Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng khoán FLC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 77 trang )


Mở Đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 12 năm đi vào hoạt động đã
trải qua không ít khó khăn nhưng cũng gặt hái được nhiều thành quả đáng
khích lệ. Với đà phát triển mạnh mẽ được đánh giá là nhanh nhất thế giới
trong thời gian vừa qua quy mô của thị trường chứng khoán được nâng lên
một tầm cao mới, tốc độ phát triển nhanh hơn, mạnh mẽ hơn đã làm xuất
hiện hàng loạt các công ty chứng khoán. Theo thông tin từ Ủy ban chứng
khoán Nhà Nước cuối năm 2012 đã có gần 100 công ty chứng khoán chính
thức hoạt động. Sự xuất hiện của quá nhiều các công ty chứng khoán mới
khiến cho cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán trở lên gay gắt hơn bao
giờ hết. Hơn thế nữa, với sự hôi nhập xâu rộng vào kinh tế toàn cầu, sự xuất
hiện của các công ty chứng khoán nước ngoài, sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Một cuộc đua thầm lặng nhưng khốc liệt giữa các công ty chứng khoán
trong và ngoài nước đã chính thức bắt đầu. Để tồn tại và phát triển không còn
cách nào khác là các công ty chứng khoán phải tự nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình Chính vì thế, làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của
các công ty chứng khoán trong tình hình hiện nay là vấn đề vô cùng cấp thiết.
Hơn thế nữa, sự hội nhập với kinh tế toàn cầu xảy ra như một xu thế tất
yếu, các công ty tài chính nước ngoài không giấu ý định tiềm kiếm cơ hội đầu
tư ở một thị trường giàu tiềm năng như Việt Nam. Sự cạnh tranh không chỉ
đến từ các công ty nhỏ bé trong nước mà còn từ ngoài biên giới. Để tồn tại và
phát triển không còn cách nào khác là các công ty chứng khoán phải tự nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình. Chính vì thế, làm thế nào để nâng cao năng
lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán trong tình hình hiện nay là vấn đề
vô cùng cấp thiết.

Được đào tạo về chuyên ngành Thị trường chứng khoán cộng với sự yêu
thích của bản thân về ngành này, em đã có cơ hội được thực tập tại CTCP
Chứng khoán FLC để có dịp được cọ xát với thực tế, áp dụng những kiến thức


đã học trên giảng đường và học hỏi, trau dồi những kiến thức, kỹ năng từ
những người có kinh nghiệm. Trong thời gian thực tập tại phòng môi giới và
phân tích của CTCK FLC, với sự quan tâm giúp đỡ của ban lãnh đạo công ty
cũng như các anh chị trong phòng môi giới và phân tích, em đã hoàn thành
bản chuyên đề thực tập tại CTCK FLC “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh tại công ty cổ phần chứng khoán FLC ”
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
- Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề có tính lý luận về công ty chứng
khoán ,hoạt động của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán, cạnh
tranh và năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
- Phân tích thực trạng hoạt động của các công ty cổ phần chứng khoán
FLC; năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán thông qua một số
chỉ tiêu từ đó đánh giá kết quả, hạn chế và các nguyên nhân gây ra hạn chế
trong hoạt động của các công ty.
- Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
công ty cổ phần chứng khoán FLC
- Đối tượng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội
- Phạm vi nghiên cứu là kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong
năm 2006 và 2007
3. Kết cấu đề tài
Chuyên đề này gồm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán và năng lực cạnh
tranh của công ty chứng khoán

Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng
khoán FLC
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty
chứng khoán FLC


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CỞ BẢN VỀ CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN
1.1 Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán
1.1.1 Mô hình tổ chức của các công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian, có vị trí, vai
trò rất quan trọng trong thị trường chứng khoán. Lịch sử hình thành và phát
triển thị trường chứng khoán đã chứng minh: “Một thị trường chứng khoán
không thể thiếu loại chủ thể này, nó cần cho cả người phát hành, người đầu tư
chứng khoán. Nó là một trong những nhân tố quyết định đến phát triển, sự sôi
động của thị trường chứng khoán”. Những ảnh hưởng tác động của công ty
chứng khoán đối với các chủ thể tham gia thị trường và sự vận hành của thị
trường chứng khoán là rất lớn.
Hiện nay trên thế giới có 2 mô hình hoạt động của công ty chứng khoán
bao gồm: Mô hình công ty chuyên doanh và mô hình công ty đa năng
- Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các CTCK
độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân
hàng không đuợc tham gia vào kinh doanh chứng khoán.
Với ưu điểm hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho
TTCK phát triển, mô hình này đang được nhiều quốc gia trên thế giới áp
dụng, trong đó có các nước phát triển như: Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Canada…
- Mô hình công ty đa năng
Ngày nay với sự phát triển của TTCK để tận dụng thế mạnh của lĩnh
vực tiền tệ và lĩnh vực chứng khoán, các quốc gia có xu hướng nới lỏng ngăn

cách giữa hoạt động tiền tệ và chứng khoán, bằng cách cho phép hình thành
mô hình công ty đa năng một phần – các Ngân Hàng Thương Mại thành lập
công ty con để chuyên kinh doanh chứng khoán

