Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ TỔ CHỨC CÔNG
TÁC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ Ở DOANH NGHIỆP
Từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, để thích ứng với điều kiện
mới, cơ chế quản lý và hệ thống quản lý đã có những bước thay đổi cơ bản, trong đó có
kế toán.
Ngày nay, hệ thống thông tin kế toán phải được tổ chức đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu
cung cấp bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, cung cấp thông tin cho các nhà quản lý,
nhà đầu tư, ngân hàng, lãnh đạo doanh nghiệp ... Thông tin kế toán không chỉ hướng vào
các quá trình và các sự kiện kinh tế đã xảy ra, mà còn phải hướng đến những diễn biến
trong tương lai nhằm giúp nhà quản trị hoạch định đúng đắn phù hợp với mục tiêu đã xác
lập. Một hệ thống kế toán đáp ứng được nhu cầu thông tin như thế phải là một hệ thống
bao gồm hai phân hệ: kế toán tài chính và kế toán quản trị.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1.1. Khái niệm và bản chất của kế toán quản trị
Kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, tài
chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh
tế. Kế toán có vai trò đặc biệt quan trong không chỉ với hoạt động tài chính Nhà nước,
mà còn vô cùng cần thiết và quan trọng với hoạt động tài chính doanh nghiệp. Chức năng
của kế toán là cung cấp thông tin cần thiết về tình hình và sự vận động của tài sản trong
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cho các đối tượng sử dụng thông tin, với
các mục đích sử dụng khác nhau. Đối với một doanh nghiệp, đối tượng quan tâm đến
thông tin của doanh nghiệp rất đa dạng, tuy nhiên có thể chia làm 02 nhóm đối tượng
chính là những người ngoài doanh nghiệp và nội bộ doanh nghiệp. Đây là hai nhóm đối
tượng khác nhau nên yêu cầu về thông tin được cung cấp cũng khác nhau.
Kế toán tài chính cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Kế
toán tài chính liên quan đến quá trình báo cáo hoạt động của một tổ chức doanh nghiệp
cho các đối tượng bên ngoài thông qua các báo cáo tài chính. Mục tiêu của báo cáo tài
chính là cung cấp một bức tranh tổng thể về tình hình tài chính của doanh nghiệp như
tổng hợp về tình trạng và sự biến đổi của tài sản, cơ cấu nguồn vốn, tình hình nợ, các
khoản phải nộp, kết quả hoạt động kinh doanh và phân phối kết quả hoạt động kinh
doanh ... Qua đó, các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện được chức năng quản lý, kiểm
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 1
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
soát và đánh giá hoạt động kinh doanh của các ngành, các lĩnh vực, các nhà đầu tư, ngân
hàng ... Có thể ra các quyết định liên quan đến việc đầu tư và trợ cấp tài chính. Như vậy,
thông tin từ kế toán tài chính là công khai.
Khác với kế toán tài chính, kế toán quản trị là bộ phận cung cấp thông tin cho những
nhà quản lý tại doanh nghiệp thông qua các báo cáo kế toán nội bộ nhằm giúp các nhà
quản trị ra các quyết định điều hành sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. Tại mỗi doanh
nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh gồm nhiều quá trình và nhiều hoạt động khác
nhau. Để điều hành một cách có hiệu quả, các nhà quản trị phải có thông tin về tình hình
và kết quả của từng quá trình, từng hoạt động và toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh.
Thông tin kế toán quản trị cung cấp sẽ là cơ sở cho việc kiểm tra, phân tích đánh giá các
hoạt động và lập kế hoạch kinh doanh của các nhà quản trị. Khái niệm kế toán quản trị
được Hiệp hội Kế toán Mỹ đinh nghĩa như sau: "Kế toán quản trị là quy trình định dạng,
đo lường, tổng hợp phân tích, lập báo biểu, giải trình và thông đạt các số liệu tài chính và
phi tài chính cho ban giám đốc để lập kế hoạch, đánh giá, theo dõi việc thực hiện kế
hoạch trong phạm vi nội bộ một doanh nghiệp, đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả các
tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này" (Giáo trình KTQT - Trường Đại học kinh tế
Quốc dân).
Thông tin mà kế toán tài chính cung cấp là các tài liệu phản ánh các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh trong kỳ đã qua, cho nên số liệu có tính lịch sử, không đủ đáp ứng nhu cầu quản
lý của nhà quản trị ở trong doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường ở nướ
ta hiện nay.
Khác với kế toán tài chính, thông tin do kế toán quản trị cung cấp đặt trọng tâm cho
tương lai, đó là những thông tin cần thiết một cách trực tiếp và thường xuyên đối với nhà
quản trị. Yêu cầu của kế toán quản trị là phải xây dựng dự toán, thu nhận và xử lý thông
tin về chi phí, giá thành, thu nhập, kết quả ... của từng nhóm sản phẩm, sản phẩm, đánh
giá trách nhiệm quản lý các bộ phận, tiến hành phân tích kịp thời các thông tin làm cơ sở
cho việc đề ra những giải pháp, những quyết định đúng đắn để đối phó kịp thời với
những diễn biến của thị trường, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp.
Kế toán quản trị có quan hệ chặt chẽ với kế toán tài chính trong việc sử dụng các số
liệu chi tiết, song kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết, nhu cầu thông tin chính
của các nhà quản trị không chỉ là thông tin chi tiết mà phải là các bảng biểu, các bảng
tóm tắt, phân tích các thông tin chi tiết từ sổ sách kế toán. Khi sử dụng các báo cáo này,
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 2
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
nhà quản trị sẽ có được thông tin mà họ quan tâm. Kế toán quản trị sử dụng các báo cáo
của riêng mình để thiết kế, tổng hợp, phân tích và truyền đạt thông tin kế toán, đặt chúng
trong bối cảnh các mục tiêu đã được xác định với các tình huống khác nhau nhằm cung
cấp thông tin phù hợp, hữu ích theo yêu cầu của nhà quản trị. Nội dung thông tin mà kế
toán quản trị cung cấp cho nhà quản lý sẽ bổ sung cho phần thông tin thiếu sót mà kế
toán tài chính không cung cấp được.
Như vậy, kế toán quản trị về bản chất là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của
hệ thống kế toán, vì đều làm nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin kinh tế trong doanh
nghiệp. Kế toán quản trị trực tiếp cung cấp thông tin cho các nhà quản lý bên trong tổ
chức kinh tế - người có trách nhiệm điều hành và kiểm soát mọi hoạt động của tổ chức
đó.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của Kế toán quản trị trong việc cung cấp thông tin
- Cung cấp thông tin cho quá trình xây dựng kế hoạch (dưới hình thức dự toán)
- Cung cấp thông tin cho quá trình tổ chức thực hiện: Với chức năng tổ chức thực
hiện cùng với sự liên kết giữa con người và các nguồn lực. Kế toán quản trị sẽ cung cấp
thông tin để nhà quản lý có thể đưa ra quyết định đúng đắn nhất trong quá trình tổ chức
điều hành hoạt động kinh doanh. Để hoàn thành tốt chức năng của mình, kế toán quản trị
phải làm tốt các nhiệm vụ sau:
+ Thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo phạm vi, nội dung kế toán quản trị
của đơn vị xác định theo từng thời kỳ.
Muốn vậy kế toán phải sử dụng hệ thống các chứng từ và sổ sách để ghi chép một
cách có hệ thống hoạt động kinh doanh hằng ngày.
+ Kiểm tra, giám sát các định mức, tiêu chuẩn, dự toán.
+ Cung cấp thông tin theo yêu cầu quản trị nội bộ của đơn vị bằng báo cáo kế toán
quản trị.
+ Tổ chức phân tích thông tin phục vụ cho yêu cầu lập kế hoạch và ra quyết định của
Ban lãnh đạo doanh nghiệp.
- Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm tra, đánh giá: Phương pháp kiểm tra, đánh giá
thường được sử dụng là phương pháp so sánh. Số liệu thực hiện được so sánh với số liệu
kế hoạch, có tác dụng như một thông tin phản hồi giúp nhà quản trị nhận diện những vấn
đề còn tồn tại cần có tác động của quản lý.
