Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Chuyên đề: HỌC TRÒ ĐỐI VỚI THẦY GIÁO NGÀY XƯA VÀ NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.21 KB, 44 trang )

TƯ LIỆU GIÁO DỤC HỌC.

Chuyên đề:
HỌC TRÒ ĐỐI VỚI
THẦY GIÁO NGÀY XƯA
VÀ NGÀY NAY

HẢI DƯƠNG – NĂM 2014
LỜI NÓI ĐẦU
Việc nâng cao cất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh là nhiệm vụ của các trường phổ thông. Để có chất
lượng giáo dục toàn diện thì việc nâng cao chất lượng đại trà
là vô cùng quan trọng. Đối với cấp tiểu học, nội dung học tập
là chất lượng bốn môn Toán và Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử
& Địa lí. Môn Tiếng Việt có vai trò vô cùng quan trọng giáo
dục tình cảm, thẩm mĩ cho học sinh.
Chính vì thế ngay từ đầu năm học, Các tổ chuyên môn
kết hợp với Ban Giám hiệu các nhà trường lập kế hoạch dạy
học. Để nâng cao chất lượng dạy học, đổi mới cách dạy có
hiệu quả thì một việc không thể thiếu là tổ chức các chuyên đề
giảng, trao đổi kinh nghiệm, mở rộng kiến thức cho giáo viên,
từ đó giáo viên dạy thấy rõ được những kiến thức cơ bản cần
hiểu biết để dạy cho mỗi lớp. Giáo viên dạy sẽ có kế hoạch
điều chỉnh cách dạy, đổi mới phương pháp, giúp đỡ kịp thời
cho mỗi học sinh.v.v
Trân trọng giới thiệu với thầy giáo và cô giáo cùng quý
vị bạn đọc tham khảo và phát triển: “KINH NGHIỆM DẠY
HỌC CẢM THỤ VĂN HỌC VÀ TẬP LÀM VĂN CHO HỌC
SINH TIỂU HỌC”
Mong nhận được ý kiến quý báu của thầy cô giáo, các
em học sinh và các bạn!


Chân thành cảm ơn!
Chuyên đề:
HỌC TRÒ ĐỐI VỚI
THẦY GIÁO NGÀY
XƯA VÀ NGÀY NAY
A/ Mở đầu:
Học sinh kính trọng thầy giáo là điều tự nhiên. Thầy giáo
là người đem lương tâm nghề nghiệp dạy kiến thức cho học
sinh tuy theo từng môn học và chương trình của mỗi cấp học.
Theo Nho giáo ngày xưa, học sinh quý trọng thầy giáo theo
thứ bậc: ‘’Quân, Sư, Phụ ‘’, nghĩa là học sinh phải kính trọng
thầy giáo hơn cả cha mẹ, chỉ sau vua là người thay Trời trị vì
thiên hạ. Quá khứ đã cho thấy người Nho học thi hành quan
niệm "Quân, Sư, Phụ‘’ một cách chính đáng.
Ngày nay, nhắc đến câu này, nhiều người khó hiểu được cách
suy tư và hành động của người xưa.
Muốn hiểu được quan niệm này, ta cần hiểu cách tổ chức học
vấn ngày xưa. Tiếp theo, ta tìm hiểu sự tổ chức học vấn ngày
nay, so sánh sự khác biệt của hai nền giáo dục xưa và nay. Sau
cùng, ta suy xét học sinh ngày nay cần tôn trọng thầy giáo ở
mức độ nào cho hợp lẽ.
B/ Nội dung:
I/ Nền giáo dục và cách tổ chức học vấn ngày xưa:
Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm. Người Trung Hoa
đem chữ Hán và Nho giáo sang truyền tụng ở nước ta. Do đó,
văn hóa Viện Nam bị văn hóa Trung quốc ảnh hưởng rất
nhiều.
Thời gian Trung Quốc đô hộ bắt đầu từ khi nhà Triệu của Việt
Nam mất nước Nam Việt vào tay vua Vũ Đế nhà Hán của
Trung Hoa vào năm 111 trước Công Nguyên (tr. CN) cho đến

