụng các
17
phương tiện dạy học hiện đại. Với những lý do trên dẫn đến giáo viên ít sử
dụng các phương tiện dạy học, trừ những lúc thao giảng, hoặc dự giờ thường
xuyên.
Có 25% ý kiến đánh giá của giáo viên có kết hợp cả phương pháp dạy
thuyết trình với CNTT&TT trong giờ dạy GDCD. Kết quả cho thấy giáo viên
chưa kết hợp thường xuyên các công nghệ mới đặc biệt là CNTT trong dạy
học.
Tóm lại, qua việc tìm hiểu thực trạng dạy môn GDCD ở trường THPT
Cao Bá Quát – Gia Lâm, chúng ta thấy rằng : giáo viên tổ bộ môn ở trường
THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm đều nhiệt tình , yêu nghề ; Có nhiều cố gắng
trong dạy học bộ môn, có kết hợp các phương pháp dạy học nhằm đạt kết quả
dạy học cao. Nhưng do đặc thù của môn học nên chủ yếu vẫn chưa sử dụng
nhóm phương pháp dùng lời nói: Thuyết trình kết hợi với đàm thoại. Việc cải
tiến, đổi mới phươgn pháp dạy học vẫn còn hạn chế mặc dù đã có nhiều cố
gắng nhưng chưa đem lại hiệu quả thiết thực. Vì thế chất lượng và kết quả học
tập của học sinh chưa cao. Điều đó được thể hiện qua số liệu thống kê ở bảng
1.4 :
TT Xếp loại SL (HS) Tỷ lệ %

1 Giỏi 48 32
2 Khá 32 21.3
3 Trung bình 70 46.7
4 Yếu 0 0
5 Kém 0 0
Kết quả trên phản ánh thực trạng học tập của học sinh chưa cao, tỷ lệ
khá, giỏi còn thấp. Điều này phản ánh phần nào thực trạng dạy học môn
GDCD chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển giáo dục. Vì vậy, đòi hỏi
giáo viên phải có sự thay đổi về phương pháp dạy học, một mặt vừa nâng cao
chất lượng dạy học, mặt khác, sẽ đạt kế quả cao về chất lượng môn học, tạo
hứng thú học tập của học sinh đối với môn học.
4. Sự cần thiết kết hợp Công nghệ thông tin trong thuyết trình bài giảng
GDCD nhằm phát huy tính tích cực học tập cho học sinh Trường THPT
Cao Bá Quát – Gia Lâm.
Từ nghiên cứu thực trạng dạy và học môn GDCD Trường THPT Cao Bá
Quát – Gia Lâm chúng ta thấy: Cần phải đổi mới phương pháp dạy học truyền
thống, khắc phục những hạn chế của nó, có sự kết hợp các phương pháp và
18
phương tiện dạy học khác, đặc biệt là sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông sẽ làm cho việc dạy và học trở nên tích cực hơn.
Kết hợp sử dụng CNTT trong thuyết trình là sự đan xen của phương
pháp thuyết trình với phương tiện dạy học, đặc biệt là phương tiện dạy học
hiện đại một cách phù hợp trong từng đơn vị kiến thức bài giảng.
Để kết hợp tốt cần căn cứ và nội dung trí thức bài giảng.
Như đã khẳng định, môn GDCD là những khái niệm, phạm trù, quy luật
chung nhất được rút ra trên cơ sở của những thành tựu khoa học và hoạt động
thực tiễn.
Tri thức GDCD là những tri thức lý luận và có tính khái quát cao. Song
bất kỳ một lý luận nào dù trừu tượng và khái quát đến đâu, cũng đều xuất phát
từ thực tiễn và phản ánh thực tiễn, mà thực tiễn thì vô cùng phong phú và sinh