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 3
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
- Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định: Ra quyết định không phải là một
chức năng riêng biệt mà là sự kết hợp cả 3 chức năng lập kế hoạch, tổ chức thực hiện,
kiểm tra và đánh giá, tất cả đều đòi hỏi phải có những quyết định.
Tuy nhiên để có thông tin cung cấp một cách có hiệu quả thì việc lựa chọn những
thông tin thích hợp, loại bỏ những thông tin không quan trọng để đáp ứng nhu cầu ra
quyết định của quản lý là cần thiết. Do đó, kế toán quản trị đã sử dụng những phương
pháp phân tích, chọn lọc những thông tin cần thiết rồi tổng hợp, trình bày chúng theo
những tiêu thức, trình tự nhất định, dễ hiểu nhất và truyền đạt các thông tin này cho nhà
quản trị doanh nghiệp.
Kế toán quản trị giúp các nhà quản lý trong quá trình ra quyết định không chỉ bằng
cách cung cấp thông tin thích hợp mà còn bằng cách vận dụng các kỹ thuật phân tích vào
những tình huống khác nhau, từ đó nhà quản lý có sơ sở để lựa chọn ra quyết định kinh
doanh thích hợp nhất với điều kiện và trình độ quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhìn chung trình tự thực hiện các công việc của Kế toán quản trị như sau:
1 2
6 3
5 4
Sơ đồ 1.1 - Trình tự thực hiện các công việc của Kế toán quản trị
1.1.3. Kế toán quản trị với các chức năng quản lý
Để điều hành các mặt hoạt động của một doanh nghiệp, trách nhiệm thựôc về các nhà
quản trị các cấp trong doanh nghiệp đó. Các chức năng cơ bản của quản lý được khái
quát bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2 - Các chức năng cơ bản của quản lý
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 4
Tình hình hoạt
động kinh doanh
Đưa ra các chỉ
tiêu cần thực hiện
Thu thập
thông tin
Ra quyết định
Truyền đạt
thông tin
Xử lý thông tin
Lập kế hoạch
Đánh giá
Ra quyết định
Thực hiện kế hoạch
Kiểm tra
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
Qua sơ đồ trên, có thể thấy sự liên tục của hoạt động quản lý từ khâu lập kế hoạch đến
thực hiện, kiểm tra, đánh giá rồi sau đó quay lại khâu lập kế hoạch cho kỳ sau, tất cả đều
xoay quanh trục ra quyết định.
Như vậy, để làm tôt chức năng quản lý, nhà quản trị phải có thông tin cần thiết để có
thể ra quyết định đúng đắn. Kế toán quản trị là nguồn chủ yếu, dù không phải là duy
nhất, cung cấp nhu cầu thông tin đó. Vai trò của kế toán quản trị thể hiện trong các khâu
của quá trình quản lý được thể hiện cụ thể như sau:
- Trong giai đoạn lập kế hoạch và dự toán: Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu
phải đạt và vạch ra các bước thực hiện để đạt được những mục tiêu đó. Dự toán cũng là
một kế hoạch nhằm liên kết các mục tiêu và chỉ rõ cách huy động, sử dụng các nguồn lực
để đạt được mục tiêu đề ra. Để chức năng lập kế hoạch và dự toán được thực hiện tốt,
đảm bảo tính khoa học và khả thi dựa trên những thông tin thích hợp, đầy đủ và có cơ sở.
Kế toán quản trị sẽ cung cấp cho các nhà quản trị những thông tin đó để lựa chọn phương
án tối ưu nhất, như chọn được sản phẩm sinh lợi cao nhất, huy động các nguồn lực hợp
lý, định được giá bán hợp lý và có tính cạnh tranh.
- Trong giai đoạn tổ chức thực hiện: Cung cấp thông tin để ra quyết định kinh doanh
đúng đắn trong quá trình điều hành, chỉ đạo thực hiện các quyết định thực hiện hhằng
ngày về tình hiành hoạt động của doanh nghiệp như tình hình tài sản, thu nhập, chi phí ...
các quyết định ngắn hạn để hỗ trợ đắc lực cho nhà quản lý trong điều hành sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện các kế hoạch đầu tư dài hạn
cũng cần phải có các thông tin cần thiết và đầy đủ.
- Trong giai đoạn kiểm tra và đanh giá: Kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch
và dự toán, xác định những sai biệt, nhà quản trị cần được các kế toán viên quản trị cung
cấp các báo cáo thực hiện để nhận diện các vấn đề còn tồn tại và cần có tác động của
quản lý. Kiểm tra và đánh giá là hai chức năng có liên quan chặt chẽ với nhau. Kế toán
quản trị sẽ cung cấp thông tin thông qua việc thiết kế các bảng báo cáo dưới dạng so sánh
được, so sánh giữa kế hoạch với quán trình thực hiện kế hoạch. Từ đó phát hiện ra những
khâu, những chỗ của kế hoạch mà thực tế không thực hiện được cũng như những chỉ tiêu
chưa hợp lý trong kế hoạch đã được lập, từ đó tìm ra nguyên nhân và phương hướng
khắc phục.
- Trong khâu ra quyết định: Các nhà quản trị cần phải có thông tin đầy đủ đáng tin cậy
và thích hợp. Để có thông tin thích hợp, đáp ứng nhu cầu thích hợp của quản lý, kế toán
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 5
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
quản trị sẽ thực hiện các nghiệp vụ phân tích chuyên môn và những thông tin này thường
không có sẵn, chọn lọc những thông tin cần thiết, thích hợp rồi tổng hợp, trình bày chúng
theo một trình tự dễ hiểu nhất và giải thích quá trình phân tích đó cho các nhà quản trị.
Ra quyết định bản thân nó không phải là một chức năng độc lập, nói cách khác thông qua
chức năng quyết định nhà quản lý thực hiện các chức năng còn lại của mình. Nhưng để ra
quyết định nhà quản lý cần rất nhiều thông tin hết sức cụ thể, chi tiết, thật đầy đủ, kịp
thời và chính xác không chỉ trong quá khứ mà còn ở hiện tại và tương lai; không chỉ đo
lường về mặt giá trị mà cả đo lường về hiện vật. Những thông tin như vậy thì phần lớn
được cung cấp bởi kế toán quản trị.
Kế toán quản trị không chỉ giúp nhà quản trị trong quá trình ra quyết định bằng cách
cung cấp thông tin thích hợp, mà còn bằng cách vận dụng các kỹ thuật phân tích vào các
tình huống khác nhau, để từ đó nhà quản trị lựa chọn ra quyết định thích hợp nhất.
Tóm lại, chu kỳ quản lý và quá trình kế toán là một chu kỳ khép kín, vận động liên tục
lặp đi lặp lại nhưng không ngừng cải tiến để nâng cao chất lượng để ngày càng quản lý
tốt hơn và doanh nghiệp kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn. Các nhà quản trị điều
hành hoạt động kinh doanh thông qua các chức năng quản lý còn Kế toán quản trị sử
dụng các phương pháp riêng có của mình để thiết kế, tổng hợp, phân tích và truyền đạt
thông tin kế toán, đặt chúng trong bối cảnh các mục tiêu đã xác định với các tình huống
khác nhau nhằm cung cấp thông tin thực sự hữu ích cho các chức năng quản trị. Kế toán
quản trị có vai trò cung cấp thông tin cho các chức năng của quản trị dưới đây:
Các chức năng quản lý Quá trình kế toán
Sơ đồ 1.3 - Mối quan hệ giữa Kế toán quản trị với các chức năng quản trị
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 6
Xác định mục tiêu
Lập kế hoạch
Tổ chức thực hiện
Kiểm tra, đánh giá
Chính thức hoá thành các chỉ tiêu kinh tế
Lập dự toán chung và các bản dự toán chi tiết
Thu thập các kết quả thực hiện
Soạn thảo báo cáo thực hiện
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
1.1.4. Các phương pháp của Kế toán quản trị
Là một bộ phận của kế toán doanh nghiệp, kế toán quản trị tất yếu cũng áp dụng các
phương pháp của kế toán nói chung, tuy nhiên việc vận dụng các phương pháp này có
đặc điểm khác so với kế toán tài chính. Kế toán quản trị được hình thành và phát triển
nhằm đáp ứng công tác quản lý nội bộ doanh nghiệp. Vì vậy, phương pháp lựa chọn tuỳ
theo điều kiện cụ thể từng doanh nghiệp.