Trong mô hình đa năng, công ty chứng khoán là một phần của ngân
hàng thương mại, nghĩa là ngân hàng thương mại tham gia trên cả lĩnh vực
tiền tệ, bảo hiểm, chứng khoán. Mô hình này lại bao gồm 2 mức độ: đa năng
một phần và đa năng hoàn toàn
- Đa năng một phần: Theo mô hình này các Ngân hàng muốn kinh doanh
chứng khoán phải thành lập một công ty con hạch toán độc lập và hoạt động
tách rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ
- Đa năng hoàn toàn: Các ngân hành được phép trực tiếp kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh bảo hiểm như các dịch vụ tài chính khác
Mô hình đa năng có ưu điểm là các ngân hàng thương mại có thể thực
hiện đa dạng hóa, giảm bới rủi ro, tăng khả năng chịu đựng những biến động
của thị trường tài chính. Ngoài ra, ngân hàng thương mại là tổ chức kinh
doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ có lịch sử lâu đời, có thế mạnh về tài
chính và chuyên môn trong lĩnh vực tài chính, do đó cho phép các ngân hàng
thương mại tham gia kinh doanh chứng khoán sẽ tận dụng được thế mạnh của
ngân hàng, tạo động lực cho sự phát triển của TTCK. Tuy nhiên, mô hình này
cũng bộc lộ những hạn chế nhất định như không thúc đẩy được thị trường cổ
phiếu phát triển vì các ngân hàng có xu hướng bảo thủ thích hoạt động cho
vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK như: bảo lãnh phát hành, tư
vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Và một khi thị trường có
biến động thì nó có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân
hàng nếu các ngân hàng không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh tiền tệ
và kinh doanh chứng khoán
1.1.2 Đặc trưng pháp lý
Để công ty chứng khoán phát huy hết vai trò to lớn của mình, ngăn ngừa
những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp

của các nhà đầu tư và sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường
chứng khoán thì vấn đề tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán phải
được đặt trong hành lang pháp lý chặt chẽ với những điều kiện đòi hỏi cao

khác hẳn với các doanh nghiệp thông thường. Vì vậy, các quốc gia đều sử
dụng pháp luật để điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của Công ty chứng
khoán. Thậm chí có những nước ban hành đạo luật riêng để quy định việc tổ
chức và hoạt động của công ty chứng khoán như Mỹ, Nhật, Thái lan…, còn
một số nước các quy định về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán
là một phần trong đạo luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán như:
Malaixia, Trung Quốc.
Ở Việt Nam vấn đề tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán
trước đây được quy định trong Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998
về chứng khoán và thị trường chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Sau này vấn đề tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán được
quy định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/11/2003 và
được cụ thể hoá trong Quyết định số 55/2004/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài
chính ngày 17/6/2004 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của
công ty chứng khoán.
Hiện nay, tại Luật chứng khoán Việt Nam không có định nghĩa về công
ty chứng khoán. Tuy nhiên, qua các quy định cụ thể trong Luật chứng khoán
có thể khái quát định nghĩa về công ty chứng khoán như sau:
Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH được thành
lập, hoạt động theo Luật chứng khoán và các các quy định của pháp luật có
liên quan để thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán dưới đây theo giấy phép do UBCKNN cấp: Môi giới chứng khoán, tự
doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng
khoán.
Từ định nghĩa trên, có thể khái quát các đặc điểm pháp lý của các công ty
chứng khoán nói chung như sau:

Một là, công ty chứng khoán là loại hình doanh nghiệp được thành lập dựa
trên cơ sở Luật chứng khoán và các quy định pháp luật có liên quan
Hai là, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức pháp lý công ty

cổ phần hoặc công ty TNHH.Điều này được chỉ rõ trong Luật chứng khoán
điều 66, 1 khoản
Ba là, công ty chứng khoán có hoạt động kinh doanh chính, thường
xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh doanh dịch vụ chứng khoán trên thị
trường chứng khoán
1.1.3 Nguyên tắc hoạt động
1.1.3.1 Nguyên tắc đạo đức
Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán ảnh hưởng nhiều tới lợi
ích công chúng và biến động của thị trường tài chính. Vì vậy, luật pháp các
nước qui định rất chặt chẽ đối với hoạt động của công ty chứng khoán. Nhìn
chung có một số nguyên tắc cơ bản sau:
- Công ty chứng khoán có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, chỉ được tiết lộ
thông tin khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
- Công ty chứng khoán phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không được
tiến hành bất cứ hoạt động lừa đảo phi pháp nào.
-Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài
chính để kinh doanh.
- Công ty chứng khoán phải tách biệt tài sản của mình với tài sản của khách
hàng và tài sản của khách hàng với nhau; không được dùng tài sản của khách
hàng làm vật thế chấp, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản.
- Công ty chứng khoán khi thực hiện tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin
cho khách hàng, đảm bảo thông tin chính xác, tin cậy.

- Công ty chứng khoán không được nhận bất cứ khoản thù lao nào
ngoài các khoản thù lao thông thường cho hoạt động dịch vụ của mình.
- Ở nhiều nước, công ty chứng khoán phải đóng tiền vào quĩ bảo vệ nhà đầu
tư chứng khoán để bảo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp công ty
chứng khoán bị mất khả năng thanh toán.
- Ngoài ra, các nước còn có qui định chặt chẽ nhằm chống thao túng thị
trường; cấm mua bán khớp lệnh giả tạo với mục đích tạo ra trạng thái "tích

cực bề ngoài"; cấm đưa ra lời đồn đại, xúi dục hoặc lừa đảo trong giao dịch
chứng khoán; cấm giao dịch nội gián sử dụng thông tin nội bộ mua bán chứng
khoán cho chính mình làm thiệt hại tới khách hàng.
1.1.3.2 Nguyên tắc tài chính
- Vốn.
Vốn của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ. Nhìn
chung, số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng
việc cân đối giữa vốn pháp định và nhu cầu vốn kinh doanh của công ty.
- Cơ cấu vốn: Nợ và Có.
Cơ cấu vốn là tỉ lệ các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp của các
thành viên mà công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình.
Việc huy động vốn được tiến hành thông qua việc góp vốn của các cổ đông,
thông qua hệ thống ngân hàng, thị trường vốn.
Việc huy động vốn và cơ cấu vốn của công ty chứng khoán có các đặc
điểm chung:
Các công ty phụ thuộc khá nhiều vào các khoản vay ngắn hạn.
Các chứng khoán đem ra mua bán, trao đổi trên thị trường chiếm phần
lớn tổng giá trị tài sản của công ty chứng khoán (40% - 60%).
Ở các nước đang phát triển, thông thường các công ty chứng khoán
không được vay vốn của nước ngoài trong khi ở những nước phát triển điều
này được phép thực hiện.

