Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn 04. một số kinh nghiệm dạy văn (nguyễn văn song trung học phổ thông nguyễn văn cừ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.61 KB, 16 trang )

Nguyễn Văn Song - THPT Phù Cừ: Một số kinh nghiệm dạy Văn.
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lý luận:
Dạy văn là một công việc nhọc nhằn, vất vả và có ý nghĩa quan trọng trong việc
giáo dục, bồi đắp thế giới tâm hồn của học sinh. Nhà văn Mác xim Gor-ki đã từng
khẳng định “Văn học là nhân hoc” nên dạy học văn đồng nghĩa với việc dạy làm
người là vì thế. Mỗi tác phẩm văn học chứa đựng bao nhiêu ưu tư, trăn trở và ước
mong thầm kín của người cầm bút thơng qua thế giới hình tượng. Văn học chân chính
ln hướng con người đến với những tình cảm cao đẹp như tình yêu quê hương, đất
nước, tình yêu con người, yêu cuộc sống với đủ mọi cung bậc, sắc thái. Những tình
cảm ấy được thể hiện hấp dẫn, sinh động qua nghệ thuật ngôn từ mang đặc trưng của
văn chương. Người dạy văn vừa phải là một nhà sư phạm đồng thời phải là một người
có tâm hồn nghệ sĩ để có thể đảm đương vai trò làm cầu nối giữa tâm hồn nhà văn với
trái tim người học. Để có được những giờ dạy văn hiệu quả đòi hỏi người dạy phải có
tình u thiết tha với văn chương, có tri thức phong phú, sâu rộng, có phương pháp sư
phạm và có kinh nghiệm dạy học. Kinh nghiệm dạy văn được hình thành trên sự tích
lũy từ những người đi trước và trong thực tế giảng dạy của bản thân. Không một người
dạy văn nào có thể trở thành một giáo viên dạy giỏi mà khơng có sự học hỏi kinh
nghiệm từ những người đi trước và khơng ngừng tìm tịi, đúc rút từ những giờ dạy văn
của chính mình.
2. Cơ sở thực tiễn:
Dạy học văn nhọc nhằn vất vả nhưng khơng phải vì thế mà thiếu vắng những
thầy cơ tâm huyết với nghề, ln có ý thức trau dồi, tích lũy kinh nghiệm cho bản thân
và truyền lại những kinh nghiệm ấy cho bạn bè, đồng nghiệp. Mỗi người dạy văn có
một sở trường, một thế mạnh, một cái hay riêng. Các thầy cơ u nghề thường biết tìm
đến nhau để chia sẻ và học hỏi khơng ngồi mục đích vì trọng trách dạy làm người của
một người thầy văn chương. Ra trường và đi dạy văn 12 năm nay, tơi ln thấy mình
là người thật may mắn khi được tiếp xúc, trao đổi với nhiều thầy cô giáo dạy văn nhiều
kinh nghiệm trong và ngoài trường, hơn nữa lại là cộng tác viên với phòng thanh tra
của Sở Giáo dục và Đào tạo Hưng Yên nên tôi được dự giờ của khá nhiều thầy cơ dạy


văn trong tỉnh. Chính vì lẽ đó mà tơi được học hỏi và đúc rút cho mình được một số
kinh nghiệm mà theo tơi là cần thiết đối với một giáo viên dạy văn. Ban đầu, tôi cũng
hơi phân vân khi lựa chọn đề tài này làm Sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm
học này bởi lẽ sợ ai đó cho rằng mình tự phụ, tự cho mình nhiều kinh nghiệm nhưng
thiết nghĩ những kinh nghiệm này tôi cũng học hỏi từ các thầy cô đi trước, từ bạn bè,
đồng nghiệp gần xa. Hơn nữa, mục đích của tơi là để chia sẻ, góp phần ít nhiều cho
cơng tác dạy học văn. Sau những phân vân ấy, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số
kinh nghiệm dạy văn” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình năm học 2011- 2012. Rất
mong nhận được sự chia sẻ, góp ý của các thầy cơ, bạn bố ng nghip gn xa.
II. Phơng pháp nghiên cứu:
- Phõn tích, đánh giá từ thực tiễn
- Dựa trên cơ sở của phương pháp dạy văn, học văn
- Dựa vào đặc thự ca b mụn Ng vn
III. Phạm vi nghiên cứu:
Kinh nghim trong dy hc Vn
IV. Tài liệu tham khảo:


-

Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 12.
Sách tham khảo
Các bài giảng, các ý kiến của các giảng viên §¹i häc


NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC HỌC VĂN HIỆN NAY:
Môn văn và việc học văn đã từng có một chỗ đứng đáng tự hào trong lịch sử
giáo dục nước nhà. Trong các kì thi chọn nhân tài dưới các triều đại phong kiến không
thể thiếu những bài thi về văn chương, thơ, phú. Với những bậc trí thức Nho học thì

những buổi bình thơ văn thực sự là những cuộc đua tài để thể hiện vốn học thức và cốt
cách, khí tiết của người quân tử. Dưới thời Lê sơ, trong triều cịn có Hội Tao Đàn hội
tụ hai mươi tám ngôi sao sáng về thơ văn (nhị thập bát tú) mà vua Lê Thánh Tơng làm
chủ sối. Nền giáo dục phong kiến lấy văn chương làm nền tảng ấy dù có những hạn
chế nhất định nào đó nhưng đã tạo nên một bản sắc văn hóa Á Đơng hết sức độc đáo
của người Việt Nam. Chính nền giáo dục ấy đã sản sinh ra những con người kiệt xuất
về tài năng, nhân cách làm rạng danh cho lịch sử dân tộc như Nguyễn Trãi, Lê Thánh
Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu...
Cuộc đời biến đổi, xoay vần với quy luật tất yếu của nó. Chế độ thi cử, khoa
bảng gần 1000 năm đã dần lùi vào quá vãng. Nghiên, mực, bút lông với những bài thi
đậm chất văn chương, thơ phú nhường chỗ cho một nền giáo dục hiện đại với những
tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực. Biết đó là quy luật tất yếu của lịch sử, của thời
đại mà nhiều người vẫn thấy hụt hẫng, chới với và tiếc nuối giống như tâm sự của nhà
thơ Vũ Đình Liên.
Năm nay đào lại nở
Khơng thấy ơng đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Trong bối cảnh hiện nay, bộ mơn văn đã mất đi vị trí độc tơn một thuở của
mình, thậm chí nó bị người học và xã hội quay lưng một cách phũ phàng. Tất nhiên,
môn văn vẫn được đưa vào thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh vào các trường đại
học khối C, khối D nhưng khơng phải vì thế mà người học mặn mà với văn. Các
trường, các ngành tuyển sinh bằng mơn văn khơng nhiều. Những nghề nghiệp có liên
quan đến văn thường khơng kiếm ra tiền đến nỗi chính các thầy cơ dạy văn cịn phải
khun học trị của mình khơng nên thi vào các trường sư phạm văn dù họ vẫn tha
thiết yêu nghề và rất mong có nhiều thế hệ yêu văn tiếp nối công việc của mình. Chính
vì thế việc học văn trong các nhà trường hiện nay thực sự đáng buồn nếu khơng muốn
nói là đáng báo động. Ngoại trừ các lớp chuyên văn ở các trường chuyên, trường năng
khiếu và một số ít ỏi các học sinh thi khối C còn hầu hết học sinh học văn mang tính