- Phương pháp chứng từ: Bên cạnh những chứng từ theo quy định bắt buộc, kế toán
quản trị còn tự xây dựng hệ thống chứng từ theo các yêu cầu quản lý cụ thể của doanh
nghiệp. Việc thu thập, xử lý, luân chuyển chứng từ cũng được xác lập theo một cách
riêng, nhằm đảm bảo cung cấp thông tin cụ thể, nhanh chóng và thích hợp.
- Phương pháp tài khoản kế toán: Để có số liệu một cách tỷ mỷ, kế toán quản trị phải
sử dụng những tài khoản chi tiết đáp ứng yêu cầu quản lý từng chỉ tiêu cụ thể như chi tiết
tài khoản theo từng địa điểm phát sinh chi phí, từng loại sản phẩm ...
- Phương pháp tính giá: Đối với kế toán quản trị, việc tính giá các loại tài sản mang
tính linh hoạt và gắn với mục đích sử dụng các thông tin về giá theo yêu cầu quản trị
doanh nghiệp.
- Phương pháp tổng hợp cân đối: Các báo cáo kế toán - hình thức biểu hiện của
phương pháp tổng hợp cân đối trong kế toán quản trị - là các bảng cân đối bộ phận. Các
báo cáo này còn được gọi là báo cáo kế toán nội bộ được lập theo kỳ hạn ngắng hơn các
báo cáo tài chính. Ngoài các chỉ tiêu về tiền tệ, các bảng cân đối bộ phận còn sử dụng rộg
rãi các thước đo về hiện vật và thời gian lao động.
- Phân loại chi phí: Là chia nhỏ chi phí thành từng bộ phận riêng biệt theo các tiêu
thức khác nhau để nhận biết bản chất, sự biến động và tác động của từng bộ phận chi phí.
Việc phân loại chi phí theo những tiêu thức khác nhau giúp kế toán quản trị nhận diện, tổ
chức thu thập và trình bày thông tin về chi phí được phù hợp, tạo điều kiện cung cấp
thông tin theo yêu cầu quản lý.
- Phương pháp tập hợp chi phí: Để tập hợp chi phí phù hợp với đối tượng kế toán chi
phí, kế toán quản trị trước hết phải nhận diện chi phí theo khả năng quy nạp chi phí vào
các đối tượng chi phí. Tuỳ thuộc vào chi phí và khả năng quy nạp chúng, kế toán áp dụng
phương pháp tập hợp trực tiếp hay phương pháp phân bổ gián tiếp.
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 7
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
- Phương pháp trình bày chi phí: Để thuận lợi cho quá trình xử lý thông tin và cung
cấp thông tin một cách đơn giản, dể hiểu. Thông tin kế toán quản trị thương được thiết kế
dạng so sánh được, trình bày bằng bảng biểu, đồ thị và phương trình.
- Các phương pháp khác:
Do thông tin kế toán quản trị hướng về tương lai nên ngoài nguồn số liệu được xử lý
từ kế toán tài chính, kế toán quản trị còn sử dụng phương pháp thu thập thông tin từ hệ
thống hạch toán nghiệp vụ kỹ thuật, hạch toán thống kê, và sử dụng những phương pháp
của phân tích kinh doanh như phương pháp so sánh, phân tích tương quan, phương pháp
thay thế liên hoàn, phương pháp phân tổ.
Ngoài ra, Kế toán quản trị cũng sử dụng nhiều đến thông tin quá khứ khi lập dự toán,
vì đó là cơ sở để ước đoán doanh thu, chi phí và kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động
của doanh nghiệp. Do vậy, các phương pháp của kế toán quá trình cũng thường theo cách
ước đoán, mô phỏng, gần đúng, dự báo xu hướng, biến động đánh giá trên cơ sở sản xuất
trong doang nghiệp và môi trường xung quanh.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CHI PHÍ
1.2.1. Bản chất chi phí
Chi phí có thể nhìn nhận một cách trừu tượng chính là biểu hiện bằng tiền toàn bộ
những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp phải chi ra trong
một thời kỳ nhất định, hoặc là những phí tổn tài nguyên, vật chất, lao động phải phát sinh
gắn liền với mục đích kinh doanh. Đây chính là bản chất chi phí trong hoạt động của
doanh nghiệp là nó phải mất đi để đổi lấy một kết quả, kết quả có thể dưới dạng vật chất
hoặc không vật chất.
1.2.2. Phân loại chi phí
Một trong những thông tin quan trọng đối với các nhà quản lý doanh nghiệp là các
thông tin về chi phí, vì mỗi khi chi phí tăng thêm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận.
Do vậy, các nhà quản lý cần phải kiểm soát chặt chẽ chi phí của doanh nghiệp, để quản lý
được chi phí cần thiết phải làm rõ cách phân loại chi phí khác nhau trong kế toán quản trị,
vì mỗi cách phân loại chi phí đều cung cấp những thông tin dưới nhiều góc độ để nhà
quản trị ra quyết định.
Trong kế toán tài chính, chi phí được định nghĩa như một khoản hao phí bỏ ra để thu
được một số sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Bản chất của chi phí phải mất đi để lấy một
khoản thu về. Trong Kế toán quản trị, chi phí được tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 8
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
phục vụ cho yêu cầu quản trị chi phí trong doanh nghiệp. Một số cách phân loại chính là
phân loại theo chức năng hoạt động, phân loại theo cách ứng xử, phân loại theo mối quan
hệ với báo cáo tài chính (BCTC) ...
- Phân loại theo chức năng hoạt động:
Mục đích của phân loại theo chức năng hoạt động trong Kế toán quản trị là nhằm xác
định rõ vai trò, chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh ở doanh nghiệp, đồng thời là căn cứ để tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm
cũng như cung cấp thông tin một cách có hệ thống cho việc lập các báo cáo tài chính.
Theo cách phân loại này, chi phí bao gồm:
+ Chi phí sản xuất: Là toàn bộ chi phí có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hoặc
cung cấp dịch vụ phục vụ trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất gồm 3 khoản
mục sau: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp
- Chi phí sản xuất chung
+ Chi phí ngoài sản xuất: Là những chi phí phát sinh ngoài sản xuất liên quan đến
quản lý và tiêu thụ như chi phí bán hàng (CPBH), chi phí quản lý doanh nghiệp
(CPQLDN).
- Phân loại theo mối quan hệ với Báo cáo tài chính:
Bao gồm:
+ Chi phí sản phẩm: Là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đơn vị sản phẩm
được sản xuất ra bởi một doanh nghiệp sản xuất hoặc được mua vào bởi một doanh
nghiệp thương mại.
+ Chi phí thời kỳ: Là những chi phí khi nó phát sinh làm giảm lợi tức của doanh
nghiệp.
Tuy nhiên cả hai cách trên chỉ mới nhận diện được chi phí theo những tiêu thức khác
nhau nhưng chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa chi phí và mức độ hoạt động. Vì vậy,
người ta sử dụng một cách phân loại nữa và là cách sử dụng chính trong kế toán quản trị,
phân loại theo cách ứng xử của chi phí.
- Phân loại theo cách ứng xử:
Đây là cách phân loại chi phí theo khả năng phản ứng hoặc thay đổi như thế nào của
chi phí khi có những thay đổi xảy ra trong các mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo cách phân loại chi phí nay, chi phí được chia thành ba loại:
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 9
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
+ Chi phí khả biến (biến phí): Là những chi phí mà về mặt tổng số sẽ thay đổi tỷ lệ
thuận với sự thay đổi của mức độ hoạt động của doanh nghiệp nhưng chi phí tính cho
từng đơn vị sản phẩm thì hầu như không thay đổi.