năm 939, khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán ở sông Bạch
Đằng đem lại nền tự chủ cho dân Việt. Chữ Hán, và triết lý
Nho giáo của Khổng Tử có từ hơn hai ngàn năm trước, được
các quan đô hộ Trung Hoa đem sang dạy và truyền tụng trong
dân gian.
Tiếp đến trong một ngàn năm tự chủ từ thời nhà Ngô, năm
939, trãi qua các đời vua Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn
(Quang Trung) và Nguyễn (Gia Long), cho đến khi nước Việt
Nam bị Pháp đô hộ, 1884, chữ Hán là văn tự hành chánh chính
thức được sử dụng và Nho giáo được quý trọng và dạy dỗ
trong nước Việt Nam.
Nền giáo dục xưa có cách tổ chức về thầy giáo, trường học,
học sinh, rất tự do và phổ thông, chương trình học đồng nhất
và cách thi cử rất trang nghiêm. Do đó, trên căn bản qua một
ngàn năm tự chủ nền giáo dục không có gì thay đổi sâu sắc
ngoại trừ một vài cải tổ nhỏ cho thích hợp với ý vua.
Sau đâu là những nét chính của nền giáo dục xưa:
Thầy giáo:


Thầy giáo là người tinh thông chữ Hán và Nho học, tự mở
trường dạy học sinh về chữ Nho và triết lý Khổng Tử. Thầy
giáo, ngày xưa gọi là thầy Đồ, có thể là người không đổ đạt
như thầy Khóa, hay người có đổ đạt như Thầy Tú, ông Cử,
cho đến ông Tiến Sĩ, Phó Bảng, Trạng Nguyên, yêu thích dạy
học, mở trường thâu nhận học sinh truyền tụng đạo đức Thánh
Hiền và làm kế sinh nhai. Một thầy giáo dạy học sinh đủ mọi
trình độ. Thầy giáo là người có cuộc sống gương mẫu đạo đức
được học sinh và dân chúng địa phương kính trọng.
Những vị thầy giáo thông thái xưa được lưu danh muôn thuở

như Chu văn An đời nhà Trần, Lê Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phùng Khắc Khoan đời nhà Lê, Võ Trường Toản, Nhữ
Bá Siển đời nhà Nguyễn v. . .v .
Trường học:

Trường học được xây dựng trong khuôn viên vườn của Thầy
giáo. Thông thường, trường là một ngôi nhà lớn, bề ngang độ
chín, mười thước, bề dọc độ ba bốn mươi thước. Trong nhà
được đặt những phản gỗ hay giường tre cao khoản bốn, năm
tấc, sắp xếp gần nhau để học sinh cùng một lớp ngồi cạnh
nhau học bài hoặc tập viết. Một trường có từ ba, bốn mươi cho
đến trên trăm học sinh .
Trường được chia ra các lớp Ấu học, Sơ học, Trung học, Cao
học .
Học sinh các lớp Ấu và Sơ học, học một ngày hai buổi. Học
sinh các lớp Trung học, học một ngày một hoặc hai buổi. Học
sinh Cao học, chỉ đến trường để nhận giảng Kinh Sách, trả bài
luận văn và nhận lời phê bình chỉ giáo của thầy.
Học sinh:
Theo phong tục ngày xưa, cha mẹ cho con đi học là học chữ
Thánh Hiền, học lễ nghĩa, và đạo đức làm người. Trước khi
cho con đi học với Thầy Đồ, người học sinh cúng lễ trước bàn
thờ tổ tiên, cha mẹ cầu nguyện tổ tiên phù hộ cho con thông
minh, học giỏi. Khi đến trường, tùy theo gia đình, cha mẹ
người học sinh mới đem lễ vật, cau, trầu, rượu, hương, đèn,
xôi, gà, đến nhà thầy để thầy làm lễ trước bàn thờ Thánh, tức
là Đức Khổng Tử, cáo lạy từ nay ngài có thêm môn sinh mới,
theo học lễ nghĩa Nho giáo.
Học sinh từ sáu bảy tuổi, học chữ nghĩa căn bản, lên đến mười
lăm, mười tám tuổi, học chữ, nghĩa thâm sâu hơn, học văn,