động. Mặt khác, môn GDCD là môn học được tổng hợp từ nhiều môn khoa
học khác nhau (Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa cã hội khoa học, Pháp
luật, Đạo đức học,…) và có mối quan hệ đặc biệt. Do đó, các khái niệm, phạm
trù cơ bản, các nguyên lý, quy luật do triết học nêu ra đều được khái quát hóa
từ những thành tựu của các khoa học tự nhiên và hoạt động thực tiễn. Chúng
không chỉ là kết quả của hoạt động trừu tượng hóa, mà là sản phẩm tổng hợp
nhất định của sự phản ảnh dưới dạng hình tượng cảm tính của con người về
hiện thực. Vậy có thể đưa những lược đồ, sơ đồ, mô hình, sự mô phỏng những
hình ảnh tĩnh và động với cả âm nhạc vào để hỗ trợ và minh họa bằng CNTT
cho bài giảng môn GDCD được không ?
Theo quan điểm của tôi là hoàn toàn có thể. Vấn đề là ở chỗ đưa cái gì,
ở thời điểm nào, liều lượng ra sao, sự kết hợp giữa các phương pháp với ngôn
ngữ, văn bản, hình ảnh như thế nào cho phù hợp nhằm là cho kiến thức bài
giảng trở nên dễ hiểu và đầy cảm xúc, có lý lẽ, có sức thuyết phục, đề cho lý
luận có khả năng gắn chặt với cuộc sống, với thực tiễn khoa học và xã hội,
phát huy tính tích cực trong dạy học triết học. Những vấn đề đó mới là những
“nút thắt” trong đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD ở thời điểm hiện
nay.
V.L. Lênin đã khẳng định: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Cần nhấn mạnh rằng. việc sử dụng các phương pháp khác nhau với sự
hỗ trợ của CNTT một cách khoa học, hài hòa không hề loại trừ phương pháp
thuyết trình, mà trái lại, chúng làm cho thuyết trình trở nên tích cực hơn, hấp
19
dẫn hơn. Không phải các mô hình, sơ đồ, hình ảnh, âm thanh,…mà chính là ở
nội dung thể hiện trong các mô hình, ký hiệu làm cho các kiến thức bị khúc xã,
méo mó. Mặt khác, chính cái “logic thuần túy”, tức những khái niệm, phán
đoán, suy luận…nếu không được sử dụng cận thận sẽ “sai một ly đi một dặm”
việc sử dụng ngôn từ và sự vi phạm những quy luật logic. Điều này cho thấy,

sự sai lệch, sự khúc xạ các khái niệm, phạm trù, quy luật, nguyên lý, đều có
khả năng xảy ra, nếu chúng ta vận dụng không phù hợp, dù chúng được diễn tả
bởi bất kỳ hình thức nào.
Sự thật, những giờ học mà chỉ có ngôn ngữ nói đóng vai trò thống trị và
những trang sách dày đặc chữ viết đã làm cho học sinh căng thẳng và khó lòng
“tiêu hóa” nổi. Vì thế, nói đến môn GDCD nhiều người thường tỏ vẻ e ngại,
cảm thấy nặng nề, phải nhăn trán suy tư, đau đầu nhức mắt.
Với đặc điểm như vậy môn học sẽ làm hạn chế sự hứng thú hoạt động
học tập của học sinh. Hoạt động học tập của học sinh là hoạt động nhận thức
có tính chất nghiên cứu. Trong quá trình học tập mỗi học sinh phải tự mình
chiếm lĩnh khối lượng tri thức khoa học cơ bản và hệ thống kỹ năng nghề
nghiệp, một lĩnh vực học tập rèn luyện mới, phức tạp, khó hơn nhiều so với
kiến thức mà họ đã được học ở bậc THCS. Hệ thống tri thức đó bao gồm tri
thức cơ bản, hệ thống kỹ năng, kỹ xảo về nghề nghiệp tương lai, về nghiên cứu
khoa học, kinh nghiệm sáng tạo và tự học. Do vậy, khi tiến hành hoạt động học
tập, học sinh không chỉ có năng lực nhận thức thông thường mà còn phải có
năng lực tự nhận thức thông thường mà còn phải có năng lực tự nghiên cứu,
tìm kiếm sáng tạo. Học sinh phải được rèn luyện thói quen, nhu cầu học tập,
tìm cho mình phương pháp học tập có hiệu quả. Muốn hoàn thành tốt quá trình
nhận thức này thì mỗi học sinh phải phát huy cao độ vai trò chủ thể của mình.
Học sinh trường THPT có đặc điểm là tư duy nhận thức của các em còn
hạn chế, phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức độ thụ động. Đặc thù tri thức môn
GDCD là những nguyên lý, quy luật, phạm trù trừu tượng, khái quát nên chỉ
bằng việc thuyết trình, giải thích những nguyên lý, quy luật, phạm trù của môn
học thì sẽ gặp nhiều khó khăn đồi với học sinh nên việc kết hợp sử dụng
CNTT với phương pháp thuyết trình sẽ giúp học sinh dễ dàng hiểu một cách
sâu sắc hơn những tri thức trừu tượng của môn học. Nhưng để thực hiện được
việc kết hợp đó, một yêu cầu đặt ra đối với giáo viên môn GDCD là phải biết
sử dụng thành thạo và phát huy được những ưu điểm của các phương tiện dạy
học hiện đại.