+ Chi phí bất biến (định phí): Là những chi phí mà xét về tổng số sẽ không thay đổi
khi mức độ hoạt động thay đổi nhưng chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm sẽ thay đổi tỷ
lệ nghịch với sự thay đổi của mức độ hoạt động.
+ Chi phí hỗn hợp: Là những chi phí bao hàm cả yếu tố biến phí và định phí. Ở mức
độ hoạt động này, chi phí biểu hiện đặc điểm của định phí nhưng ở một mức độ hoạt
động khác chi phí biểu hiện đặc điểm của biến phí.
Ngoài ra, còn có các cách phân loại chi phí khác nhằm mục đích ra quyết đinh như:
- Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp:
+ Chi phí trực tiếp: Là những chi phí tự bản thân nó hiển nhiên được chuyển vào đơn
vị sản phẩm hoặc dịch vụ, lao vụ.
+ Chi phí gián tiếp: Là những chi phí phải được phân bổ vào từng đơn vị sản phẩm,
dịch vụ, lao vụ.
- Chi phí chênh lệch: Là những chi phí hiện diện trong phương án này nhưng chỉ hiện
diện một phần hoặc hoàn toàn không có mặt trong phương án khác.
- Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được: Là những khoản chi phí
phản ánh phạm vi quyền hạn của nhà quản trị các cấp với chi phí đó. Một chi phí được
xem là kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó nếu cấp này có thẩm quyền định ra chi
phí đó. Ngược lại, chi phí được xem là chi phí không kiểm soát được ở một cấp quản lý
nào đó nếu cấp này không có thẩm quyền định ra chi phí đó.
- Chi phí cơ hội và chi phí chìm:
+ Chi phí cơ hội: Là lợi nhuận tiềm tàng bị mất hoặc hi sinh khi chọn một phương án
này để thay thế một phương án khác.
+ Chi phí chìm: Là những chi phí phát sinh trong quá khứ mà doanh nghiệp phải chịu
và vẫn còn phải chịu trong tương lai bất kể doanh nghiệp lựa chọn phương án kinh doanh
nào.
1.3. TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG DOANH NGHIỆP
Tại Việt Nam, kế toán quản trị vẫn là lĩnh vực khá mới mẻ tại các doanh nghiệp. Tuy
nhiên trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thì yêu cầu phải tổ chức bộ
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 10
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
phận kế toán quản trị đã trở nên đặc biệt cấp thiết. Để thực hiện được công tác kế toán
quản trị tại mỗi doanh nghiệp, các công việc chính cần triển khai là:
- Tổ chức bộ máy đảm nhận công tác kế toán quản trị
- Tổ chức thu nhận thông tin
- Xây dựng nội dung công việc kế toán quản trị
- Thiết lập hệ thống báo cáo kế toán quản trị
Mối quan hệ giữa kế toán quản trị với kế toán tài chính: Kế toán quản trị và kế toán
tài chính là hai bộ phận của hệ thống kế toán trong tổ chức. Kế toán tài chính hay kế toán
quản trị đều làm nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin kinh tế, tài chính trong doanh
nghiệp. Giữa chúng có mối quan hệ sau đây:
- Cả hai cùng liên hệ với hệ thống thông tin kế toán. Kế toán tài chính cung cấp thông
tin tổng quát, kế toán quản trị sử dụng rộng rãi các số liệu ghi chép hằng ngày của kế
toán tài chính nhằm cụ thể hoá các số liệu, phân tích một cách chi tiết để phục vụ yêu cầu
quản lý cụ thể.
- Cả hai đều gắn với trách nhiệm quản lý trên các góc độ khác nhau. Kế toán tài chính
liên quan đến trách nhiệm quản lý chung, toàn doanh nghiệp còn kế toán quản trị liên
quan đến trách nhiệm quản lý ở từng bộ phận, từng hoạt động, từng loại chi phí, thu nhập
và kết quả cụ thể ... Song chúng có sự bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phục vụ mục đích
quản lý và phát triển doanh nghiệp.
1.3.1. Tổ chức bộ máy kế toán quản trị
Xuất phát từ yêu cầu thông tin của kế toán quản trị chỉ dùng để phục vụ cho các nhà
quản trị tại doanh nghiệp trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh
nghiệp, cho nên việc tổ chức bộ máy kế toán quản trị của doanh nghiệp phải phù hợp với
đặc điểm hoạt động, quy mô đầu tư và địa bàn tổ chức sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Bộ máy kế toán phải gọn nhẹ, khoa học, hợp lý và hiệu quả cao trong việc cung
cấp thông tin cho bộ máy lãnh đạo của doanh nghiệp.
Tuỳ theo quy mô hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp lựa chọn phưông thức
tổ chức bộ máy kế toán quản trị. Đối với doanh nghiệp có quy mô hoạt động lớn có thể tổ
chức một bộ phận chuyên đảm trách kế toán quản trị, ngược lại, với các doanh nghiệp có
quy mô nhỏ, phần hành kế toán quản trị có thể do các kế toán viên của phần hành kế toán
tài chính kiêm nhiệm. Cho dù lựa chon phương thức tổ chức riêng biệt hay kết hợp phần
hành kế toán quản trị với kế toán tài chính thì yêu cầu công tác kế toán quản trị vẫn phải
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 11
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
đảm bảo thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ là lập dự toán, phân tích, lập báo cáo kế toán
quản trị, xem xét đánh giá các dự án và cung cấp thông tin cho lãnh đạo ra quyết định. Có
thể tổ chức bộ máy kế toán quả trị theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.4 - Tổ chức bộ máy kế toán quản trị
Trong đó nhiệm vụ của bộ phận lập dự toán là tập hợp chi phí, phân tích biến phí,
định phí, xây dựng các phương trình tính chi phí hỗn hợp, lập kế hoạch giá thành, giá
bán, lập dự toán, phận tích mối quan hệ chi phí - sản lượng - lợi nhuận (CVP), phân tích
thông tin hỗ trợ việc ra quyết định của nhà quản lý.
Bộ phận phân tích giá có nhiệm vụ lấy báo cáo kế toán quản tri, so sánh, đánh giá kết
quả thực hiện với kế hoạch đề ra, tìm ra nguyên nhân gây ra biến động. Kế toán viên sẽ
xem xét chi phí, sản lượng tiêu thụ trong kỳ thực tế chênh lệch như thế nào so với kế
hoạch, từ đó đề xuất phương án sửa đổi cho nhà quản trị.
Bộ phận tư vấn dự cán có nhiệm vụ phân tích, đánh giá tính khả thi của các dự án đầu
tư như sản xuất sản phẩm mới, mua sắm tài sản cố định và đề xuất các giải pháp.
1.3.2. Tổ chức thu nhận thông tin
Thông tin kế toán quản trị là các số liệu tài chính và số liệu vật chất về các mặt hoạt
động, các quá trình, các đơn vị kinh doanh, các loại sản phẩm, dịch vụ, khách hàng ... của
một tổ chức.
Muốn công tác kế toán quản trị tại doanh nghiệp đạt hiệu quả thì trước hết phải tổ
chức được hệ thống thông tin cung cấp cho kế toán quản trị. Vì vậy phải tổ chức thu thập
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 12
KẾ TOÁN
KẾ TOÁN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN QUẢN
TRỊ
Bộ
phận
dự
toán
Bộ
phận
phân
tích,
đánh
giá
Bộ
phận
tư
vấn
dự
án
Bộ
phận
tổng
hợp
Bộ
phận
kế
toán
chi
phí
Bộ
phận
phải
thu,
phải
trả
Bộ
phận
kế
toán
tài
sản
Bộ
phận
kế
toán
nguồn
vốn
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
từ các đơn vị sản xuất. Bên cạnh đó, còn phải xây dựng mối liên hệ thông tin với bộ phận
kế toán tài chính, với các phòng ban chức năng khác.
Để thu nhận thông tin thì phải tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên
trong tổ chức để thu nhận thông tin cho phù hợp.
- Đối với công nhận trực tiếp sản xuất hay nhà quản trị cấp cơ sở thì thông tin cần
được cung cấp hằng ngày ngay sau mỗi công việc hoàn thành để người công nhận đánh
giá được những chênh lệch giữa thực hiện so với định mức hoặc với thực hiên trước đây.
