Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

tranh chấp trong tín dụng chứng từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.41 KB, 17 trang )

Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thanh toán bằng tín dụng
chứng từ ở Việt Nam


Đặng Thị Phương Thủy


Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Nghiên cứu các vấn đề lý luận về phương thức thanh toán tín dụng chứng
từ và hệ thống quy phạm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong thanh toán tín dụng
chứng từ. Phân tích các tranh chấp phổ biến trong thanh toán bằng tín dụng chứng từ
tại Việt Nam và cách giải quyết, đánh giá thực thực trạng pháp luật về giải quyết
tranh chấp. Đưa ra các kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng
tín dụng chứng từ ở Việt Nam và các kiến nghị nhằm tăng cường tính hiệu quả của
các phương thức giải quyết tranh chấp.

Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật kinh tế; Thanh toán tín dụng chứng từ; Giải
quyết tranh chấp

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động ngoại thương đã thúc
đẩy nền kinh tế thế giới tăng trưởng không ngừng. Các quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế
cũng nhờ thế mà gia tăng với số lượng và quy mô ngày một lớn, kéo theo sự phát triển của


hoạt động thanh toán. Trải qua những tiến bộ về kỹ thuật, từ chỗ chỉ đơn thuần là sự giao
nhận trực tiếp giữa người giao tiền và người nhận tiền, việc thanh toán ngày nay đã được thực
hiện thông qua hệ thống thanh toán điện tử với thời gian lưu chuyển tiền tính bằng phút. Từ
chỗ việc thanh toán diễn ra đồng thời với chuyển giao hàng hóa và tiềm ẩn đầy bất trắc, ngày
nay sự ra đời của những phương thức thanh toán hiện đại đã tạo ra sự ràng buộc trách nhiệm
các bên, giúp giảm thiểu tối đa rủi ro cho cả người mua cũng như người bán.
Trong những hình thức thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế thông dụng hiện nay, thanh
toán bằng tín dụng chứng từ được sử dụng phổ biến hơn cả. Với sự đảm bảo một cách hợp lý
quyền lợi chính đáng của hai bên: người bán chỉ nhận được tiền sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng, người mua chỉ thanh toán khi yên tâm là hàng hóa đã được giao, phương thức thanh
toán thanh toán tín dụng chứng từ giúp cho các doanh nghiệp bất kỳ ở các nước khác nhau dù
chưa hiểu biết về nhau nhưng vẫn có thể tham gia giao dịch. Đối với các doanh nghiệp của
một nền kinh tế mới mở cửa, vẫn đang trong quá trình tìm kiếm đối tác và gây dựng quan hệ
ngoại thương như các doanh nghiệp Việt Nam thì những đảm bảo của thanh toán bằng tín
dụng chứng từ càng tỏ ra ưu việt. Điều này lý giải vì sao tín dụng chứng từ là phương thức có
sử dụng tỷ lệ cao nhất trong tổng số các giao dịch thanh toán ở Việt Nam hiện nay.
Tuy có nhiều ưu điểm, nhưng do sự đa dạng của các chủ thể tham gia quan hệ thanh toán
bằng tín dụng chứng từ cùng những khác biệt về tập quán kinh doanh, ngôn ngữ, đặc điểm văn
hóa, pháp lý… và bản thân sự phức tạp trong quy trình nghiệp vụ của phương thức này đã làm
nảy sinh trên thực tế một số lượng không nhỏ các vụ tranh chấp. Các tranh chấp phát sinh trong
giao dịch bằng tín dụng chứng từ thường liên quan đến các chủ thể không cùng quốc tịch và chịu
sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, giải quyết tranh chấp phát sinh trong
phương thức này cũng vì thế mà trở nên phức tạp. Ở Việt Nam các tranh chấp trong hoạt động
thanh toán bằng tín dụng chứng từ diễn ra rất phổ biến song việc giải quyết tranh chấp còn nhiều
bất cập và chưa đáp ứng được đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này nhưng lý do chủ yếu nhất là do các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong hoạt động chứng từ còn chưa rõ ràng và đầy đủ.
Nghiên cứu thực trạng các quy phạm được sử dụng để giải quyết tranh chấp và từ đó đưa
ra các kiến nghị nhằm hạn chế các nguy cơ tiềm ẩn của tranh chấp cũng như giải quyết hiệu
quả các tranh chấp từ phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã phát sinh là một yêu cầu