đối phó hoặc nếu khơng thì cũng khơng hứng khởi gì. Số lượng học sinh viết được một
bài văn của riêng mình, mang màu sắc văn chương, có sự cảm thụ cá nhân ít ỏi vơ
cùng. Nếu làm một phép thống kê, xin dám chắc đến 70% học sinh tốt nghiệp PTTH
không biết thực hành viết một bài làm văn theo đúng yêu cầu, đúng chính tả, ngữ
pháp, đấy là chưa kể đến việc hiểu và tiếp nhận tác phẩm. Không hiểu các em đã học
như thế nào trong 12 năm học phổ thông để khi đã trở thành những tú tài, phần lớn
không biết viết được một câu văn gãy gọn, thậm chí cịn mắc phải những lỗi chính tả
hết sức cơ bản mà lẽ ra bất cứ học sinh nào học xong tiểu học cũng có thể nắm được.
Mơn tập làm văn được học đến 5 năm ở cả hai cấp học (THCS, THPT) đã luyện cho
học sinh từ cách viết câu văn, đoạn văn đến bố cục một bài văn; luyện khá kỹ về các
thao tác nghị luận: chứng minh, giải thích, phân tích, bình luận...Vậy mà tất cả đều bị
vơ hiệu hố. Hầu hết học sinh làm một bài văn không cần quan tâm đến yêu cầu thể
loại, một yêu cầu quan trọng của bài văn, giúp giáo viên có thể đánh giá được năng lực


tư duy, khả năng, mức độ hiểu biết và cảm nhận văn học của học sinh. Cách làm bài
của các em như những cỗ máy vô hồn, hễ đặt bút là viết, chỉ cần liếc qua đề bài nhắc
đến tác phẩm hoặc tác giả nào là cứ thế viết. Còn viết cái gì thì đã có bài văn mẫu
trong hàng tập tài liệu có sẵn, đã có bài giảng ở các lớp ơn luyện có sẵn, tha hồ cóp
chỗ này, lắp ghép chỗ kia. Đa phần học sinh không thể tự viết được một bài văn bằng
chính sự suy nghĩ và cảm nhận của mình, mà nếu viết được đi chăng nữa thì phần lớn
là những câu văn ngơ nghê, những ý tưởng "cười ra nước mắt" như: " Chế Lan Viên là
một nhà văn lớn", " Tố Hữu được giải Nô - Ben Văn học năm 1960", Nguyễn Tuân...là
người say mê tái hiện các nhân vật lịch sử nổi tiếng cùng thời như Hồ Xuân Hương,
Cao Bá Quát", " Việt Nam tuy không phải là cường quốc về kinh tế và quân sự nhưng
là cường quốc về tình yêu", “Tràng nhặt Mị về làm vợ”, “ông Xuân Quỳnh”, “bà Xuân
Diệu”..... Trong kỳ thi tốt nghiệp 12 hàng năm, khi đi chấm Văn, các thầy cô chủ yếu
được đọc các bài văn na ná giống nhau. Có khác chăng chỉ là độ dài ngắn hoặc là chữ
viết.
Nguyên nhân dẫn đến việc học văn đáng báo động như hiện nay thì có nhiều