Vì vậy, cần thu nhận những thông tin như: Thông tin số lượng về các yếu tố đầu vào mà
họ đã sử dụng: số lượng nguyên liệu, vật liệu, thời gian lao động hap phí; kết quả đạt
được: Số lượng sản phẩm hoàn thành, số lượng sản phẩm có khiếm khuyết phải làm
lại ....
- Đối với cấp quản lý trung gian như giám đốc các đơn vị trực thuộc, giám đốc một bộ
phận, thông tin cần được cung cấp là thông tin cả về số lượng lẫn thông tin chi phí về các
nguồn lực đã sử dụng và kết quản đạt được để họ đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng
các nguồn lực và nhận biết nên phân bổ các nguồn lực như thế nào để đạt được kết quả
cao nhất.
- Đối với cấp quản lý cáo nhất như Tổng Giám đốc, Uỷ viên hội đồng quản trị thì
thông tin cần cung cấp là những thông tin về cơ hội thị trường, các nguy cơ cạnh tranh,
thông tin về sự hài lòng của khách hàng đối với sản phẩm cũng như đối với thái độ phục
vụ hậu mãi của tổ chức và các tiến bộ về công nghệ có liên quan ... Đây là những thông
tin có tính chiến lược nhằm định hướng các quyết định phát triển lâu dài của tổ chức.
1.3.2.1. Tổ chức theo dõi chi phí
Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì quy trình sản xuất thường diễn ra tại các phân
xưởng, các tổ sản xuất. Việc tổ chức theo dõi chi phí ở mỗi đơn vị sản xuất riêng thì chi
phí sẽ được theo dõi chặt chẽ hơn. Khi thực tế sai lệch so với kế hoạch thì kế toán cũng
dễ dàng tìm ra sai lệch ở bộ phận nào, nguyên nhân dẫn đến sai lệch. Vì vậy để quản lý
chặt chẽ chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, đồng thời thuận lợi cho công tác tập
hợp chi phí của kế toán quản trị, cần phải lập bảng theo dõi chi phí tại các đơn vị sản
xuất, ghi nhận tất cả chi phí phát sinh tại mỗi đơn vị sản xuất như:
- Sổ theo dõi chi phí vật liệu trực tiếp tại phân xưởng.
- Sổ theo dõi chi phí nhân công trực tiếp tại phân xưởng.
- Sổ theo dõi chi phí sản xuất chung tại phân xưởng.
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 13
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
- Phiếu tính giá thành công việc.
- vv ...
Bảng 1.1 - Sổ theo dõi vật liệu trực tiếp tại xí nghiệp
Đối tượng: ...
Từ ngày ... đến ngày ...
Chứng từ
Diễn giải TKĐƯ
Phát sinh nợ
Tổng cộng
Số Ngày PX X PX Y PX Z PX N
Cộng PSN
Cộng PSC
Tổng cộng
Bảng 1.2 - Sổ theo dõi chi phí nhân công trực tiếp tại xí nghiệp
Đối tượng: ...
Từ ngày ... đến ngày ...
Chứng từ
Diễn giải TKĐƯ
Phát sinh nợ
Tổng cộng
Số Ngày PX X PX Y PX Z PX N
Cộng PSN
Cộng PSC
Tổng cộng
Bảng 1.3 - Phiếu tính giá thành công việc
Doanh nghiệp:.................................................................................................................
(Tên khách hàng):............................(Địa chỉ)......................(Ngày đặt hàng) .............
Loại sản phẩm:...................................Ngày bắt đầu sản xuất:......................................
Mã số công việc:.................................(Ngày hẹn giao hàng) ......................................
Số lượng sản xuất:.............................Ngày hoàn thành: .............................................
Diễn
giải
Nguyên liệu,
vật liệu trực tiếp
Nhân công
trực tiếp
Chi phí sản xuất
chung
Tổng
chi
phí
Số lượng SP
hoàn thành
Chứng từ
Số
tiền
Chứng từ
Số
tiền
Tỷ lệ Căn
cứ
Số
phân
Chứng từ
Ngày
Số
hiệu
Ngày
Số
hiệu
Ngày
Số
hiệu
Giá thành
đơn vị
× × × × × × ×
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 14
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
Còn đối với các doanh nghiệp thương mại thì chi phí phát sinh chủ yếu trong giai
đoạn mua hàng và bán hàng. Vì vậy cũng phải theo dõi chi phí mua hàng và bán hàng
theo từng mặt hàng. Trong nhiều trường hợp không thể theo dõi chi phí cho từng mặt
hàng, từng nhóm hàng thì phải theo dõi chi phí chung rồi phân bổ cho từng mặt hàng
hoặc nhóm hàng cụ thể.
1.3.2.2. Xây dựng mối liên hệ thông tin giữa kế toán quản trị với kế toán tài chính
Trong công tác kế toán quản trị, kế toán viên phải sử dụng thông tin từ nhiều nguồn
cung cấp, trong đó nguồn thông tin chủ yếu do kế toán tài chính cung cấp. Chẳng hạn,
nhiệm vụ của kế toán dự toán là tính biến phí, định phí rồi phân tích CVP, lập các bảng
kế hoạch, tuy nhiên việc tính toán chi phí và lập dự toán có khi không sát với thực tế. Vì
thế, kế toán dự toán cần dựa vào các báo cáo thực tế của kế toán tài chính cung cấp để có
được số liệu chính xác cho kỳ tiếp theo như số liệu số lượng hàng tiêu thụ, về chi phí, giá
thành ... Các báo cáo thực tế này sẽ giúp cho việc lập dự toán có ý nghĩa và hiệu quả hơn.
Khi phân tích đánh giá, kế toán viên so sánh số liệu thực tế về lượng hàng hoá tiêu
thụ, chi phí và giá thành sản phẩm ... với số liệu dự toán. Tìm ra điểm khác biệt và
nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch giữ thực tế và kế hoạch, từ đó mới đề xuất hướng sửa
đổi.
Như vậy, yêu cầu cấp thiết khi xây dựng kế toán quản trị ở doanh nghiệp là phải xây
dựng "con đường" thu nhận thông tin từ kế toán tài chính phục vụ cho công tác kế toán
quản trị một cách ngắn nhất, nhanh chóng và thuận lợi nhất.
Nếu như kế toán tài chính liên quan đến trách nhiệm quản lý chung toàn doanh
nghiệp, thì kế toán quản trị liên quan đến trách nhiệm quản lý từng bộ phận, từng hoạt
động sản xuất kinh doanh hay từng loại chi phí, kết quả ... Kế toán quản trị cần các số
liệu chi tiết khi tiến hành xử lý công việc. Do đó, để thuận lợi hơn cho việc kết xuất số
liệu kế toán tài chính phục vụ cho công tác kế toán quản trị, kế toán viên cần phải mở sổ
chi tiết và tài khoản chi tiết phản ánh doanh thu, chi phí kết quả theo sản phẩm, nhóm sản
phẩm, địa điểm ... Tuỳ thuộc vào đặc điểm yêu cầu thông tin của từng doanh nghiệp cụ
thể.
Điều này có ý nghĩa to lớn đối với việc xây dựng kế hoạch giá thành, giá bán, phận
tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của các khoản mục chi phí, phân tích CVP
cũng như đánh giá trách nhiệm của từng bộ phận.
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 15
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
1.3.2.3. Xây dựng mối liên hệ thông tin giữa kế toán quản trị với các bộ phận chức
năng khác
Kế toán quản trị thường xuyên phải sử dụng một khối lượng thông tin phong phú
được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau. Bao gồm các thông tin thực tế xảy ra và các
thông tin dự đoán của tương lai. Bên cạnh nguồn số liệu được cung cấp từ kế toán tài
chính, kế toán quản trị cần xây dựng mối liên hệ thông tin với các phòng ban khác. Mối
liên hệ đó được thể hiện như sau:
Để tạo được mối liên hệ thông tin thường xuyên liên tục, kế toán quản trị cần thiết lập
các mẫu báo cáo định kỳ giữa kế toán quản trị và các phòng ban liên quan, bên cạnh đó
các báo cáo đột xuất khi có yêu cầu.