thơ, đạo đức, cho đến lớp cao hơn, học làm thơ, phú, giảng
giải kinh, sách, điển, sớ, sẵn sàn được qua kỳ tuyển chọn làm
Khóa Sinh đi dự thi Hương. Người học sinh học với thầy gọi
là môn đệ. Học sinh theo học cùng một thầy, một trường gọi là
đồng môn.
Trưởng tràng là người lớn tuổi có địa vị trong xã hội được
thầy chỉ định hoặc đồng môn bầu để lo sinh hoạt của môn
sinh. Giám tràng phụ giúp trưởng tràng. Thầy giáo chỉ định
đôi, ba Cán tràng giúp đỡ trưởng và giám tràng trong việc
chung của trường. Các đồng môn có trách nhiệm giúp đỡ thầy
và gia đình thầy được hưng thịnh, an lành, theo đúng cung
cách lễ nghĩa. Môn đệ tổ chức Tết lễ thầy vào những dịp lễ
theo phong tục. Thầy giáo qua đời môn đệ theo phong tục phải
để tang, lo đám tang, chôn cất, đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Thời gian môn đệ để tang thầy là ba năm, gọi là tâm tang.
Trưởng tràng phải kêu gọi môn sinh đóng góp cúng kỵ, tu bổ
nhà thầy, và có khi tậu ruộng đất lập hương hỏa để lo hương
khói vĩnh viễn cho thầy.
Chương trình học:
Chữ Hán được dung để dạy học. Trường dạy học sinh lễ
nghĩa, triết lý Khổng giáo, đạo đức người quân tử trung quân,
ái quốc, bình thiên hạ, tam cương, đạo vua tôi, nghĩa vợ
chồng, hiếu kính cha mẹ và ngũ thường, nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín.
Sách học được lưu truyền từ đời này qua đời khác, từ Sơ học
với sách Tam Thiên Tự (thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn, tử
con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước, tiền trước,
hậu sau, ngưu trâu, mã ngựa, cự cựa, nha răng, vô chẳng, hữu
có, khuyển chó, dương dê, quy về, tẩu chạy, bái lạy, quỵ quỳ,
khứ đi, lai lại, nữ gái, nam trai, v ,v ), Tam Tự Kinh (Nhân

chi sơ, tánh bổn thiện, tánh tương cận, tập tương viễn, nhân
bất học, bất tri lý, ấu bất học, lão hà vi, v , v ), Sơ học vấn
tân, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết và Minh tâm bảo giám
cho đến lớp cao hơn với văn bài, triết lý và luận lý từ thời
Khổng Tử như Tứ Thư, Ngủ Kinh.
Tứ Thư :Tứ Thư gồm các sách: Đại Học, Trung Dung, Luận
Ngữ, Mạnh Tử;
Đại Học: Đại Học dạy đạo người quân tử. Sách do Tăng Tử,
học trò Đức Khổng Tử (551-479 tr. CN) viết. Sách có hai
phần, phần đầu gọi là Kinh, chép lời Đức Khổng Tử, phần sau
gọi là Truyện, là lời giảng giải của Tăng tử.
Trung Dung: Trung dung là đạo người quân tử ăn ở vừa phải,
không thái quá, không bất cập. Sách Tung Dung do Tử Tư,
cháu đích tôn Đức Khổng Tử sưu chép những lời tâm pháp
của ngài do học trò ngài truyền lại. Trung dung nói đạo thánh
nhân căn bản là ở Trời rồi diễn ra mọi lẽ khiến người ta phải
giữ mình cho kính cẩn trong khi hành động, suy tư cho ra lẽ
phải, trái, làm cho đúng để tiến đến chân, thiện, mỹ.
Luận Ngữ: Luận ngữ là sách do các môn đệ của đức Khổng
Tử sưu chép lời Đức Khổng Tử khuyên dạy học trò về những
câu chuyện ngài nói với người đương thời để học sinh thấu
hiểu về những vấn đề luân lý, triết lý, chánh trị, học thuật.
Sách Luận ngữ dạy: ’’đạo làm người quân tử một cách thực
tiễn và mô tả tính tình cử chỉ, đức độ của đức Khổng Tử như
phác họa ra cái mức hoạt động cho người đời sau theo’’.
Mạnh Tử: Mạnh Tử là sách do Mạnh Tử (372-289 tr.CN), học
trò Tử Tư là là cháu đích tôn Đức Khổng tử dạy về thuyết
Tính Thiện, dưỡng tính, tồn tâm, trí chi, dưỡng khí, (giữ lấy
thiện tính, lòng lành, giữ lấy chí hướng, khí phách cho mạnh).
Mạnh Tử cho rằng con người ta sinh ra tự nhiên có đức tính