Tỉ lệ nợ tuỳ thuộc vào công ty chứng khoán nhưng phải tuân theo qui
định của các cấp quản lí.
- Quản lí vốn và hạn mức kinh doanh.
* Quản lí vốn khả dụng: các công ty chứng khoán thường phải duy trì một
mức vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán.
* Quản lí quĩ bù đắp rủi ro: Các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự
doanh thường phải duy trì một tỉ lệ dự trữ trên mức lợi nhuận ròng, còn các
công ty môi giới duy trì tỉ lệ dự trữ tính trên tổng doanh thu với mục đích bù

đắp các khoản lỗ kinh doanh trong năm đó.
* Quản lí quĩ bổ sung vốn điều lệ: công ty chứng khoán phải trích tỉ lệ phần
trăm lãi ròng hàng năm để lập quĩ bổ sung vốn điều lệ cho tới khi đạt một tỉ lệ
phần trăm nào đó của vốn điều lệ. Quĩ này dùng bù đắp những thâm hụt trong
tương lai.
* Quản lí hạn mức kinh doanh: hạn mức kinh doanh được qui định khác nhau
tuỳ từng quốc gia. Thông thường nó tuân theo một số qui định sau:
• Hạn chế mua sắm tài sản cố định theo tỉ lệ % trên vốn điều lệ.
• Đặt ra hạn mức đầu tư vào mỗi loại chứng khoán.
• Qui định hạn mức đầu tư vào một số tài sản rủi ro cao.
- Chế độ báo cáo.
Các thông tin tài chính được thể hiện qua các báo cáo. Các báo cáo này,
theo qui định một số nước, phải nộp cho Uỷ ban chứng khoán (hoặc cơ quan
quản lý tương đương) và một tổ chức tự quản làm cơ quan kiểm tra các báo
cáo tài chính thường niên đã được kiểm toán. Báo cáo tài chính được kiểm
toán bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán.
- Báo cáo lỗ lãi.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

Ngoài báo cáo thường niên, công ty chứng khoán phải gửi một báo cáo
quản lý toàn diện về tình hình tài chính theo quý như quy định của Uỷ ban
chứng khoán.
Ngoài ra công ty phải gửi báo cáo hàng tháng cho tổ chức tự quản có
thẩm quyền để kiểm tra tình hình tài chính và việc tuân thủ các trách nhiệm
tài chính.
Nếu công ty chứng khoán không đáp ứng được một số tiêu chuẩn kinh
doanh và tài chính thì có thể phải gửi nhiều báo cáo hơn (báo cáo tuần).
1.1.4 Vai trò của công ty chứng khoán
Khi xuất hiện CTCK với tư cách là tổ chức trung gian tài chính thì

CTCK đã góp phần làm cho kênh huy động vốn trung và dài hạn trở nên
thông suốt, dễ dàng hơn, san sẻ bớt gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương
mại.
Xem xét tất cả các khía cạnh của CTCK, từ đặc điểm đến chức năng cho
ta thấy được vai trò quan trọng không thể thiếu được của CTCK đối với sự
tồn tại và phát triển của TTCK
- Vai trò làm cầu nối cung cầu chứng khoán
CTCK là một định chế tài chính trung gian than gia hầu hết vào quá trình
luân chuyển của chứng khoán: từ khâu phát hành trên thị trường sơ cấp đến
khâu giao dịch trên thị trường thứ cấp
 Trên thị trường sơ cấp
CTCK là cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức
phát hành huy động vốn nhanh chóng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
CTCK với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy
tổ chức thích hợp, họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới mua bán, phát
hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số nghiệp vụ khác cho cả
nhà đầu tư và nhà phát hành. Với nghiệp vụ này, CTCK thực hiện vai trò làm
cầu nối và kênh dẫn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu
 Trên thị trường thứ cấp

CTCK là cầu nối giữa các nhà đầu tư, là trung gian chuyển các khoản
đầu tư thành tiền và ngược lại
- Vai trò hình thành giá chứng khoán
Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán cho các tổ chức phát hành. công ty chứng khoán thực hiện vai
trò hình thành giá cả chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ
chức phát hành mức giá hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành.
- Vai trò thực thi tính hoán tệ của chứng khoán
Các nhà đâu tư luôn muốn dễ dàng chuyển tiền mặt sang chứng khoán
và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định

- Vai trò giúp Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và điều tiết thị
trường
Theo quy định của các nước, các CTCK có nghiệp vụ tự doanh phải
dành ra 1 tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá
giảm và bán chứng khoán dự trữ khi giá lên quá cao nhằm góp phần điều tiết
và bỉnh ổn thị trường.
Thông qua việc ban hành luật, quy định điều chỉnh hoạt động các công ty
chứng khoán mà Nhà Nước có thể kiểm soát cũng như điều tiết các hoạt động
của thị trường.
1.1.5 Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán
CTCK thực hiện một hoặc một số hay tất cả các nghiệp vụ trên
TTCK .Khả năng thực hiện các nghiệp vụ không những chỉ phụ thuộc vào
quy mô, năng lực của công ty mà còn tuân thủ quy định của pháp luật về điều
kiện hành nghề.
Hiện nay, trên TTCK , công ty chứng khoán có thể thực hiện những
nghiệp vụ chủ yếu sau :
1.1.5.1 Nghiệp vụ môi giới chứng khoán