Kế toán quản trị Nhận thông tin Cung cấp thông tin
Bộ phận dự
toán
Nhận các thông tin kế hoạch về
số lượng hàng hoá, giá bán từ
phòng kinh doanh, thông tin về
định mức NVL, nhân công từ
phòng kỹ thuật, tình hình vật tư
từ phòng vật tư, tình hình sản
xuất của các phân xưởng ...
Cung cấp các dự toán cho
các phòng ban, phân xưởng
làm căn cứ tổ chức hoạt
động.
Cung cấp các thông tin về dự
toán giá thành, giá bán, phận
tích CVP cho lãnh đạo và câc
phong liên quan.
Bộ phận
Phân tích,
đánh giá
Nhận các báo cáo thực hiện của
các bộ phận để tiến hành phân
tích, đánh giá hoạt động của các
trung tâm trách nhiệm.
Cung cấp thông tin kết quả
phân tích đánh giá cho các bộ
phận kịp thời điều chỉnh hoạt
động
Bộ phận tư vấn
dự án
Nhận thông tin từ phòng kế
hoạch, tổ chức nhân sự và bán
giám đốc về các dự án.
Cung cấp thông tin phân tích
các phương án khác nhau của
dự án.
Để tạo được mối liên hệ thông tin thường xuyên liên tục, kế toán quản trị cần thiết lập
các mẫu báo cáo định kỳ giữa kế toán quản trị và các phòng ban liên quan, bên cạnh các
báo cáo đột xuất khi có yêu cầu.
1.3.3. Nội dung công tác kế toán quản trị ở doanh nghiệp
1.3.3.1. Nhận diện và phân loại chi phí
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 16
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
Chi phí được định nghĩa như một khoản hao phí bỏ ra để đạt được một mục đích nào
đó. Khoản hao phí này có thể bằng tiền hoặc một phương tiện khác.
Trong các doanh nghiệp sản xuất có rất nhiều loại chi phí phát sinh, bao gồm những
loại chủ yếu sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là chi phí của những loại nguyên liệu cấu thành
thực thể sản phẩm, có giá trị lớn và có thể xác định đuợc một cách tách biệt, rõ ràng, cụ
thể cho từng sản phẩm.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Là chi phí tiền lương của những lao động trực tiếp chế
tạo sản phẩm. Tại các doanh nghiệp, hình thức trả lương phổ biến là trả lương theo khối
lượng công việc cho tất cả công nhân trực tiếp làm ra sản phẩm.
- Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí cần thiết khác dể sản xuất sản phẩm,
ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp; bao gồm:
+ Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp: Là những yếu tố vật chất không tạo nên thành
phẩm chính của sản phẩm.
+ Chi phí lao động gián tiếp: Là các chi phí tiền lương của tất cả lao động gián tiếp
như: Đốc công, nhân viên kỹ thuật phân xưởng, nhân viên bảo vệ phân xưởng...
+ Các chi phí khác gồm chi phí khấu hao phân xưởng, chi phí khấu hao máy móc
thiết bị, chi phí điện, nước dùng trong phân xưởng, chi phí bảo hiểm cháy nổ ...
Ngoài ra, để tổ chức và thực hiện tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp còn phải thực hiện
một số khoản phí ngoài sản xuất là chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Trong đó chi phí bán hàng gồm chi phí tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại, chi phí vận
chuyển, đóng gói bao bì sản phẩm, lương nhân viên bán hàng, tiền hoa hồng bán hàng ...
Chi phí quản lý doanh nghiệp gồm lương cán bộ quản lý, tiền điện, điện thoại dùng cho
quản lý văn phòng ...
Đối với các doanh nghiệp thương mại thì chi phí không bao gồm chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung vì một doanh nghiệp
thương mại chi phí phát sinh gắn liền với quá trình vận động hàng hoá từ khâu mua hàng
đến khâu tiêu thụ hàng. Các loại chi phí chủ yếu trong một doanh nghiệp thương mại là:
- Giá vốn hàng bán gồm giá trị mua hàng theo hoá đơn và chi phí mua hàng như chi
phí vận chuyển, bốc xếp, chi phí lưu kho bãi, chi phí hao hụt ...
- Chi phí tiền lương
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 17
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
- Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: Là những khoản trả
ngoài lương cho người lao động, nhưng không trả trực tiếp cho cán bộ công nhân viên
mà nộp lên cho cơ quan bảo hiểm xã hội quản lý. Chi phí được tính theo lương cơ bản.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: Nhà cửa, máy vi tính, máy photocopy ...
- Chi phí mua ngoài gồm tiền điện, điện thoại, tiền nước dùng cho Văn phòng công ty.
- Phí công tác.
- Chi phí văn phòng phẩm: Giấy, mực in ...
- Chi phí lãi vay, chi phí dịch vụ chuyển tiền, phí thanh toán L/C (đối với các doanh
nghiêph có hoạt động xuất - nhập khẩu) ...
- Chi phí dự phòng phải thu khó đòi, chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn kho ...
- Chi phí quảng cáo, marketing.
- Thuế và lệ phí.
...........
1.3.3.2. Lập kế hoạch giá thành và định giá bán sản phẩm
Hiện nay, công việc lập kế hoạch giá thành và định giá bán sản phẩm là một trong
những nội dung cơ bản nhát của Kế toán quản trị đặc biệt là trong các doanh nghiệp sản
xuất. Có nhiều phương pháp để xác định giá thành, giá bán, song đều xuất phát từ nguyên
tắc chung: Giá bán phải bù đắp được tất cả các chi phí bỏ ra của doanh nghiệp gồm chi
phí sản xuất, chi phí bảo hiểm và chi phí quản lý doanh nghiệp.
+ Phương pháp tính giá thành: Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
đánh giá chất lượng nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh một cách tổng quát
về mặt kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Giá thành là cơ sở để định giá
bán sản phẩm, là cơ sở để đánh giá hạch toán kinh tế nội bộ, phân tích chi phí, đồng thời
còn là căn cứ để xác định kết quả kinh doanh.Vì vậy, cần phải tính toán giá thành một
cách chính xác và hợp lý.
- Ở doanh nghiệp sản xuât: Giá thành sản phẩm chính là toàn bộ chi phí để sản xuất
một sản phẩm, bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi
phí sản xuất chung. Trong đó, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực
tiếp là chi phí thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuât, có thể mở sổ theo dõi chi tiết
cho từng mặt hàng. Riêng đối với chi phí sản xuất chung, doanh nghiệp có thể lựa chọn
tiêu thức phân bổ phù hợp như số lượng sản phẩm sản xuất, thời gian lao động ...
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 18
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
- Ở doanh nghiệp thương mại: Già thành sản phẩm chính là giá vốn hàng xuất bán và
được xác định:
Giá vốn hàng xuất bán = Giá mua hàng xuất kho
Các phương pháp tính giá hàng xuất kho trong các doanh nghiệp thương mại thông
thường sủ dụng một trong bốn phương pháp sau:
- Phương pháp Nhập trước - Xuất trước (FIFO).
- Phương pháp Nhập sau - Xuất trước (LIFO).
- Phương pháp Bình quân gia quyền.
- Phương pháp Thực tế đích danh.
+ Phương pháp định giá bán: Có nhiều phuơng pháp định giá bán sản phẩm, thông
thường người ta áp dụng phương pháp định giá theo chi phí cộng thêm.
Giá bán được áp dụng như sau:
Giá bán = chi phí nền + phần chi phí cộng thêm
Trong đó chi phí cộng thêm được tính theo một tỷ lệ % nhất định dựa trên chi phí nền.
Có 2 cách xác định chi phí nền là phương pháp toàn bộ và phương pháp trực tiếp (hay
phuơng pháp biến phí), do đó chi phí cộng thêm cũng có hai cách xác định tương ứng.
a) Đối với phương pháp toàn bộ: Ứng dụng cách phân loại chi phí theo chức năng
hoạt động.
Giá được tính: Giá bán = chi phí nền + chi phí cộng thêm
Trong đó:
- Chi phí nền bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,
chi phí sản xuất chung.