20
Từ thực trạng trên cho thấy, việc giảng dạy môn GDCD của giáo viên
trường THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm chỉ chủ yếu thuần túy sử dụng phương
pháp dạy học truyền thống. Mặc dù đã có những cải tiến, đổi mới nội dung và
phương pháp nhất định nhưng vẫn mang tính áp đặt, giáo điều khiến cho quá
trình dạy và học mang tính cứng nhắc, thiếu biện chứng. Với cách dạy chủ yếu
chỉ chú ý đến việc truyền đạt thông tin làm cho người học tiếp thu một cách
thụ động một chiều. Vì thế, không phát huy được tư duy sáng tạo của học sinh.
Người học chưa thể hiện được là vai trò của chủ thể nhận thức, chưa làm chủ
được kiến thức của mình trong việc vận dụng các kiến thức đó vào giải quyết
các vấn đề cụ thể của thực tiễn cuộc sống đặt ra. Các tri thức môn học chưa
chuyển hóa được thành tri thức của chính người học, chưa thể hiện được chức
năng trang bị tri thức khoa học lý luận. chưa tạo được niềm tin, định hướng
chính trị cho người học.
Vì vậy, để khắc phục những hạn chế trong giảng dạy và học tập môn
GDCD nhằm nâng cao chất lượng nhận thức môn học cần có những bước đi và
biện pháp phù hợp với khả năng tiếp cận của chủ thể học sinh.
Để có thể thực hiện được sự kết hợp giữa thuyết trình với CNTT cần
phải căn cứ vào điều kiện và phương pháp dạy học của nhà trường. Nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học, giáo viên có thể sử dụng các phương tiện dạy học
hiện đại mà học sinh của trường đã được tiếp xúc với các phương tiện dạy học
ấy: máy vi tính, máy chiếu đa năng,…Hiệu quả học tập của học sinh đã được
nâng cao nhờ vào sự hỗ trợ của các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại này.
Do vậy, giáo viên giảng dạy môn GDCD có thể sử dụng các phương tiện dạy
học hiện đại với mục đích nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh,
giảm bớt những công việc đơn điệu và nhàm chán trên lớp của giáo viên và
học sinh, kích thích tư duy sáng tạo của học sinh, giành nhiều thời gian cho
học sinh thảo luận nhay trên lớp, khắc phục những hạn chế và phát huy những
ưu điểm của các phương pháp dạy học khác. Không có một phương pháp dạy
học nào là phug hợp hoàn toàn vơid mọi học sinh. Điều giáo viên cần làm là sử