Mô giới chứng khoán là hoạt động trung gian mua bán chứng khoán cho
khách hàng để hưởng hoa hồng, thực hiện lệnh mua, bán chứng khoán cho
khách hàng, chuyển các lệnh mua bán đó vào sở giao dịch chứng khoán
khi thực giện hoạt động mô giới cần lưu ý:
- Quyết định mua bán là do khách hàng đưa ra và người mô giới phải thực
hiện các lệnh đó
- Công ty chứng khoán phải đứng tên mình thực hiện các giao dịch theo lệnh
của khách hàng
- Việc hạch toán các giao dịch phải được thực hiên trên các tài khoản thuộc sở
hữu của khách hàng
- Công ty chứng khoán chỉ được thu phí dịch vụ theo thỏa thuận trong các hợp
đồng ủy thác giao dịch

Nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng cũng như đảm bảo tính ổn định
hiệu quả cho TTCK, pháp luật có những yêu cầu rất cao đối với nhà môi giới.
Người môi giới, trước hết phải được tín nhiệm, phải có lòng tin của khách
hàng. Tiếp đó họ phải có năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp, có khả năng
phân tích tài chính doanh nghiệp. Và các nhà môi giới hoạt động trên thị
trường chính thức hay thị trường Upcom đều phải đăng ký và được cấp giấy
phép hành nghề
Quy trình mô giới gồm các bước cơ bản sau
- Bước 1: Khai thác tìm kiếm khách hàng:
Nhân viên môi giới tiếp cận và giải thích cho khách hàng hiểu về việc
đầu tư chứng khoán có những lợi và bất lợi gì. Trong quá trình tiếp cận khách
hàng cũng giải thích cho khách hàng biết cách thức tham gia thị trường như
thế nào, những thủ tục và những quy định của chính phủ, Bộ Tài Chính, và
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc tham gia đầu tư và kinh doanh chứng
khoán của các nhà đầu tư.
- Bước 2: Mở tài khoản cho khách hàng.

Sau khi khách hàng chấp nhận đầu tư chứng khoán, nhân viên môi giới
hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục mở tài khoản giao dịch chứng khoán,
làm hợp đồng mở tài khoản giữa khách hàng và công ty chứng khoán. Khi mở
tài khoản giao dịch chứng khoán, công ty sẽ cấp cho khách hàng mã số giao
dịch và số hiệu tài khoản.
- Bước 3: Nhận lệnh của khách hàng.
Nhân viên môi giới kiểm tra các số dư trên tài khoản của khách hàng và
hướng dẫn khách hàng cách thức đặt lệnh. Khách hàng đặt lệnh mua hoặc bán
chứng khoán bằng cách ghi trên tờ phiếu lệnh mua hoặc lệnh bán (in theo mẫu
của trung tâm giao dịch chứng khoán) của công ty.
- Bước 4: Gửi lệnh của khách hàng vào trung tâm giao dịch chứng
khoán.
Nhân viên đại diện của công ty sẽ nhập lệnh của khách hàng vào hệ

thống giao dịch của trung tam giao dịch chứng khoán.
- Bước 5: Xác nhận giao dịch cho khách hàng
Sau khi giao dịch, trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ gửi kết quả giao
dịch cho công ty. Nhân viên môi giới kiểm tra kết quả khớp lệnh và thông báo
kết quả giao dịch cho khách hàng.
- Bước 6: Thanh toán, hạch toán kết quả giao dịch và thông báo cho
khách hàng.
- Bước 7: Chăm sóc và mở rộng khai thác tìm kiếm khách hàng
1.1.5.2 Tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua hoặc bán
chứng khoán cho mình để được hưởng lợi nhuận. Hoạt động tự doanh của
công ty được thực hiện trên sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường
Upcom. Tự doanh là kinh doanh cho chính mình và vì mục tiêu lợi nhuận
nên mức độ rủi ro lớn do đó muốn thực hiện hoạt động tự doanh CTCK phải
có một số vốn đủ lớn, thường lớn hơn nhiều so với hoạt động môi giới. Mặt
khác để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường các CTCK còn

phải tuân thủ những yêu cầu nhất định của pháp luật, trong đó 2 yêu cầu cơ
bản là vốn và con người. Pháp luật Việt Nam quy định mức vốn pháp định
cho hoạt động tự doanh là 100 tỷ VNĐ
Giao dịch tự doanh thực hiện theo phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp
- Giao dịch trực tiếp là các giao dịch “Trao tay” giữa khách hàng và công ty
chứng khoán theo giá thỏa thuận trực tiếp
- Giao dịch gián tiếp là các giao dịch mà công ty chưng khoán không thể
thực hiện được bằng giao dịch trực tiếp để đảm bảo an toàn khi giá chứng
khoán có biến động lớn và đôi khi có thể vì mục đích can thiệp giá vào thị
trường
Quy trình tự doanh gồm các bước sau:
- Bước 1: Xây dựng chiến lược đầu tư:
Công ty chứng khoán căn cứ vào thực trạng nền kinh tế, khả năng nắm