- Chi phí cộng thêm (CPCT) là khoản bù đắp chi phí bán hàng (CPBH), chi phí quản
lý doanh nghiệp (CPQLDN), mức hoàn vốn hợp lý.
CPCT = Tỷ lệ CPCT × Tổng chi phí nền
CPBH + CPQLDN + Mức hoàn vốn
Tỷ lệ chi phí cộng thêm = × 100%
Tổng chi phí nền
Mức hoàn vốn = ROI × Vốn đầu tư
b) Đối với phương pháp biến phí: Ứng dụng cách phân loại chi phí theo cách ứng xử
của chi phí.
Giá được tính: Giá bán = chi phí nền + chi phí cộng thêm
Trong đó:
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 19
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
- Chi phí nền bao gồm biến phí sản xuất, biến phí bán hàng, biến phí quản lý doanh
nghiệp.
- Chi phí cộng thêm là khoản bù đắp định phí, bao gồm định phí sản xuất, định phí
bán hàng, định phí quản lý doanh nghiệp và mức hoàn vốn.
CPCT = Tỷ lệ CPCT × Tổng chi phí nền
Định phí + Mức hoàn vốn
Tỷ lệ chi phí cộng thêm = ×100%
Tổng chi phí nền
Mức hoàn vốn = ROI × Vốn đầu tư
Tuy nhiên, việc xác định giá bán còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tác động của thị
trường, tính độc quyền của sản phẩm, mục tiêu của nhà quản lý ...
1.3.3.3. Lập dự toán tổng thể
Dự toán là những dự kiến chi tiết chỉ rõ cách huy động và sử dụng vốn và các nguồn
lực khác theo từng định kỳ và được biểu diễn một cách có hệ thống dưới dạng số lượng
và giá trị. Dự toán là chức năng không thể thiếu được đối với các nhà quản lý trong môi
trường cạnh tranh ngày nay. Trong Kế toán quản trị, dự toán là nội dung quan trọng nhất,
nó thể hiện mục tiêu, nhiệm vụ của doanh nghiệp, của từng bộ phận đồng thời dự toán
còn là cơ sở để kiểm tra kiểm soát cũng như ra quyết định trong doanh nghiệp. Do vậy,
dự toán phải được xây dựng cho toàn doanh nghiệp và cho từng bộ phận trong doanh
nghiệp.
Dự toán tổng thể là tổ hợp của nhiều dự toán của mọi hoạt động của doanh nghiệp, có
liên hệ với nhau trong một thời kỳ nào đó. Dự toán tổng thể có thể lập cho nhiều kỳ như
tháng, quý, năm.
Trình tự xây dựng dự toán tổng thể trong một doanh nghiệp sản xuất được biểu diễn
quan sơ đồ sau:
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 20
Dự toán tiêu thụ
Dự toán tồn
kho cuối kỳ
Dự toán sản
xuất
Dự toán
CPBH&QLDN
Dự toán chi
phí tài chính
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
Sơ đồ 1.5 - Sơ đồ dự toán tổng thể
- Dự toán tiêu thụ: Là khởi điểm đầu tiên của quy trình lập dự toán tổng thể, được
xem là nền tảng của dự toán tổng thể doanh nghiệp. Dự toán này sẽ là cơ sở để lập các dự
toán tiếp theo, vì vậy nếu lập dự toán tiêu thụ không chính xác thì sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng của dự toán tổng thể. Dự toán tiêu thụ được lập trên dự báo tiêu thụ. Dự toán tiêu
thụ trình bày số lượng sản phẩm và doanh thu tiêu thụ trong kỳ. Để lập được dự toán tiêu
thụ cần dựa vào các căn cứ sau:
+ Số liệu về sản phẩm và doanh thu tiêu thụ ở kỳ trước.
+ Chính sách bán hàng của doanh nghiệp trong tương lai.
+ Các yếu tố về tự nhiên, kinh tế, chính trị, pháp lý ...
Để phục vụ cho việc lập dự toán Tiền mặt thì cần kèm theo bảng dự toán tiêu thụ
sản phẩm, lượng tiền tiêu thụ trong kỳ có liên quan đến việc bán hàng.
Số tiền thu trong Doanh thu Doanh thu bán chịu
kỳ liên quan đến = bán hàng thu + ở kỳ trước thu được
bán hàng tiền ngay ở kỳ này
- Dự toán sản xuất: Kế hoạch sản xuất là cơ sở để lập dự toán sản xuất. Dự toán sản
xuất được lập nhằm xác định số lượng, chủng loại sản phẩm sản xuất trong kỳ.
Số lượng sản Số lượng sản Số lượng sản Số lượng sản
phẩm cần sản = phẩm tiêu thụ + phẩm tồn kho - phẩm tồn kho
xuất thụ dự kiến cuối kỳ đầu kỳ dự kiến
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 21
Dự toán
CPNVLTT
Dự toán
CPNCTT
Dự toán
CPSXC
Dự toán giá vốn hàng bán
Dự toán tiền mặt
Dự toán báo
cáo KQHĐKD
Dự toán bảng
cân đối kế toán
Dự toán lưu
chuyển tiền tệ
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
Đối với doanh nghiệp thương mại không lập dự toán sản xuất, thông thường là lập dự
toán mua hàng. Dựa vào bảng dự toán sản xuất trên, ta có thể lập dự toán mua hàng cho
các doanh nghiệp thương mại dưới đây:
Số lượng Số luợng Số lượng hàng Số lượng hàng
hàng hoá cần = hàng hoá tiêu + hoá tồn kho - hoá tồn kho
mua kỳ này thụ dự kiến cuối kỳ dự kiến đầu kỳ
- Dự toán tồn kho cuối kỳ: Dự toán tồn kho cuối kỳ được lập sẽ cung cấp số liệu về
giá trị hàng tồn kho vào lúc cuối kỳ (gồm có nguyên vật liệu và thành phẩm trong doanh
nghiệp sản xuất và hàng hoá trong doanh nghiêph thương mại) để doanh nghiệp lập Bảng
cân đối kế toán. Đồng thời nó cũng cung cấp thông tin về giá vốn của hàng xuất bán
trong kỳ để doanh nghiệp trình bay trên Bảng kết quả kinh doanh.
- Dự toán giá vốn hàng bán: Trên cơ sở xác đinh được dự toán tiêu thụ, dự toán giá
vốn hàng bán được xác định như sau:
Dự toán giá Số lượng Đơn giá mua
vốn hàng bán = hàng hoá dự × hàng xuất bán
trong kỳ kiến tiêu thụ trong kỳ
- Dự toán chi phí bán hàng (CPBH) và quản lý doanh nghiệp (QLDN): Tuỳ điều kiện
cụ thể của doanh nghiệp có thể tách riêng chi phí BH và chi phí QLDN thành 2 bảng dự
toán khác nhau. Về cấu trúc chi phí, chi phí BH và chi phí QLDN gồm 2 phần biến phí và
định phí.
Dự toán biến phí
BH&QLDN
trong kỳ
=
BH&QLDN
đơn vị
×
Số lượng hàng
hoá dự kiến tiêu
thụ trong kỳ
Dự toán định phí
BH&QLDN trong kỳ
= Định phí BH + Định phí QLDN
Dự toán chi phí
BH&QLDN
Trong kỳ
=
Dự toán
biến phí
BH&QLDN
+
Dự toán
định phí
BH&QLDN
- Dự toán tài chính: Chi phí tài chính bao gồm chi phí lãi vay, chi phí mua cổ phiếu,
trái phiếu, chi phí đầu tư dài hạn khác, chi phí thuê tài chính ... Nhưng tại các doanh
nghiệp chủ yếu là chi phí lãi vay.
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 22
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
- Dự toán báo cáo kết quả kinh doanh: Trên cơ sở các báo cáo dự toán bộ phận đã lập,
bộ phận Kế toán quản trị lập dự toán báo cáo kết quả kinh doanh. Số liệu dự toán trên báo
cáo này thể hiện kỳ vọng của nhà quản lý doanh nghiệp và đồng thời là công cụ ra quyết
định về quản trị, nó cũng là cơ sở đánh giá tình hình thực hiện dự toán đề ra. Trong bảng
dự toán này cần trình bày doanh thu trong từng kỳ và các chi phí tương ứng với các sản
phẩm tiêu thụ trong kỳ, từ đó tính ra các chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau
thuế trong kỳ.