cấp thiết mà thực tế đang đặt ra. Vì lý do đó tôi đã chọn: "Pháp luật về giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ ở Việt Nam" làm đề tài cho
khóa luận tốt nghiệp thạc sĩ luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam cho đến nay thanh toán bằng thư tín dụng là một đề tài thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều tác giả, bên cạnh các bài viết, bài phân tích trên các tạp chí, có thể kể ra
ở đây một số công trình nghiên cứu:
- "Vận dụng UCP 500 để giải quyết các tranh chấp trong thanh toán xuất nhập khẩu
bằng phương thức tín dụng chứng từ", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Xuân Thu, 1998, Trường
Đại học Ngoại thương. Với đề tài này, tác giả đi sâu vào phân tích những tranh chấp có thể có
trong hoạt động thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ theo UCP và vận dụng những quy
định của UCP để giải quyết những tranh chấp đó.
- "Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng", Luận văn
thạc sĩ của Đỗ Văn Sử, 2004, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đề tài này tác giả đã tìm
hiểu các quy định hiện hành về thanh toán bằng thư tín dụng, so sánh đối chiếu với thông lệ quốc
tế và tìm kiếm giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thanh toán bằng tín dụng
chứng từ.
- "Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế", Luận văn thạc sĩ của Cao Xuân Quảng, 2008, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tại đây tác giả đã nghiên cứu bản chất của thư tín dụng, thực tiễn các tranh chấp phát sinh
phổ biến từ đó đề ra phương hướng về việc xây dựng một văn bản có tính pháp lý cao điều
chỉnh hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ.
Các đề tài trên đã đóng góp những kết luận khoa học có giá trị trong quá trình tìm hiểu
phương thức thanh toán thú vị này, tuy nhiên vẫn chưa đi sâu nghiên cứu những đặc trưng của
tranh chấp trong thanh toán tín dụng chứng từ cũng như thực trạng pháp luật giải quyết các
tranh chấp này ở Việt Nam. Vì thế tác giả nhận thấy đề tài nghiên cứu của mình là hoàn toàn
cần thiết, phù hợp với xu thế chung và không có sự trùng lặp trong quá trình nghiên cứu so
với những đề tài khác đã được đưa ra cho tới thời điểm hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là khẳng định vai trò của phương thức thanh toán tín

dụng chứng từ trong đời sống kinh doanh cũng như sự tồn tại phổ biến của các tranh chấp về
phương thức này trên thực tế, đồng thời luận văn cũng chứng minh sự cần thiết của việc xây dựng
hệ thống quy phạm pháp luật để giảm thiểu rủi ro xảy ra tranh chấp và giải quyết hiệu quả các
tranh chấp đã phát sinh. Trên cơ sở đó, luận văn tìm kiếm các giải pháp trong việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng tín dụng chứng từ.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, tác giả đã xác định cho mình những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ và hệ
thống quy phạm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong thanh toán tín dụng chứng từ.
- Phân tích các tranh chấp phổ biến trong thanh toán bằng tín dụng chứng từ tại Việt Nam
và cách giải quyết, đánh giá thực thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp.
- Đưa ra các kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng tín dụng chứng
từ ở Việt Nam và các kiến nghị nhằm tăng cường tính hiệu quả của các phương thức giải
quyết tranh chấp.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung phân tích thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thanh
toán bằng tín dụng chứng từ. Các tranh chấp có thể phát sinh trong một quy trình thanh toán
tín dụng chứng từ rất đa dạng, trong khả năng còn hạn chế của mình, tác giả chỉ có tham vọng
tìm hiểu chủ yếu nhóm tranh chấp phát sinh trong quan hệ giữa bên mua (người yêu cầu mở
thư tín dụng) với bên bán (người thụ hưởng), bên mua với ngân hàng phát hành tín dụng thư,
quan hệ giữa bên bán với ngân hàng thông báo. Các tranh chấp phát sinh giữa các ngân hàng
với nhau trong quá trình thanh toán và cách giải quyết, phần nhiều có liên quan đến kỹ thuật
chuyên môn đặc thù của ngành ngân hàng, sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn
này.
5. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn đã làm sáng tỏ hơn nữa các vấn đề lý luận về thanh toán quốc tế bằng tín dụng
chứng từ, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp trong phương thức này.
Luận văn hệ thống lại các quy phạm pháp luật hiện điều chỉnh các hoạt động thanh toán
bằng tín dụng chứng từ, đánh giá thực tiễn pháp luật về giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong thanh toán tín dụng chứng từ ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn bổ sung những vấn