bắt và xử lý thông tin, trình độ phân tích tài chính, chính trị-xã hội và khả
năng phân tích tâm lý, khả năng điều hành của ban lãnh đạo công ty để xây
dựng chiến lược đầu tư của mình. Chiến lược kinh doanh của công ty chứng
khoán có thể là chiến lược đầu tư chủ động, thụ động hoặc kết hợp…
- Bước 2: Khai thác, tìm kiếm các cơ hội đầu tư.
Theo mục tiêu chiến lược đã lựa chọn, công ty sẽ chủ động tìm kiếm
mặt hàng, nguồn hàng, khách hàng, cơ hội đầu tư… Việc tìm kiếm cơ hội đầu
tư áp dụng với cả chứng khoán niêm yết và chưa niêm yết, trên cả thị trường
sơ cấp và thứ cấp.
- Bước 3: Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư.
Dựa trên các nguồn thông tin (báo cáo tài chính, các thông tin liên quan
trực tiếp đến doanh nghiệp như tình hình kinh tế nghành, các chỉ tiêu phát
triển kinh tế chung…) và trên cơ sở chiến lược đã lựa chọn, công ty sẽ thẩm
định, phân tích các khoản đầu tư bằng các phương pháp phân tích cơ bản và
phân tích kỹ thuật để tìm ra các kết luận phù hợp về cơ hội đầu tư, mặt hàng,
giá cả, địa điểm…

- Bước 4: Thực hiện đầu tư.
Nếu thực hiện mua chứng khoán trên thị trường sơ cấp, bộ phận tự
doanh phải tuõn thủ đúng quy trình đấu thầu, hoặc bảo lãnh phát hành, hoặc
thoả thuận với tổ chức phát hành trong các công đoạn chuẩn bị phát hành
chứng khoán.
Nếu thực hiện trên thị trường thứ cấp, bộ phận tự doanh phải đặt lệnh
giao dịch theo phương thức khớp lệnh hoặc giao dịch thoả thuận (trên sở giao
dịch chứng khoán) hoặc khớp giá ( trên OTC). Sau đó, nhân viên tự doanh
phối hợp với bộ phận kế toán để xác nhận kết quả giao dịch, hoàn tất các thủ
tục thanh toán chứng khoán và tiền.
- Bước 5: Quản lý đầu tư và thu hồi vốn.
Sau khi thực hiện kinh doanh chứng khoán, bộ phận tự doanh sẽ có trách
nhiệm theo dừi, đánh giá tình hình và thực hiện những hoạt động nghiệp vụ

cần thiết để quản lý danh mục đầu tư của mình cũng như tìm kiếm cơ hội đầu
tư mới.
1.1.5.3 Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Hoạt động bảo lãnh phát hành là việc công ty chứng khoán có chức năng
bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán
chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng
khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo các phương thức sau:
• Bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn
Là phương thức bảo lãnh phát hành mà tổ chức bảo lãnh phát hành cam
kết với tổ chức phát hành sẽ mua hết lượng chứng khoán với một mức giá
thoả thuận và phân phối lại cho công chúng tại mức giá chào bán ra công
chúng (POP). Giá chào bán ra công chúng POP không được thay đổi trong
suốt quá trình chào bán. Mức giá thoả thuận còn được gọi là mức giá chiết
khấu (discount price) và chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của tổ chức
bảo lãnh và giá bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu

• Bảo lãnh theo phương thức cố gắng cao nhất
Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh chỉ đóng vai trò
đại lý phát hành cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh chỉ cam kết sẽ cố
gắng để bán được nhiều nhất chứng khoán ra thị trường theo mức giá xác
định. Số chứng khoán không bán hết sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành, tổ
chức bảo lãnh nhận được hoa hồng bảo lãnh trên số chứng khoán bán được
hoặc trên số vốn huy động được
• Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không
Là phương thức tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành
phải bán trọn đợt phát hành nếu không bán được hết họ sẽ huỷ bỏ đợt phát
hành đó.
• Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu hoặc tối đa
Tổ chức phát hành đưa ra lượng trần là lượng chứng khoán mà họ muốn

bán. Tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải xác lập lượng sàn là
lượng chứng khoán họ có cam kết chắc chắn đồng thời phải cố gắng tối đa để
bán đến lượng trần
1.1.5.4 Tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân
tích , công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán
Tính đa dạng và phong phú của hoạt động tư vấn được thể hiện qua một
số tiêu chí phân loại sau:
* Theo hình thức hoạt động tư vấn
- Tư vấn trực tiếp: khách hàng gặp gỡ trực tiếp với nhà tư vấn hoặc sử dụng
các phương tiện liên lạc như: điện thoại, fax
- Tư vấn gián tiếp: nhà tư vấn tư vấn cho khách hàng thông qua các ấn phẩm,
sách báo hoặc đưa thông tin lên các phương tiện truyền thông như Internet
* Theo đối tượng tư vấn
- Tư vấn cho người phát hành: hoạt động này rất đa dạng, từ việc tư vấn cho
tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành; xây dựng hồ sơ,

bản cáo bạch vừa giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo
lãnh, phân phối chứng khoán đến việc phân tích tình hình tài chính, xác định
giá trị doanh nghiệp, giúp tổ chức phát hành cơ cấu lại nguồn vốn, chia tách,
thâu tóm, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp, niêm yết chứng khoán.
- Tư vấn đầu tư: là hoạt động nhà đầu tư tư vấn cho khách hàng về thời gian
mua bán, nắm, giữ, loại chứng khoán, giá trị của chứng khoán, cung cấp các
thông tin
1.1.5.5 Các nghiệp vụ khác
- Lưu ký chứng khoán
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán cho khách hàng thông qua các tài
khoản lưu ký chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký, CTCK sẽ nhận
được các khoản phí lưu ký chứng khoán, phí gửi và phí chuyển nhượng chứng
khoán