dụng những phương pháp và phương tiện dạy học khác nhau để có thể kích
thích được nhiều mặt khác nhau trong trí thông minh của người học. Biết kết
hợp phương pháp thuyết trình với CNTT sẽ là một biện pháp quan trọng làm
cho quá trình dạy và học tập môn GDCD đạt hiệu quả cao.
21
5. Các nguyên tắc chỉ đạo xây dựng quá trình dạy học môn GDCD theo
phương pháp thuyết trình có sử dụng CNTT
Thuyết trình và sử dụng CNTT trong dạy học GDCD phải bám sát
nội dung tri thức môn học.
Những nội dung đưa vào chương trình và SGK của mỗi môn học được
chọn lọc từ khối lượng tri thức đồ sộ của khoa học bộ môn, được sắp xếp một
cách logic, khoa học, đảm bảo tính sư phạm và thực tiễn cao. Bởi vậy cần bám
sát vào chương trình dạy học và SGK bộ môn. Đây là điều bất buộc tất yếu là
pháp lệnh cần phải tuân theo. Mặt khác, các kiến thức trong SGK đã được tiến
hành giảng dạy là nhằm đảm bảo tính thống nhất của nội dung dạy học trong
toàn quốc.
Để thực hiện được yêu cầu này đối với người giáo viên giảng dạy môn
GDCD trước tiên, phải nhận thức được đặc điểm tri thức môn GDCD trong
trường THPT là môn học khó, khô khan và trừu tượng. Để bài giảng đạt hiểu
qủa người giáo viên cần phải đạt các mục tiêu sau đây :
- Trang bị cho học sinh một cách tương đối có hệ thống những nội dung cơ bản
về thế giới quan và phương pháp luận của Triết học Mác-Lênin.
- Giúp học sinh biết vận dụng các nguyên lý và các quy luật cơ bản vào hoạt
động thực tiễn cũng như phân tích được những vấn đề thực tiễn của cuộc sống
đặt ra.
Trên cơ sở nắm vững đặc điểm tri thức môn GDCD, khi tiến hành giảng
dạy bằng phương pháp thuyết trình kết hợp với CNTT nhằm đảm bảo bám sát
nội dung bài học, giáo viên có thể sử dụng phương pháp thuyết trình khi giới
thiệu kiến thức, giới thiệu nội dung bài học, giới thiệu cấu trúc bài học, từ lý
thuyết đến thực tế, các khái niệm và việc ứng dụng nội dung bài học và thực

tiễn cuộc sống. Khi thuyết trình phải lựa chọn những ngôn từ trong sáng, bình
dị, gợi cảm, chính xác, dễ hiểu, tránh những từ ngữ cầu kỳ khó hiểu.
Cũng phải nói rằng tri thức môn GDCD là hệ thống tri thức lý luận
mang tính trừu tượng hóa và khái quát rất cao. Vì vậy trong giảng dạy, đòi hỏi
giáo viên phải thực tiễn để minh họa cho vấn đề lý luận hay nói cách khác là
phải gắn lý luận với thực tiễn. Để làm cho tri thức triết học, kinh tế chính trị,
chủ nghĩa xã hội khoa học…bớt tính trừu tượng, gắn với thực tiễn, bằng sự hỗ
trợ của CNTT, giáo viên có thể sử dụng những thành tựu tri thức của những
khoa học khác, những hình ảnh, sơ đồ…giúp học sinh dễ dàng nắm được
những tri thức môn học. Tuy nhiên khi giới thiệu sơ đồ, hình ảnh…cũng cần
phải chú ý :
22
Thứ nhất,việc lựa chọn thông tin, hình ảnh, đoạn phim, thiết kế sơ đồ
phải phù hợp với nội dung tri thức môn học cũng như điều kiện dạy học.
Để đảm bảo được tiêu chí này, giáo viên phải biết đánh giá và lựa chọn
thông tin, hình ảnh, đoạn phim phục vụ bài học có tính thiết thực, làm rõ nội
dung bài dạy, tránh tham lam, nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh không
phù hợp,không chuyển tải được nội dung bài học dẫn đến làm giảm hiệu quả
bài dạy.
Thiết kế sơ đồ qua phần mềm Microsoft PơerPoit và sử dụng máy chiếu
những nọi sung cơ bản đã được mô hình hóa lần lượt theo thứ tự trong thuyết
trình để học sinh theo dõi và làm sáng tỏ thêm vấn đề trình bày.
Hiện nay có những giáo viên có ý tưởng rất sáng tạo trong việc sử dụng
máy tính trong giảng dạy, nhưng trình độ tin học của họ không cho phép họ
làm được điều đó. Có một giải pháp khắc phục là người giáo viên có thể trình
bày ý tưởng thiết kế của ình và nhờ những chuyên gia thành thạo về sử dụng
máy tinhd thiết kế.
Thứ hai, lựa chọn cách trình bày nội dung bài học cho phù hợp với sơ
đồ, hình ảnh đã định.
Trong bước này, cần chú ý cách trình bày và thời điểm đưa ra sơ đồ,