tốt.
Ngũ Kinh: Ngũ kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Xuân
Thu, Kinh Dịch, Kinh Lễ.
Kinh Thi: Kinh thi do đức Khổng Tử sưu tập và lựa chọn gồm
305 bài thơ. Kinh thi là tập ca dao cổ của người Tàu, ghi lại
những bài ca dao ở thôn quê và nhạc chương ở nơi triều miếu.
Kinh thi mô tả niềm tín ngưỡng của các vị thánh vương nhà
Châu, ghi lại những phong tục và nếp sống thường nhật, lòng
tin tưởng và đạo đức của dân Trung Hoa từ thời Hậu Tắc cho
đến thời Khổng Tử. Hậu Tắc hay Khí là em ruột của vua
Nghiêu (2356-2255 tr. CN).
Kinh Thư: Thư nghĩa là ghi chép. Kinh thư do đức Khổng Tử
sưu tập.Kinh thư mô tả các gương tích vua tôi Trung Hoa đời
xưa từ vua Nghiêu (2.356-2.255 tr. CN) cho đến vua Bình
Vương (770-719 tr. CN) dạy về quan niệm thiên trị Trung Hoa
thời cổ, dạy tam cương, ngũ thường, "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín".
Kinh Xuân Thu: Đức Khổng Tử viết kinh Xuân Thu. Kinh
Xuân Thu là một bộ sử có niên hiệu mạch lạc, ghi các công
chuyện từ đời Lỗ Công nguyên niên (năm 721 tr. CN) cho đến
hết năm thứ 14 đời vua Lỗ Ai Công (năm 481 tr. C. N) làm
cho sáng tỏ quan niệm ‘’Thiên nhân tương dữ‘’, nghĩa là Trời
và Người có quan hệ mật thiết với nhau.
Kinh Dịch: Dịch nghĩa là thay đổi. Nguyên vua Phục Hy
(4480-4365 tr. C N) đặt ra Bát quái, tám hình vẽ, 8 quẻ ấy lần
lược đặt chồng lên nhau thành ra 64 trùng quái (quẻ kép), mỗi
trùng quái có sáu vạch (3 vạch liền biểu thị lẽ dương và ba
vạch đứt đoạn biểu thị âm), gọi là hào. Có cả thảy 384 hào.
Đức Khổng Tử giải nghĩa các quái, các trùng quái và các hào.
Kinh dịch giúp ta tìm cho ra căn để của con người và vạn vật,
gốc gác của vũ trụ, những định luật chi phối mọi sự biến thiên

của trời đất, cũng như viễn đích, cùng lý của quần sinh và
nhân loại. Dân gian ngày nay dùng dịch để xem bói toán.
Kinh Lễ: Kinh lễ là sách nói về thuần phong mỹ thuật con
người sống trong cuộc đời và trong xã hội. Đức Khổng Tử san
định lại bộ kinh lễ do Chu Công soạn ra. Có ba bộ Kinh Lễ:
- Lễ Ký do Chu Công soạn ra nói về tổ chức hành chánh,
chính trị, xã hội thời Chu.
- Nghi Lễ quy định về quan, hôn, tang, tế, bổn phận con người
đối với trời đất, tổ tiên. Bộ Nghi Lễ xuất hiện thời Hán sơ.
- Lễ Ký là ký sự của môn đệ đức Khổng tử về nghi lễ, phong
tục.
Tứ Thư, Ngũ Kinh là sách căn bản của Nho giáo, và sách đầu
giường của học sinh thời xưa học và sống theo triết lý đó.
Thi cử:
Thi cử là cách thức quan vua thời xưa dùng để tuyển dụng
nhân tài, đem sở học ra giúp nước, an dân.
Việc thi cử ở Việt Nam được tổ chức có quy cũ từ đời Lý
Nhân Tôn (1072-1270). Năm Ất Mão, 1075, triều đình mở
khoa thi tam trường để lấy người văn học ra làm quan.
Đến đời Lê Thánh Tôn (1460-1497), định lại phép thi Hương,
thi Hội, thi Đình và đặt lệ ba năm một khóa thi. Chương trình
thi hương gồm tam trường, trường nhất thi năm đoạn kinh
nghĩa, trường nhì thi chiếu, chế, biểu, dùng tứ lục cổ thể,
trường ba thi thơ dùng luật Đường, phú dùng cổ thể và văn tao
tuyển, là một thể vận văn ở đời Lục triều.
Từ triều Lê, ở mỗi huyện có quan Huấn Đạo, ở mỗi phủ có
quan Giáo Thụ dạy tứ thư, ngủ kinh và bắc sử cho học sinh
khá, ở mỗi tỉnh có quan Đốc Học dạy các sinh đồ cao đẳng.
Kỳ thi hương chấm đậu tú tài, cử nhân. Thi hội, thi đình tuyển
lấy tiến sĩ.