nhưng trong đó có nguyên nhân từ việc dạy văn hiện nay. Bản thân việc dạy văn trong
nhà trường hiện nay có nhiều yếu tố dẫn đến việc học sinh khơng thích học văn.
Chương trình mơn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay chưa thực sự hấp dẫn, dung
lượng bài học cịn nhiều, cịn nặng. Những thầy cơ tâm huyết, giỏi nghề chưa nhiều.
Thực trạng này tôi nghĩ cũng không phải một sớm một chiều mà khắc phục được.
II. MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY VĂN
Sau hơn mười năm đứng trên bục giảng với bao nhiêu vui buồn, ưu tư, trăn trở
của một giáo viên dạy văn, tôi đã lĩnh hội và đúc rút được một số kinh nghiệm dạy học
văn mà theo tơi là có hiệu quả trong giảng day. Viết sáng kiến kinh nghiệm này, tôi
xem đây là cơ hội để chia sẻ, tâm sự với anh chị em đồng nghiệp. Tất cả khơng ngồi
mục đích có thêm những giờ dạy học văn để lại nhiều ấn tượng, cảm xúc và có giá trị
giáo dục với người học. Với tôi, để dạy tốt môn văn, người dạy văn phải làm tốt những
cơng việc dưới đây.
1. Tích luỹ kiến thức văn học, kiến thức đời sống và kiến thức của những bộ môn
khác.
Người dạy học Văn hay dạy bất cứ một bộ mơn nào cũng cần phải có một vốn
kiến thức phong phú sâu rộng mới có thể dạy học được vững vàng, không “túng thiếu”
và mất tự tin trước học trị. Kiến thức khơng phải tự nhiên mà có, khơng phải cứ muốn
có là có. Kiến thức phải qua một q trình tích luỹ bền bỉ, âm thầm, nhọc nhằn mà
cũng vơ cùng thú vị. Nói những điều ấy, có lẽ ai đó sẽ cho rằng sáo rỗng, “xưa như trái
đất”. Vâng, vấn đề tường như muôn thuở ấy lại vẫn là điều cần phải bàn nhiều lắm.
Trong nhiều giờ dạy, khơng ít giáo viên văn vẫn bộc lộ khoảng trống về kiến thức bộ
mơn, thậm chí là những kiến thức rất cơ bản chứ chưa muốn nói đến kiến thức của các
ngành, các bộ mơn khác. Có cô giáo khi dạy bài khái quát văn học trung đại cứ láy đi
láy lại điệp khúc “văn học thời Lê Sơn”. Trong lịch sử Việt Nam chỉ có thời Lê sơ và
triều Tây Sơn chứ làm gì có thời Lê Sơn. Vậy làm thế nào để tích luỹ được kiến thức
phong phú, sâu rộng? Gần đây, khi đến kiểm tra hồ sơ chuyên môn của các giáo viên,
tôi thường thấy những cuốn sổ tích luỹ dày dặn, được in từ các trang web trên internet
với rất nhiều những bài viết hay về các tác giả, tác phẩm văn học. Khai thác tri thức
trên mạng là một việc nên làm và trở thành phổ biến trong những năm gần đây. Tuy

nhiên, mấy năm sau về kiểm tra giáo viên nào đó, tơi vẫn thấy cuốn sổ tích luỹ ấy, vẫn
dày dặn và mới nguyên như lần đầu kiểm tra. Tôi tự hỏi: Những cuốn sổ tích luỹ dày
dặn kia có làm nên kiến thức của một giáo viên dạy văn không?


Với tơi, giáo viên văn phải duy trì được thói quen đọc, nhất là đọc sách. Những
cuốn sách ưu tiên được đọc là các tác phẩm văn học tiêu biểu trong và ngồi nước, các
cơng trình nghiên cứu, các bài phê bình viết về sự nghiệp sáng tác của các tác giả tiêu
biểu được học trong chương trình. Muốn dạy tốt đoạn trích “Hồi trống Cổ thành”
trong chương trình Ngữ văn 10 thì người thầy phải đã từng đọc trọn bộ Tam quốc ít
nhất một vài lần và có thể tóm tắt ngắn gọn tác phẩm một cách thuyết phục. Để dạy tốt
những đoạn trích trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, người thầy phải thuộc được
nhiều đoạn tiêu biểu trong tác phẩm và đọc nhiều bài viết về tác tác phẩm về những
đoạn trích được giảng dạy.. Để dạy tốt một số bài thơ Mới trong chương trình 11,
người thầy phải nhiều lần đọc Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hồi Chân và thuộc
được nhiều bài thơ Mới. Có cơ giáo dạy về Sêchxpia và đoạn trích “Tình u và thù
hận” trong chương trình Ngữ văn 10 mà chưa từng đọc vở kịch Romeo và Juliet, ngoài
những kiến thức trong phần tiểu dẫn, cô không cung cấp thêm bất kì một thơng tin nào
về nhà văn và tác phẩm. Đoạn trích chỉ như một lát cắt cực mỏng, chỉ lấy nó tự soi cho
nó thì làm sao tác phẩm đến được với học sinh, làm sao học sinh yêu được tác phẩm.
Văn chương thì mênh mơng, vơ cùng. Thơi thì đủ cả Đơng, Tây, kim, cổ. Biết đọc bao
nhiêu cho đủ, cho xứng tầm của một giáo viên dạy văn. Phải như con ong âm thầm hút
nhụy, tích mật ngọt từ những năm tháng rong ruổi hết vườn hoa này, đồng nội kia
không mệt mỏi. Hãy nuôi dưỡng niềm đam mê đọc sách, biết “săn lùng” và luôn ao
ước có được những cuốn sách quý đặt trên giá sách của bạn. Là một giáo viên dạy văn,
bạn nên có một chiếc đèn ngủ mini nơi đầu giường. Dù bận rộn đến đâu cũng hãy giữ
thói quen đọc một vài trang sách trước khi đi ngủ.
Cùng với việc đọc sách, đọc tài liệu, tư liệu tham khảo là sự làm việc của người
thầy khi đọc. Không phải cứ đọc sách là lập tức tri thức của nhân loại trở thành tri thức
của ông thầy. Nếu không làm việc với lượng tri thức ấy thì đọc nhiều lại qn nhiều