- Dự toán tiền mặt: Là bảng dự toán chi tiết về các khoản thu và chi trong một kỳ nhất
định. Bảng dự toán tiền mặt gồm có 4 phần:
+ Phần thu: Phần này trìnhbày tất cả các khoản thu trong kỳ và số dư tiền mặt đầu kỳ.
+ Phần chi: Trình bày tất cả các khoản chi trong kỳ.
+ Cân đối thu - chi: Phần này chỉ cho doanh nghiệp thấy rằng trong từng kỳ doanh
nghiệp bị thiếu tiền hay thừa tiền.
+ Phần tài chính: Trình bày các phương pháp xử lý của doanh nghiệp khi thiếu tiền
hoặc thừa tiền. Thông thường bao gồm các nội dung như số tiền dự kiến đi vay, kế hoạch
trả nợ vay và tiền lãi cũng như số tiền mà doanh nghiệp dự kiến đầu tư ngắn hạn và kế
hoạch thu hồi chúng. Bảng dự toán tiền mặt dựa vào rất nhiều bảng dự toán mà doanh
nghiệp đã lập trước đây và nhiều tài liệu chi tiết khác.
- Dự toán bảng cân đối kế toán: Trên cơ sở các dự toán tiền mặt, tồn kho ... mà các bộ
phận đã lập, cùng với số liệu trên bảng cân đối kỳ trước, kế toán lập bảng dự toán cân đối
kế toán.
- Dự toán báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Cơ sở lập dự toán báo cáo lưu chuyển tiền tệ là
dự toán bảng cân đối kế toán, dự toán kết quả hoạt động kinh doanh ...
1.3.3.4. Xây dựng các trung tâm trách nhiệm và kiểm tra, đánh giá việc thực hiện
tại các trung tâm.
Trung tâm trách nhiệm là một bộ phận hay một phòng ban chức năng mà kết quả của
nó được gắn trách nhiệm trực tiếp của một hà quản lý cụ thể. Nói cách khác mỗi trung
tâm trách nhiệm trong tổ chức được giao cho một nhà quản lý cụ thể, nhà quản lý này la
người chịu trách nhiệm điều hành trung tâm trong phạm vi quyền hạn được giao và chịu
trách nhiệm toàn bộ về kết quả đạt được của trung tâm.
- Để thực hiện chức năng này hiệu quả hơn, nhà quản lý áp dụng nguyên tắc và kỹ
thuật của kế toán trách nhiệm. Bước cơ bản của quá trình triển khai trách nhiệm là việc
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 23
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
xác định trách nhiệm đối với từng loại chi phí, đây là điều quan trọng để đạt được ưu
điểm của quá trình dự toán toàn diện. Trọng tâm của nội dung này là chuyển từ việc lập
dự toán qua việc kiểm tra, đánh giá các kết quả thực tế trong mối quan hệ so với kết quả
kế hoạch hoặc dự toán.
Có 4 loại trung tâm trách nhiệm phổ biến:
- Trung tâm chi phí: Là trung tâm trách nhiệm mà người quản lý chỉ chịu trách nhiệm
hoặc chỉ có quyền kiểm soát đối với chi phí phát sinh ở trung tâm, không có quyền hạn
đối với việc tiêu thụ và đầu tư vốn. Được xếp vào loại trung tâm chi phí là các phân
xưởng sản xuất, có phòng ban chức năng.
Để đánh giá trung tâm chi phí:
+ So sánh chi phí thực tế - chi phí định mức
+ So sánh chi phí thực tế - chi phí dự toán và kết quả tiêu thụ
- Trung tâm doanh thu: Là trung tâm trách nhiệm mà nhà quản trị chỉ chịu trách nhiệm
với doanh thu, không chịu trách nhiệm đối với chi phí và lợi nhuận. Ở trung tâm doanh
thu nhà quản trị điều hành hoạt động của trung tâm sao cho có thể mang lại doanh thu
nhiều nhất cho tổ chức. Việc thực thi trách nhiệm của nhà quản trị trung tâm doanh thu
cũng được đánh giá dựa trên sự so ánh giữa doanh thu thực tế tạo ra và doanh thu được
giao. Được xếp vào loại trung tâm doanh thu là phòng kinh doanh, bộ phận tiếp thị.
Để đánh giá trung tâm doanh thu:
+ So sánh doanh thu thực tế - doanh thu dự toán
+ So sánh chi phí thực tế - chi phí dự toán và kết quả tiêu thụ
- Trung tâm lợi nhuận: Là trung tâm trách nhiệm mà nhà quản trị phải chịu trách
nhiệm với kết quả sản xuất và tiêu thụ của trung tâm. Do vây, nhà quản trị được quyền
quyết định về những vấn đề như định giá, marketing, sản lượng sản xuất, nguồn cung
cấp, cơ cấu hàng bán ... Nhà quản lý trung tâm lợi nhuận còn được giao quả lý và sử
dụng một số vốn của tổ chức cùng với nhiệm vụ tạo ra lợi nhuận từ việc sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn đó. Mọi sự đầu tư thêm vốn cho trung tâm đều nằm ngoài phạm vi quyền
hạn và trách nhiệm của nhà quản lý trung tâm lợi nhuận. Được xếp vào loại trung tâm lợi
nhuận là các đơn vị kinh doanh trong tổ chức như công ty phụ thuộc, các chi nhánh ...
Để đánh giá trung tâm lợi nhuận:
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 24
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Đức Toàn
+ Trước tiên kế toán quản trị sẽ xác định phạm vi chi phí thuộc quyền kiểm soát của
trung tâm lợi nhuận, trên cơ sở đó xác định mức ợi nhuận do trung tâm lợi nhuận tạo ra
rồi thực hiện đánh giá theo các chỉ tiêu cơ bản sau:
* Mức lợi nhuận thực hiện so với kế hoạch được giao về số tuyệt đối và số tương đối.
Mức tăng/giảm lợi nhuận = Lợi nhuận thực tế - Lợi nhuận kế hoạch
Lợi nhuận thực tế
Tỷ lệ thực hiện kế hoạch lợi nhuận =
Lợi nhuận kế hoạch
* Tỷ lệ lợi nhuận/vốn sử dụng bình quân (ROI)
Lợi nhuận bộ phận
ROI =
Vốn sử dụng bình quân
Chỉ tiêu ROI có thể phân tích thành:
Lãi kinh doanh bộ phận Doanh thu
ROI = ×
Doanh thu (1) Vốn sử dụng bình quân (2)
ROI =
Tỷ lệ lãi
trên doanh thu
× Hệ số quay vòng vốn sử dụng
Nhân tố (1) phản ánh khả năng sinh lợi của doanh thu.
Nhân tố (2) phản ánh tính hiệu quả của việc sử dụng vốn.
- Trung tâm đầu tư: Là trung tâm trách nhiệm mà nhà quản trị ngoài việc phải chịu
trách nhiệm đối với chi phí, doanh thu và lợi nhuận của trung tâm còn phải chịu trách
nhiệm với vốn đầu tư và khả năng huy động các nguồn tài trợ. Do vậy, nhà quản trị trung
tâm đầu tư được quyền ra quyết định về đầu tư vốn và sử dụng vốn lưu động. Được xếp
vào loại trung tâm đầu tư là Hội đồng quản trị, các công ty con độc lập ...
Để đánh giá trung tâm đầu tư: sử dụng một số chỉ tiêu đánh giá như sau:
* Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế
và trả lãi/Tài sản bình quân
=
Lợi nhuận trước thuế và trả lãi
Giá trị tài sản bình quân
* Giá trị của tài sản của doanh nghiệp.
Hàng kỳ, các trung tâm phải làm báo cáo đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch công
việc của mình. Các báo cáo trách nhiệm phải đạt được các mục tiêu sau:
SVTH: Nguyễn Thị Thu - Lớp 23KT5 Trang 25