- Quản lý thu nhập của khách hàng
Thông qua tài khoản lưu ký của khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình
hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi
trả cổ tức cho khách hàng
- Hoạt động tín dụng
Đây là dịch vụ mà CTCK cho khách hàng vay chứng khoán để khách
hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc CTCK cho khách hàng vay tiền để
khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ
- Quản lý quỹ
Ở một số TTCK, pháp luật còn cho phép CTCK được thực hiện nghiệp
vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, CTCK cử đại diện của mình để quản lý ,sử
dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán.
1.2 Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của công ty chứng khoán
1.2.1 Khái niệm đầu tiên về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp

Cạnh tranh là một khái niệm rộng, không những tồn tại trong lĩnh vực
kinh tế mà còn tồn tại trong lĩnh vực xã hội. Trong kinh tế thị trường, các chủ
thể kinh tế vì lợi ích riêng của bản thân mình mà tiến hành cạnh tranh với
nhau.
Theo Michael Porter, cha đẻ của Marketing hiện đại cạnh tranh là
giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi
nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả
quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều
hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi (1980).Cạnh tranh
của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp với các đối thủ
trong cùng một ngành
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được hiểu đơn giản là sự giành giật
giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm giành được lợi ích tối đa cho mình

Trong quá trình nghiên cứu về cạnh tranh, người ta đã sử dụng khái niệm
năng lực cạnh tranh .Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy
trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng
mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất
nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững.
Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán là khả năng công ty chứng
khoán tạo ra được lợi thế cạnh tranh so với các công ty chứng khoán khác.
Nghĩa là công ty chứng khoán có khả năng tạo ra sản phẩm dịch vụ có chất
lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh,chiếm thị phần lớn hơn, tạo ra thu nhập cao
hơn và phát triển bền vững hơn
Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán do nhiều yếu tố cấu thành
nên việc định giá nó rất phức tạp. Tuy nhiên có thể đánh giá theo hai nhóm
chỉ tiêu định tính và định lượng.
1.2.2 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ông ty chứng
khoán
1.2.2.1 Các chỉ tiêu định tính

 Chất lượng dịch vụ
Chất lượng dịch vụ của CTCK là sự thỏa mãn nhu cầu và mong muốn
của khách hàng trên một nền tảng ổn định trong một nỗ lực để thu hút được
khách hàng mới và duy trì được những khách hàng cũ của công ty
Chất lượng dịch vụ được phản ánh thông qua mức độ thỏa mãn của
khách hàng khi sử dụng dịch vụ của công ty. Có 5 mức độ đo lường chất
lượng dịch vụ như sau:
- Mức độ tính nhiệm: Thể hiện hoàn thành đấy đủ nghĩa vụ cam kết
với khách hàng khi họ mở tài khoản và giao dịch tại hệ thống của công ty
- Mức độ bảo đảm: Thể hiện kiến thức, tinh thần trách nhiệm và
năng lực giải quyết vấn đề của nhân viên.Giải quyết các vấn đề một cách
nhanh nhất mà gây thiệt hại ít nhất cho khách hàng của mình
- Mức độ thực hiện: Thể hiện các phương tiện vật chất hỗ trợ.Hệ

thống công nghệ thông tin của công ty phải truyền kịp thời thông tin giao dịch
cho khách hàng và những thông tin hô trợ khác
- Mức độ cảm thông: Thể hiện thái độ phục vụ ân cần ,tận
tình.Thái độ của nhân viên là một chất xúc tác hữu hiệu trong việc duy trì
khách hàng cũ và mở rộng khách hàng mới
 Trình độ công nghệ
Công nghệ là một yếu tố rất quan trọng trong cạnh tranh của các công ty
chứng khoán. Nhờ khoa học công nghệ thông tin các CTCK có thể tiết kiệm
được chi phí quản lý, chi phí hoạt động kinh doanh chứng khoán từ đó giảm
phí cung cấp dịch vụ cho khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của
CTCK. Để đánh giá được trình độ công nghệ của một công ty chứng khoán
thì cần phải xem xét hạ tầng, cơ sở vật chất công nghệ của công ty đó, phần
mềm ứng dụng, khả năng tích hợp với hệ thống của sở giao dịch và các ngân
hàng
 Chất lượng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ quốc gia nào,
đặc biệt trong lĩnh vức chứng khoán, nơi mà công việc đòi hỏi phải có hàm
lượng chất xám cao, có tinh thần trách nhiệm cao, khả năng truyền đạt phân
tích thông tin nhanh chóng thì điều đó càng quan trọng. Một đội ngũ nhân
viên có năng lực, chuyên môn giỏi sẽ làm gia tăng sự tin tưởng của khách
hàng vào công ty để từ đó sẽ tin tưởng gửi gắm nới công ty những quyết định
sáng suốt và hiệu quả, tức là gia tăng năng lực cạnh tranh của công ty
 Hệ thống quản lý rủi ro
Trong hoạt động kinh doanh ngày nay, rủi ro là khái niệm được hết sức
quan tâm.Có rất nhiều loại rủi ro đi kèm với hoạt động kinh doanh thường
ngày. Đó là rủi ro lạm phát, rủi ro hệ thống, rủi ro hệ thống, ….
Một công ty biết cách phân tích và có chiến lược quản lý rủi ro, công ty
có thể quyết định nên thực hiện những gì để giảm thiểu những nhân tố làm
xáo trộn kế hoạch kinh doanh, đảm bảo mục tiêu kinh doanh