thơi. Hãy suy nghĩ về những tri thức vừa đọc được để nó soi rọi, tỏa sáng trong nhận
thức của ta một điều gì đó, rồi ghi chép, sắp xếp lại theo từng mảng, từng dạng. Một
cách hiệu quả nhất để tích lũy tri thức là tìm cách đưa những tri thức ấy vào trong quá
trình giảng dạy một cách thường xuyên. Chẳng hạn, khi bạn giảng dạy về Tố Hữu,
Nguyễn Tuân, Nam Cao, Xuân Diệu thì cố gắng vận dụng tất cả tri thức về cuộc đời,
sự nghiệp sáng tác của họ mà mình đã đọc, đã biết để làm sáng tỏ những kiến thức
trong sách giáo khoa một cách hợp lý. Khi giảng về những chặng đường thơ Tố Hữu,
nhất thiết giáo viên phải đọc được những đoạn thơ, những bài thơ tiêu biểu trong từng
tập thơ của ông kèm theo những lời bình ngắn gọn, xác đáng để học sinh thấy được giá
trị nội dung và nghệ thuật của các tập thơ.
Bên cạnh kiến thức văn học, người giáo viên dạy văn cũng cần phải thường
xuyên cập nhật những tri thức của các ngành, các bộ môn khác nhất là kiến thức đời
sống thực tiễn. Dạy các tác phẩm như Đại cáo bình Ngơ, Bạch Đằng giang phú, Thuật
hồi không thể không am tường về lịch sử trung đại với các sự kiện, các quan niệm
thời đại, các xu hướng tư tưởng, chính trị, thẩm mỹ... Dạy Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân, giáo viên phải có vốn văn hóa với những hiểu biết về thú chơi chữ của
người xưa để giúp học sinh hiểu dược cái gốc của thú chơi chữ kia là khát vọng hướng
tới cái chân, thiện, mỹ, là thái độ trân trọng, tự hào về một nét đẹp văn hóa, nét đẹp
tâm hồn của người Việt xưa. Nếu có thể được, giáo viên hãy viết những chữ Hán thật
đẹp, thật ý nghĩa để học sinh đến với tác phẩm một cách dễ dàng nhất. Dạy Một người
Hà Nội của Nhà văn Nguyễn Khải, giáo viên phải có những hiểu biết nhất định về văn
hố, lối sống của người Hà Nội, về lịch sử của kinh thành Thăng Long ngàn năm văn
hiến mới giúp học sinh hiểu được vẻ đẹp của nhân vật bà Hiền.