đề trong thanh toán bằng tín dụng chứng từ cần được điều chỉnh bởi pháp luật, nêu các kiến
nghị liên quan đến quy trình giải quyết tranh chấp đặc thù đối với các tranh chấp về thanh
toán tín dụng chứng từ.
6. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng trong nghiên cứu luận văn này.
Đồng thời, luận văn còn thực hiện trên cơ sở kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu tài liệu,
phân tích, tổng hợp, logic và so sánh luật học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về pháp luật giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ.
Chương 2: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thanh
toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ ở Việt Nam và các kiến nghị hoàn thiện.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
BẰNG TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.1 Một số vấn đề lý luận về thanh toán tín dụng chứng từ
1.1.1 Khái niệm thanh toán và dịch vụ thanh toán
Theo nghĩa chung nhất, thanh toán là hoạt động trả tiền của một chủ thể đối với một chủ
thể khác trong quan hệ dân sự, thương mại.
Dịch vụ thanh toán theo luật Việt Nam được hiểu là: "việc ung ứng phương tiện thanh
toán, thực hiện giao dịch thanh toán trong nước và quốc tế, thực hiện thu hộ, chi hộ và các
loại dịch vụ khác do Ngân hàng Nhà nước quy định của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán" (khoản 5 Điều 3 Nghị định số
64/2001/NĐ-CP ngày 20/8/2001).
Pháp luật Việt Nam hiện hành ghi nhận 5 loại dịch vụ thanh toán chủ yếu được thực hiện
bởi các Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, bao gồm:

- Thanh toán bằng séc
- Thanh toán bằng lệnh chi/ ủy nhiệm chi
- Thanh toán bằng thu/ủy nhiệm thu
- Thanh toán bằng thẻ ngân hàng
- Thanh toán bằng thư tín dụng
1.1.2. Thanh toán bằng thư tín dụng
1.1.2.1. Khái niệm thư tín dụng
Thư tín dụng hay tín dụng thư, tín dụng chứng từ, L/C là một văn bản cam kết thanh toán
của ngân hàng đối với đích danh một chủ thể trong một thương vụ cụ thể, trong nội dung thư
tín dụng thể hiện những yêu cầu mà nếu tuân thủ những yêu cầu đó, người thụ hưởng sẽ được
ngân hàng thanh toán.
1.1.2.2. Nội dung của thư tín dụng
Nội dung của thư tín dụng thể hiện những yêu cầu của ngân hàng đối với người thụ
hưởng, cũng là những cam kết của ngân hàng về việc thanh toán. Tùy vào từng ngân hàng
cũng như tùy loại thư tín dụng mà các điều khoản trong thư tín dụng được sắp xếp khác nhau,
nhưng về cơ bản một thư tín dụng phải có các nội dung sau:
A, Các điều khoản chung
- Số hiệu
- Loại thư tín dụng
- Ngày phát hành
- Địa điểm và ngày hết hạn
- Quy tắc áp dụng (dẫn chiếu áp dụng UCP)
B, Các bên tham gia
- Người yêu cầu phát hành (tên và địa chỉ)
- Người thụ hưởng (tên và địa chỉ)
- Ngân hàng phát hành
- Ngân hàng trả tiền
- Ngân hàng thông báo
- Ngân hàng chiết khấu
- Điều kiện xác nhận

C, Nội dung về vận tải
- Tên cảng xếp hàng
- Tên cảng giao hàng
- Thời hạn giao hàng
- Điều kiện giao hàng từng phần
- Điều kiện chuyển tải
D, Nội dung về hàng hóa
- Mô tả hàng hóa (thường bao gồm điều kiện giao hàng)
E, Nội dung về chứng từ
- Các chứng từ xuất trình (loại chứng từ, quy cách, số bản)
- Thời hạn xuất trình chứng từ
G, Các nội dung khác
- Cam kết của ngân hàng phát hành
- Điều khoản phạt đối với trường hợp chứng từ có sai sót
- Hướng dẫn đối với ngân hàng trả tiền, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng thông báo
- Chữ ký, dấu của ngân hàng phát hành
1.1.2. Phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ
1.1.2.1. Khái niệm
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán được sử dụng
phổ biến trong thương mại quốc tế, theo đó, các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa thỏa
thuận sử dụng thư tín dụng làm công cụ để thực hiện việc chi trả cho các nghĩa vụ tài chính
phát sinh từ giao dịch mua bán.
Các bên tham gia trong giao dịch thanh toán bằng tín dụng chứng từ:
- Người yêu cầu/người mở/người xin mở (Applicant)
- Người thụ hưởng/người hưởng/người hưởng lợi (Beneficiary)
- Ngân hàng phát hành (Issueing Bank)
- Ngân hàng thông báo (Advising Bank)
- Ngân hàng xác nhận (Comfirming Bank)
- Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank)
1.1.2.2. Đặc điểm

- Trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng phát hành cam kết thanh toán đối với
người thụ hưởng thư tín dụng.
- Giao dịch tín dụng chứng từ độc lập với hợp đồng cơ sở.
- Các giao dịch trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ chỉ dựa trên cơ sở chứng
từ.
- Tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán giảm thiểu tối đa rủi ro cho người mua và
người bán trong các giao dịch thương mại quốc tế.
1.2. Hệ thống quy phạm điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ
1.2.1. Thông lệ quốc tế
Hiện nay, thông lệ quốc tế phổ biến nhất điều chỉnh các quan hệ thuộc phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ là bộ Quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ - UCP.
UCP là một tập hợp các nguyên tắc và tập quán quốc tế được Phòng thương mại quốc tế
(ICC) soạn thảo và ban hành, quy định quyền hạn, trách nhiệm của các bên liên quan trong
giao dịch tín dụng chứng từ với điều kiện thư tín dụng có dẫn chiếu việc tuân thủ UCP.
Tính chất pháp lý đặc trưng nhất của UCP là tính tùy ý trong áp dụng, thể hiện ở các
điểm:
- Chỉ khi trong L/C có dẫn chiếu áp dụng UCP thì nó mới trở nên có hiệu lực pháp lý bắt
buộc điều chỉnh các bên tham gia.
- Các bên có thể thỏa thuận không thực hiện hoặc thực hiện khác đi một hoặc một số điều
khoản quy định trong UCP hoặc bổ sung trong L/C những điều khoản UCP không đề cập.
1.2.2. Pháp luật quốc gia
1.2.2.1. Vai trò của pháp luật quốc gia đối với hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng
từ
Các giao dịch trong thanh toán bằng L/C không chỉ là công cụ thanh toán quốc tế mà còn
là giao dịch trong nước xét về mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành với người mua và giữa
ngân hàng thông báo với người bán nên chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia.
Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ gắn bó mật thiết với các nghiệp vụ kinh
tế khác như mua bán hàng hóa, vận tải, bảo hiểm… đòi hỏi phải vận dụng đến nhiều luật lệ,
tập quán đặc thù của các nghiệp vụ này ở hai hay nhiều nước khác nhau khi giải quyết các
tranh chấp liên quan đến phương thức và do vậy làm sự nảy sinh xung đột giữa các nguồn

luật. Khi đó việc lựa chọn luật để áp dụng được thực hiện theo các nguyên tắc về xung đột
pháp luật quy định tại các hệ thống pháp luật quốc gia, và những nguyên tắc này có sự khác
nhau tùy theo từng nước.
1.2.2.2 Các quy định của pháp luật Việt Nam về thanh toán tín dụng chứng từ
Với tư cách là một dịch vụ thanh toán thường được sử dụng trong thương mại quốc tế,
thanh toán bằng tín dụng chứng từ trước hết chịu sự điều chỉnh của các quy định thuộc quản
lý ngoại hối, tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại, thanh toán và thanh toán quốc
tế.
Cho đến nay mới có bốn văn bản pháp luật có các quy định trực tiếp về thanh toán bằng
thư tín dụng là Nghị định số 64/2001/NĐ-CP; Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN, Quyết định
1092/2002/QĐ-NHNN... song chỉ đề cập đến những nội dung hết sức sơ khai về phương thức
thanh toán này.
Khái niệm thư tín dụng được đưa ra tại Điều 16 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN
ngày 26/03/2011 về cơ bản có sự tương thích với khái niệm của UCP về thanh toán tín dụng
chứng từ.
Thủ tục mở thư tín dụng và thủ tục thanh toán thư tín dụng trong các quy trình được quy
định chủ yếu trong Quyết định 1092/2002/QĐ-NHNN ngày 08/10/2002, nhưng những quy
định này không phản ánh những đặc trưng của quy trình thanh toán tín dụng chứng từ cũng
như quyền lợi và trách nhiệm của ngân hàng từ những giao dịch thanh toán hay mối quan hệ
của ngân hàng với các bên. Thực chất những quy định tại Quyết định 1092/2002/QĐ-NHNN
chỉ gói gọn trong phạm vi thủ tục "lập, kiểm soát, luân chuyển, xử lý chứng từ và hạch toán
các giao dịch thanh toán" mà thôi.
Để lấp khoảng trống về pháp luật đối với thanh toán bằng thanh toán tín dụng chứng từ,
Điều 19 Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2002 đã mở đường cho việc áp dụng UCP:
"Việc mở, phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ thanh toán và quyền, nghĩa
vụ của các bên liên quan trong thanh toán bằng tín dụng thực hiện theo các quy tắc chung về tín
dụng chứng từ do Phòng Thương mại quốc tế ICC ban hành, do các bên tham gia thanh toán
thoả thuận mại dụng và theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam".
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài hay tập quán, thông lệ quốc tế cũng được thừa nhận
tại nhiều văn bản khác thuộc hệ thống pháp luật nước ta. Tuy nhiên các quy định này đều thể

hiện một điểm quan trọng là chỉ áp dụng tập quán, thông lệ quốc tế với điều kiện việc áp
dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
1.3. Tranh chấp trong thanh toán bằng tín dụng chứng từ
1.3.1. Tính tất yếu của các tranh chấp trong thanh toán bằng tín dụng chứng từ
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và
nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan.
Các doanh nghiệp không mong đợi tranh chấp vì nó gây tổn thất cho họ, song trong nền

×