 Năng lực quản lý
Khủng hoảng kinh tế diễn ra đã phơi bày nhiều hạn chế trong công tác
quản lý ở các doanh nghiệp tài chính. Nhiều CTCK hoạt động không hiệu quả
đi đến thua lỗ phá sản là do trình độ quản lý yếu kém.Chính vì thế, một
CTCK muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý kinh
doanh đủ mạnh giúp cho nó có khả năng sử dụng một cách tốt nhất các nguồn
lực trong quá trình kinh doanh .Như vậy vai trò của nhà quản trị cấp cao là rất
quan trọng đối với các CTCK, nhà quản trị cấp cao phải biết tổ chức phối hợp
để các bộ phận trong công ty hoạt động một cách nhịp nhàng hiệu quả, phải
biết biến sức mạnh của cá nhân thành sức mạnh chung của cả tập thể như vậy
sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động , nâng cao khả năng cạnh tranh của CTCK
 Thương hiệu công ty
Thương hiệu có vai trò cực kỳ to lớn đối với các CTCK. Thương hiệu là
hình ảnh uy tín của công ty . Nếu thương hiệu trở nên nổi tiếng thì nó là

phương tiện rất hữu hiệu để cạnh tranh. Bên cạnh đó giá trị của công ty cao
hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào sự nổi tiếng của thương hiệu
Về mặt nhận diện, thương hiệu là cái tên hay dấu hiệu giúp nhận biết một
sản phẩm. Một thương hiệu thành công đánh dấu một sản phẩm là có lợi thế
cạnh tranh bền vững. Bảo Việt, Agirbank hay BIDV là một ví dụ về thương
hiệu. Một khi mà các sản phẩm đã đạt đến mức độ hầu như không thể phân
biệt được bằng tính chất, đặc điểm và lợi ích công dụng thì thương hiệu là yếu
tố duy nhất tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm. Thương hiệu nói lên sự tin
tưởng và sự an toàn.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu định lượng
o Thị phần và tốc độ tăng trưởng thị phần
Thị phần = Doanh số dịch vụ cung cấp của công ty / Tổng giá trị dịch vụ
toàn ngành
Một công ty có thị phần lớn sẽ phản ánh vị thế của công ty đó trên thị
trường.

Ngoài chỉ tiêu thị phần, người ta còn sử dụng chỉ tiêu Tốc độ tăng thị
phần để đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty đó
oTiềm lực tài chính
Tiềm lực tài chính của công ty chứng khoán không chỉ thể hiện ở số vốn
hiện có mà còn thể hiện ở khả năng khai thác và sử dụng các nguồn lực trong
lẫn ngoài công ty để phục vụ chiến lược phát triển của công ty.Không chỉ ở
khả năng huy động nguồn vốn mà doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh hơn các
doanh nghiệp khác ở khả năng sử dụng nguồn vốn đó như thế nào để có thể
phát triển.Đây chỉ tiêu quan trọng đánh giá năng lực cạnh tranh của CTCK
oLơi nhuận
Lợi nhuận là phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi tất cả các khoản
chi phí chi dùng vào các hoạt động kinh doanh của công ty. Bởi vậy lợi nhuận
được coi là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá năng lực cạnh tranh của công
ty.Lợi nhuận góp phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả, đồng thời nó là chỉ

tiêu tổng hợp đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty. Nếu lợi nhuận cao thì
khả năng cạnh tranh cao, năng lực cạnh tranh càng mạnh và ngược lại
o Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời: đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh
tổng hợp nhất về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này
gồm có
ROE = thu nhập sau thuế/Vốn chủ sở hữu
ROA = thu nhập sau thuế/tổng tài sản
Hai chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tổng tài sản và vốn chủ sở
hữu. Thông qua hai chỉ tiêu này chúng ta có thể thấy được hiệu quả kinh
doanh của CTCK như thế nào, tức là khả năng cạnh tranh của công ty đã
mang lại một kết quả kinh doanh tốt hay không. Rõ ràng chỉ tiêu này thể hiện
năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách
hàng để từ đó gia tăng lợi nhuận sau thuế cho doanh nghiệp. Chỉ có những
CTCK có năng lực cạnh tranh cao thì mới có ROA, ROE cao
o Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán

Chỉ khi có khả năng thanh toán tốt thì CTCK mơi có khả năng nâng cao uy tín
của mình, tạo được lòng tin ở khách hàng cũng như đối tác của mình trong
giao dịch kinh doanh. Từ đó có thể thấy chứng mình được năng lực tài chính
của công ty lúc nào cũng được đảm bảo, công ty luôn có đủ khả năng để cạnh
tranh trên thị trường và thanh toán cho khách hàng đầy đủ, kịp thời. Nhóm chỉ
tiêu này gồm
 Khả năng thanh toán hiện hành = tài sản lưu động/ nợ ngắn hạn
Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành nói lên khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp. Nếu tỉ số này lớn thì khả năng thanh toán nợ cao và
ngược lại
Vì nợ ngắn hạn được thanh toán bới tài sản lưu động mà tài sản lưu động lại
gồm những khoản khó chuyển ra tiền như hàng tồn kho nên chỉ tiêu khả năng
thanh toán hiện hành chưa phản ánh hết được khả năng thanh toán của doanh

nghiệp. Vì vậy, một cách chính xác hơn, chúng ta dùng chỉ tiêu khả năng
thanh toán nhanh.
 Khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản lưu động – Hàng tồn kho)/Nợ
ngắn hạn
oNhóm chỉ tiêu khả năng an toàn tài chính
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh sự tự chủ và ổn định tài chính của công ty
chứng khoán. Thông qua chỉ tiêu nay chúng ta biêt được tình hình cơ cấu
nguồn vốn của công ty như thế nào từ đó xem xét chính sách vay nợ của công
ty. Nếu công ty có cơ cấu và sử dụng hợp lý các nguồn vay nợ sẽ tạo ra cho
công ty những lợi thế cạnh tranh cho công ty: khi công ty muốn vay thêm nợ
các chủ nợ nhìn vào cơ cấu nguồn vốn của công ty họ sẽ thể hiện mức độ tin
tưởng vào sự đảm bảo thanh toán nợ của công ty. Tất cả những điều đó nói
lên sự chuyên nghiệp và nhanh nhay của công ty trong việc đưa ra các chính
sách tài chính. Ở đây chính là khả năng sử dụng đòn bẩy tài chính để tạo ra
khả năng cạnh tranh của công ty chứng khoán so với các công ty chứng khoán
khác.