Trường thi tổ chức ở các tỉnh lớn. Trường thi là một bãi đất
rộng hàng trăm mẫu, bằng phẳng. Chung quanh được rào kỹ
bởi hàng rào tre có lính canh gác cẩn mật. Trường thi có 9 cửa
cho thí sinh ra vào. Giữa có nhà thập đạo và nhà các quan
chấm trường. Thí sinh được tuyển chọn từ các huyện đến qua
các kỳ sát hạch, người được kết quả qua kỳ sát hạch gọi là
Khóa Sinh, được phép dự kỳ thi Hương. Quan trường do vua
bổ đến gồm chánh chủ khảo, phó chủ khảo, nhân viên khảo
thí. Kỳ thi hương kéo dài hơn cả tháng. Thí sinh đem theo lều
làm bằng sườn tre, chỏng cũng bằng tre để tự dựng lên tạm
che mưa che nắng, và giường viết trong lúc làm bài thi. Thí
sinh tự mua giấy bản đóng thành bốn quyển tập, mỗi tập dày
khoảng mười tờ, ghi tên, tuổi, ngày nơi sinh, tên cha mẹ, quê
quán, đem nạp cho quan Đốc Học tỉnh cả tháng trước ngày thi
để quan Đốc Học đóng thùng gởi đến trường thi. Khi vào
trường thi, khóa sinh được nhận lại các quyển của mình để
làm bài thi. Bài làm xong được nạp cho ban giám khảo.

Sau đây là cảnh kỳ thi hương năm Giáp Ngọ (1894) tại trường
thi Nam Định, do nhà văn Nguyễn Tuân dịch từ cuốn sách
’’Bắc Kỳ cố sự’’ bằng tiếng Pháp của Buaranh:
‘’Trường thi Nam Định năm 1894 đông như kiến cỏ. Năm
1891, Nam Định chỉ có 9.000 sĩ tử, năm 1894 con số người đi
thi lên tới 11 ngàn. Từ giữa trường thi, chỗ đường thập đạo
trông ra, trùng trùng, điệp điệp những những mu rùa bằng tre,
những tấm mui luyện nhà đồ (ý nói những thi cụ lều chõng).
Kỳ đệ nhất vào ngày 25-10-1894, kỳ đệ nhị, ngày 15-11. Kỳ
đệ tam ngày 25-11. Và kỳ phúc hạch đệ tứ là ngày 02-12-
1894.

Ngày 8-12-1894 là lễ xướng danh những người đổ. Tiếng loa
ran lên, ồm ồm lanh lảnh. Tiếng í - ới gọi nhau lạc đường của
người nhà các thầy khóa, của tiểu đồng lảo bộc quản gia nhổ
lều đội chõng ra về trong đêm tối lập lòe ánh đuốc. Đám đông
lên tới hai mươi nhăm ngàn người.
Lễ xướng danh từ sớm cho đến chiều. Ghế bành của các quan
chấm trường dự lễ tại ghế cao đến bốn thước mét. Quan Toàn
quyền bận không đến, có quan cai trị Moren thay mặt dự lễ.
Cứ xong mỗi tên ông tân khoa xướng lên là mất năm phút-
tính từ lúc cất tiếng loa gọi tên, xoáy sang phía phải xoáy sang
phía trái, cho tới lúc người trúng thi thích cánh lách được lên
chỗ đệ trình căn cước. Khoa thi 1894 lấy 60 cử nhân và 200 tú
tài (lệ triều đình đặt ra là cứ nhất cử tam tú, cứ chấm lấy một
cử nhân thì lấy được ba tú tài).
Xướng xong tên 60 ông cử tân khoa, mất ba tiếng đồng hồ, thì
quan sứ Moen về. Các ông tân khoa phục xuống lạy. Ở tỉnh
đường quan Tổng Đốc, quan Kinh lược Bắc Kỳ ban mủ, ban
áo tấc xanh, ban ô, ban tráp sơn, nó là những huân hiệu cụ thể
của người men chân lên cái than hoạn lộ. Vân vân.

Khóa thi Giáp Nhọ (1894) này, thi sĩ Trần kế Xương đã may
mắn đổ Tú Tài, và sau đó Tú Xương thi 4 lần nữa trong 12
năm đều không đậu cử nhân, cho đến khi ông mất năm1907,
thọ 37 tuổi.
Sự đổ đạt định đoạt đời sống vinh hạnh của một đời người.
Người đậu cử nhân được vua bổ dụng làm quan, là một vinh
dự lớn lao cho gia đình, cha mẹ, họ hàng, làng xã, huyện, phủ.
Quan trọng đến nỗi Tú Xương đã nói: ’’Ngày mai tớ hỏng tớ
đi ngay, cúng giỗ từ nay nhớ lấy ngày’’.
Nền học vấn xưa ấy đã đào tạo không biết bao nhân tài, đem