hình ảnh, đoạn phim sao cho phát huy cao nhất kích thích tư duy cảm hứng của
người học làm hoạt động dạy và học trở nên tích cực có hiệu quả.
Từ những nội dung và yêu cầu trên chúng ta có thể áp dụng vào giảng
dạy cụ thể như sau :
Tiết 31 - BÀI 14.
CÔNG DÂN VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Học xong bài này học sinh cần:
1. Về kiến thức:
- Nêu được thế nào là lòng yêu nước, và biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước
- Trình bày được trách nhiệm của công dân, đặc biệt là học sinh đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Về thái độ:
- Yêu quý, bảo vệ quê hương đất nước.
- Tự hào về truyền thống quê hương.
- Có ý thức học tập, rèn luyện để góp phần bảo vệ, xây dựng quê hương đất
nước giàu đẹp.
23
3. Về kỹ năng
Biết tham gia các hoạt động xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, phù
hợp với kỹ năng của bản thân.
II. TRỌNG TÂM BÀI HỌC:
- Lòng yêu nước: Khái niệm, truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam
- Trách nhiệm học tập và rèn luyện của thanh niên, học sinh để chuẩn bị
tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
III. PHƯƠNG PHÁP – HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC
- Phương pháp đàm thoại, thuyết trình giảng giải, trực quan, nêu vấn đề.
- Phương pháp thảo luận nhóm.
- Tổ chức cho học sinh trình bày các bài hát, bài thơ, cho học sinh nghe băng,
xem hình về tình yêu quê hương đất nước.

IV. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG TIỆN
- SGK GDCD 10
- SGV GDCD 10
- Sách thiết kế bài giảng lớp 10
- Sưu tầm các bài thơ, đoạn văn , tranh ảnh, đoạn phim phù hợp với nội dung
bài giảng.
- Sử dụng máy chiếu, bảng , phấn….
V. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định lớp (2 phút)
2. Giới thiệu bài mới (5 phút)
GV: Cho học sinh chơi trò chơi “Hiểu ý đồng đội”.
Một HS A sẽ được mời ngẫu nhiên lên đứng quay mặt xuống lớp
Các cụm từ lần lượt hiện ra, các bạn dưới lớp sẽ xung phong gợi ý cho
HS A đoán từ hiện ra trên màn hình.
Yêu cầu: dùng lời nói diễn đạt sao cho không có từ nào trùng với các từ gợi ý.
Nếu vi phạm từ đó sẽ được bỏ qua.
Kết thúc trò chơi GV sẽ đặt câu hỏi: Những cụm từ trên đề cập đến nội dung gì?
Hs trả lời
GV:nhận xét và đặt vấn đề giới thiệu bài:
Mỗi người ngay từ khi sinh ra đều có một Tổ quốc của riêng mình, hai tiếng
Tổ quốc rất đổi yêu thương và trìu mến, lắng sâu vào tâm hồn mỗi chúng
24
ta.Việt Nam là Tổ quốc của cô và các em . Vậy là một người công dân Việt
Nam chúng ta cần phải làm gì để thể hiện trách nhiệm của mình trong việc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.?
Đó là nội dung mà cô và các em sẽ cùng tìm hiểu trong nội dung bài học hôm nay.
BÀI 14. CÔNG DÂN VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC
3. Dạy bài mới (30 phút)
Tiết 1

25

×