Nhóm chỉ tiêu này bao gồm:
 Hệ số nợ = Nợ/ Tổng nguồn vốn (hoặc tổng tài sản)
 Hệ số đầu tư vào tài sản lưu động = TSLĐ/ Tổng tài sản
 Hệ số tự tài trợ = VCSH/ Tổng nguồn vốn
Khi xem xét các chỉ tiêu định lượng phải dựa trên cách so sánh với các
công ty chứng khoán trong ngành và các chỉ số trung bình của ngành thì
chúng ta mới nhìn nhận đưcợ toàn cảnh bức tranh tài chính của công ty
chứng khoán. Để từ đó cho phép chúng ta đánh giá được năng lực của
công ty trong hiện tại cũng như trong tương lai
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty chứng
khoán
1.2.3.1 Nhân tố bên trong
1.2.3.1.1 Tiềm lực tài chính

Tình hình tài chính của công ty tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu
quả hoạt động kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của công ty.Tài
chính đủ mạnh công ty mới có thể thực hiện được các chiến lược kinh doanh
của mình
1.2.3.1.2 Trình độ công nghệ
Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại giúp công ty có thể tiếp nhận và xử lý
nhanh và chính xác các lệnh của khách hàng. Điều này có ý nghĩa quan trọng
trong hoạt động của CTCK
Cơ sở vật chất kỹ thuật của một CTCK bao gồm hệ thống các sàn giao
dịch tập trung, hệ thống bảng điện tử, máy chiếu, hệ thống mạng nội bộ, trang
Web của công ty và hệ thống nhập lệnh của phòng môi giới
Nguồn lực vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng sẽ phản ánh thực lực của
CTCK đối với thủ cạnh tranh về trang thiết bị hiện có được tận dụng và khai
thác trong quá trình hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
1.2.3.1.3 Năng lực quản trị
Năng lực quản trị là khả năng điều hành ,giám sát của tất cả bộ phận

quản lý trong công ty. Nếu quản trị tốt công ty có thể đưa ra những chính sách
tốt, những chiến lược hợp lý và cũng có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của
các bộ phận trong công ty. Công ty có thể giảm thiểu rủi ro trong hoạt dộng
nếu có sự quản lý tốt
1.2.3.1.4 Đội ngũ nhân viên
Như đã nói ở trên, đội ngũ con người chính là chìa khóa để công ty
chứng khoán này cạnh tranh với công ty khác. Trên thị trường tài chính,mức
độ rủi ro là cao nhất trong các ngành, do vậy công ty nào có được đội ngũ có
chất xám cao, tinh thần trách nhiệm, tuân thủ nguyên tắc làm việc, phân tích
hợp lý các nguốn thông tin thì công ty đó có lợi thế cạnh tranh hơn so với
phần còn lại
1.2.3.1.5 Mạng lưới hoạt động

Một trong những biện pháp mà các công ty chứng khoán quan tâm đầu
tiên là mở rộng mạng lưới và quy mô hoạt động. Việc mở rộng mạng lưới là
hướng đi tốt nhất hiện nay để mở rộng thị phần. Khi mạng lướii khách hàng
mở rộng thân thiện với nhà đầu tư sẽ giúp cho thị trường chứng khoán càng
đáp ứng tốt nhu cầu đại chúng, tạo nãng lực cho công ty chứng khoán mở
rộng quy mô hoạt động tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường
1.2.3.1.6 Xây dựng các giá trị côt lõi cho công ty
Đây là xu hướng mới được các doanh nghiệp khác áp dụng trong những
năm gần đây.
Là những nguyên lí thiết yếu và mang tính lâu dài của một tổ chức – tập
hợp các quy tắc hướng dẫn rất nhỏ có ảnh hưởng sâu sắc tới cách mà mọi
người trong tổ chức suy nghĩ và hành động.
Giá trị cốt lõi không quan tâm đến dư luận, nó có giá trị thực chất và có
tầm quan trọng rất lớn đối với những người ở bên trong tổ chức. Giá trị cốt lõi
là một số rất hiếm những quy tắc hướng dẫn có khả năng ảnh hưởng vô cùng
lớn, là linh hồn của tổ chức; đó là những giá trị làm nhiệm vụ hướng dẫn tất
cả các hành động.

Giá trị cốt lõi rất có chiều sâu. Và đó là những giá trị cực kì quan trọng.
Các giá trị này rất ít khi thay đổi theo sự thay đổi của thị trường. Mặt khác,
thường thì các tổ chức sẽ thay đổi thị trường nếu cần thiết để duy trì các giá
trị cốt lõi thực tế của tổ chức mình.
1.2.3.2 Các nhân tố bên ngoài
Là hệ thống toàn bộ các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp, có liên quan và
ảnh hưởng đến quá trình tồn tại, vận hành và phát triển của doanh nghiệp
1.2.3.2.1 Môi trường kinh tế
Là một thực thể của nền kinh tế vì vậy các CTCK cũng chịu chi phối của
môi trường kinh tế.Bất kỳ sự biến động nào của nền kinh tế
Nếu kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, nhu cầu đầu tư được mở rộng, đồng
tiền ổn định, lãi suất và tỷ giá hối đoái có tính kích thích đầu tư, mở rộng

×