sở học của mình xây dựng đất nước.
Sau đây là đơn cử một số nhân vật lừng danh.
Học sinh Nguyễn quang Bình khi còn nhỏ ở ăn học tại nhà
Thầy giáo Hiển ở ấp Phú Lạc, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định,
và sau này là Vua Quang Trung Nguyễn Huệ.
Nguyễn công Trứ đến 49 tuổi mới đậu cử nhân, được bổ ra
làm quan.
Trần Kế Xương thi cho đến trước khi mất vẫn chưa đậu cử
nhân, và suốt đời sống nhờ vợ buôn bán, làm ăn.
Ông Phan Khôi, đậu Tú Tài Hán học năm 1915, lúc 29 tuổi, là
học trò Ông Trần Quý Cáp, đổ Tiến Sĩ khoa Giáp Thân, năm
1904.
Có không biết bao nhiêu là thầy Khóa, cứ ba năm một lần,
mang lều chõng đi thi, nhưng đi không lại về không, suốt đời
theo thầy học hỏi lễ giáo và văn chương, chữ nghĩa.
Việc trọng kính thầy học đã bám gốc rễ sâu vào nhân gian qua
triết lý Nho giáo. Các câu ca dao, ’’Muốn sang thì bắt cầu
kiều, Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy, Trọng thầy thì
được làm thầy, Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy, Không thầy đố mày
làm nên ‘’, nói lên quan niệm kính trọng thầy giáo ngày xưa.
Ông Nguyễn Trường Tộ, là môn đệ Hán học của Ông Huyện
Địa Linh ở xã Tân Lộc, tỉnh Nghệ An, tuy không dự khoa thi
Hương nào, nhưng rất kính trọng thầy dạy Nho học. Ông đã
cùng các đồng môn dự lễ đoạn tang thầy, lúc trở về nhà thì
lâm bệnh và qua đời năm 1871, dưới triều vua Tự Đức .
Cứ ba năm triều đình mở khoa thi Hương ở các tỉnh lớn như
Hà- Nội, Nam định, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên, Bình
Định và Sài-Gòn.
Nền học giáo dục xưa, trọng văn chương, Nho học và khoa cử,
đã tào tạo rất nhiều bậc danh tài cho đất nước như Ngô sĩ Liên,

Nguyễn Trãi, Lê văn Hưu,Trần Hưng Đạo, Hàn Thuyên, Lê
Quý Đôn, Nguyễn Thiệp, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn
thị Điểm, Nguyễn Công Trứ, Trần Kế Xương, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội
Châu, Ngô Đình Diệm v v
Nói tóm lại, nền giáo dục xưa có những điểm đặc biệt chính
như sau:
-Thầy giáo là người dạy học sinh từ nhỏ cho đến khi thành tài,
thường chỉ là một thầy giáo.
- Thầy giảng dạy đạo đức kinh sử, triết lý của Nho giáo làm
cho học trò biết hiếu, để trọng "nhân, nghĩa, lễ, trí , tín"
- Trường học là nhà tư của thầy giáo.
- Bài thi chỉ dùng thơ, phú, văn bài, luận lý đạo đức người
quân tử.
- Thầy giáo là người có lương tâm, đạo đức gương mẫu, và
thông thường là người đổ đạt cao được học sinh tôn kính, dân
chúng trọng nể/
- Người xưa coi chữ Nho là một biểu tượng thiên liêng cần
quý trọng.
- Xã hội ngày xưa tôn trọng đạo đức và chữ nghĩa thánh hiền
hơn cả mọi thứ, kể cả tiền tài, của cải vật chất.
- Học hành chữ Nho và Nho giáo để thi cử đậu đạt làm quan là
con đường duy nhất và vinh dự nhất của con người trong xã
hội để tiến thân .
- Người thi cử chưa đậu đạt thì cứ học và thi hoài cho đến già
vẫn còn học chừng đó kinh sách để đi thi.
Những đặc tính của nền học vấn ngày xưa đã đưa đến quan
niệm học trò quý trọng, kính nể thầy giáo hơn quý trọng, kính
nể cha mẹ cũng là một điều tự nhiên.
II/ Quan niệm và cách ứng xử của học sinh đối với thầy

giáo trong thời phong kiến (Tân học):
Ta gọi là thời tân học là kể từ khi nền học vấn Nho học,
chương trình học và cách thi cử ngày xưa là thi Hương, thi
Hội, thi Đình, được chấm dứt để thay thế nền học vấn Pháp-
Việt trở về sau.
Từ khi Việt Nam bị Pháp xâm chiếm thì nền Nho học bị tàn
lụi. Chính quyền bảo hộ Pháp muốn bãi bỏ nền học vấn Nho
học cũ vì rất nhiều lý do. Pháp một mặt sợ sự chống đối của
nhà Nho, không muốn giới nhà Nho đông đảo và vững mạnh
tiếp tục thể thức học hành thi cử xưa. Mặt khác, chúng muốn
cải tổ học vấn căn bản theo cách thức học vấn Pháp, phù hợp
với chính quyền bảo hộ để có một lớp người mới, chịu ảnh
hưởng nền giáo dục Pháp có thể giúp việc cho các cơ quan
hành chánh Pháp.
Do đó, ở Nam Việt, từ khi Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ
năm 1867 thì việc học hành thi cử theo cũ không còn nữa.
Chính Phủ thuộc địa cải cách học vấn theo chương trình Pháp-
Việt. Năm 1915 ở Bắc Việt bãi bỏ thi Hương và tiếp theo, năm
1918 ở Trung Việt cũng bãi bỏ thi Hương. Việc thi cữ theo
chương trình Hán học, chữ Nho hoàn toàn chấm dứt từ đó.
Ngày 21 tháng 12 năm 1917, Nha Học Chánh Đông Dương
ban hành học quy theo chế độ giáo dục Pháp - Việt.
Nền giáo dục mới này là một sự cải tổ toàn diện, từ chữ làm
chuyển ngừ là chữ Quốc ngữ và chừ Pháp, cho đến cách tổ
chức học vấn, chương trình học và cách thi cử.
Thầy giáo:
Thầy giáo là một người chọn nghề dạy học sinh, được đào tạo,
để có đủ khả năng dạy theo chương trình của lớp học phụ
trách. Thầy giáo được chính phủ tuyển dụng và bổ đến trường
và lớp học cần thầy giáo dạy dỗ. Thầy giáo hưởng lương bổng

của chính quyền. Thầy giáo dạy học sinh trong một niên khóa,
trong phạm vi lớp học do thầy giáo phụ trách. Niên khóa sau,
thấy giáo đón nhận lớp học sinh kế tiếp.Trong giai đoạn đầu
chương trình giáo dục Pháp-Việt chỉ có trường công lập.
Trường học:
Trường học là cơ sở công lập. Trường được chia ra nhiều
phòng học. Mỗi phòng học được trang bị bàn, ghế, bản đen,
chỗ ngồi cho khoản ba, bốn mươi học sinh cùng một lớp.
Trường công lập Pháp-Việt có từ cấp thấp ở thôn, xã, gọi là
trường Sơ Học, rồi đến trường công lập huyện dạy lớp cao
hơn, gọi là trường Tiểu Học, và trường công lập cấp tỉnh mở
cho học sinh lớp cao hơn nữa, gọi là trường Cao Đẳng Tiểu
Học và trường Trung Học. Trường học có hiệu trưởng, giám
thị và thầy giáo được chính quyền bổ đến dạy học sinh, trông
coi sinh hoạt học đường.
Học sinh:

Học sinh là những thanh, thiếu niên, được trường thâu nhận
dạy văn hóa theo đơn xin của phụ huynh. Học sinh được thâu
nhận vào các lớp khác nhau tùy theo từng hạn tuổi và sức học
quy định. Học sinh học lớp đầu tiên từ 6 tuổi đến 8 tuổi, và từ
đó, cứ học mỗi niên khóa là một lớp học, nếu học sinh học có
kết quả tốt. Theo nguyên tắc, cứ mỗi năm học một lớp. Học
sinh từ khi vào học lớp đầu tiên cỡ sáu tuổi cho đến lúc học
xong trung học vào tuổi mười tám, hai mươi.
Hệ thống giáo dục và chương trình học:
Hệ thống giáo dục Pháp-Việt được chia làm nhiều cấp, mỗi
cấp gồm nhiều lớp.
Muốn lên lớp trên học sinh phải học xong lớp dưới, trong một
niên khóa là 9 tháng học và 3 tháng nghỉ hè. Học sinh cấp

dưới muốn lên cấp trên cần phải thi đậu các kỳ thi. Đây là hệ
thống giáo dục 13 năm (sau này đổi thành 12 năm), gồm 4 cấp
(sau này đổi thành 3 cấp), với chương trình học rất ăn khớp
nhưng rất nặng nề, bắt buộc học sinh phải dùng rất nhiều thì
giờ để học và thi cho có kết quả.
Cấp Sơ Học:
Cấp Sơ Học gồm có 3 lớp, lớp Đồng Ấu hay lớp Năm (lớp1),
lớp Dự Bị hay lớp Tư (lớp 2), lớp Sơ Đẳng hay lớp Ba (lớp 3).
Trường Sơ Đẳng thường được mở ở làng. Cấp sơ học dạy chữ
Quốc Ngữ. Bài học gồm có tập đọc, tập viết, tập đặt câu bằng
chữ Quốc Ngữ, và làm toán cọng trừ nhân chia, cách trí, vệ
sinh, đức dục. Lớp Sơ Đẳng bắt đầu dạy thêm một ít chữ Pháp.
Học xong lớp Sơ Đẳng học sinh thi bằng Sơ Học Yếu Lược để
lên cấp kế tiếp.
Cấp Tiểu Học:
Cấp tiểu học gồm lớp Nhì Nhất Niên (lớp 4 năm thứ nhất),
Lớp Nhì Nhị Niên (lớp 4 năm thứ hai), và lớp Nhất (lớp 5).
Trường tiểu học công lập được mở tại các Quận. Chữ Pháp là
chữ chính được được dạy ở cấp này. Các môn học có thêm
Địa dư, Sử ký, Cách trí, toán đố, quy tắc tam xuất, luận văn.
Học xong lớp Nhất học sinh thi Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học. Đậu
xong bằng tiểu học thì học sinh được thi tuyển theo học cấp
tiếp theo.
Cấp Cao Đẳng Tiểu Học:
Cấp Cao Đẳng Tiểu Học, nay là Trung Học Đệ Nhất Cấp gồm
4 lớp, lớp Đệ nhất niên hay Đệ thất (lớp 6), lớp Đệ nhị niên
hay Đệ lục (lớp 7), Đệ tam niên hay Đệ ngũ (lớp8), Đệ tứ niên
hay Đệ tứ (lớp 9) .
Cấp cao đẳng tiểu học chuyên ngữ được dùng chữ Pháp. Các
môn học gồm khoa học căn bản, vật lý điện học, hóa học vô

cơ, vạn vật động vật học, toán trung cấp gồm đại số, hình học
phẳng, sử ký thế giới và Việt Nam, địa lý thế giới và Việt
Nam, văn chương Pháp và Việt Nam, Họa, Nhạc, v v Cấp
này có thêm ngoại ngữ gồm Anh văn, Hán văn.
Từ cấp này, trong một niên khóa, học sinh được học với nhiều
thầy, mỗi thầy dạy mỗi môn theo một số giờ được ấn định
trong thời khóa biểu. Một lớp học cấp này, học sinh có khoản
mười thầy giáo.
Học sinh phải thi đậu bằng Cao -Tiểu hay Thành Chung
(Trung Học Đệ Nhất Cấp) mới được lên học Trung học (Trung
học đệ nhị cấp).
Trong những thập niên đầu thế kỷ XX, trường Cao Đẳng Tiểu
học chỉ có ở các nơi như Hà Nội có trường Bảo Hộ, hay
trường Bưởi, sau này là trường Chu Văn An cho nam sinh,
trường Trưng Vương cho nữ sinh, Huế có trường Quốc Học
cho nam sinh, trường Đồng Khánh cho nữ sinh, Sài-gòn có
trường Petrus Ký cho nam sinh, trường Gia Long cho nữ sinh.
Tại Mỹ- Tho có trường Le Myre de Vilers sau nà là trường
Nguyễn đình Chiểu.
Cấp Trung Học:
Cấp Trung Học nay là trung học đệ nhị cấp, gồm 3 lớp: lớp Đệ
Tam (lớp 10, lớp Đệ Nhị (lớp 11), lớp Đệ Nhất (lớp 12).
Chuyên ngữ chữ Pháp tiếp tục được dùng điêu luyện hơn bởi
học sinh cấp cấp cao đẳng tiểu học và cấp trung học. Trong
những năm đầu trường trung học Pháp- Việt được học tiếp ba
năm thì thi Tú Tài gọi là Tú Tài Bản Xứ (Baccalaureat Local).
Về sau, khoản từ cuối thập niên 1920 mới có thi bằng Tú Tài
Một và Tú Tài Hai. Học sinh phải thi đậu Tú Tài Một mới
được học và thi Tú Tài Hai. Năm cuối cùng cấp trung học thời
đó được chia ra thành ba Ban khác nhau: Ban Khoa học Thực

Nghiệm, Ban Toán và Ban Triết.
Chương trình tú tài một gồm có toán lượng giác, hình học
không gian, hóa học vô cơ, hữu cơ, vật lý chuyển động, vạn
vật động vật học, Sử ký và địa lý thế giới và Việt Nam.

×