Có vốn kiến thức phong phú, sâu rộng, người dạy văn có thể dễ dàng tung tẩy,
tạt ngang, đối chiếu, liên hệ để tác phẩm hiện lên rõ nét nhất, sinh động nhất và người
đọc cũng cảm thấy nhẹ nhàng nhất.
2. Thiết kế bài dạy:
Cho đến bây giờ, sau 12 dạy văn, tôi vẫn chưa quên những ngày đầu tiên ra

trường, chưa quên những trang giáo án chằng chịt nét gạch xóa mà có khi cả tuần mới
soạn được một, hai giờ. Đó là những giáo án đầu tiên của cuộc đời dạy học văn mà đến
nay, dù có rất nhiều tập giáo án hồn thiện hơn nhưng tơi vẫn giữ gìn với tất cả sự trân
trọng. Trong những năm gần đây, khi đến thanh tra chuyên môn ở các trường THPT,
tôi thấy hầu hết giáo viên sử dụng giáo án vi tính. Việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin
trong việc soạn bài khơng có gì đáng chê trách, thậm chí đáng khuyến khích nếu
những trang giáo án ấy là sự đầu tư, thiết kế thực sự của người dạy. Điều đáng nói là
hầu hết các giáo án ấy gần như giống nhau và nếu bạn vào trang Bài giảng violet trên
mạng, bạn có thể dễ dàng tìm thấy bản gốc. Việc học tập, tham khảo bài giảng của
đồng nghiệp cũng là điều bình thường nhưng kiểu sao phỏng giáo án như hiện nay là
điều thực sự đáng lo ngại. Thú thực, bản thân tôi, nếu lấy những giáo án ấy để lên lớp,
chắc chắn tôi sẽ không thể nào dạy nổi theo giáo án. Tôi không chê giáo án của họ mà
đơn giản chỉ là vì nó khơng phải là của tôi, không do tôi suy nghĩ, cảm nhận và thiết
kế. Có những giáo án giống như những bài văn viết, dài lê thê mà khi đọc thấy rất khó
tìm luận điểm vẫn được khơng ít giáo viên in ấn một cách nhiệt tình. Những giáo viên
đã dạy học nhiều năm, họ đã có giáo án theo cách thiết kế của họ thì việc in giáo án vi
tính chẳng qua là việc đối phó với việc kiểm tra. Cách làm đó khơng đúng nhưng ít
nhiều cịn có thể linh động. Nhưng có những giáo viên trẻ mới vào nghề cũng dùng
giáo án ấy như một bảo bối tuyệt đối đúng, thậm chí cứ dạy được một, hai phút lại liếc
nhìn giáo án, lúc nào khơng nhìn thì lập tức lúng túng ngay. Nếu cứ thế tiếp diễn thành
cách làm việc thường trực thì thật khó để trở thành một giáo viên đúng nghĩa. Vậy làm
thế nào để thiết kế được một giáo án tốt?
Với tôi, việc thiết kế một giáo án là vơ cùng quan trọng. Nó giống như việc một
kiến trúc sư thiết kế ngơi nhà của mình trên bản vẽ. Nếu bản vẽ hợp lý, khoa học thì
tịa nhà được xây dựng sau này sẽ hồn hảo nếu thực hiện đúng theo yêu cầu của bản
vẽ. Theo tơi, muốn có một giáo án tốt, người giáo viên phải có các bước làm viêc sau
đây:
- Nếu là một giờ dạy tác phẩm văn học thì trước hết giáo viên phải đọc tác
phẩm. Trong quá trình đọc, giáo viên phải huy động tất cả những kỹ năng đọc hiểu để
nhận diện được các nhân vật, hình tượng, nắm bắt được cốt truyện, mạch cảm hứng,

hiểu chủ đề tư tưởng của tác phẩm và ý đồ của nhà văn, nhà thơ.
- Tiếp đến, giáo viên phải huy động tất cả sự hiểu biết vốn có của mình liên
quan đến tác phẩm, đọc những bài phê bình, nhận xét, đánh giá về tác phẩm, đọc sách
giáo viên và các thiết kế bài giảng (nếu có).
- Sau khi đã có một kiến thức nền đầy đủ về tác phẩm, giáo viên dựa vào mục
đích, u cầu trong chương trình và sự cảm nhận của cá nhân về giá trị của tác phẩm
để tiến hành soạn bài. Bạn có thể đọc hàng chục cuốn sách trước khi soạn bài, nhưng
khi tiến hành soạn bài, cách tốt nhất là bạn chỉ giữ lại cuốn sách giáo khoa và soạn bài
độc lập theo cách hiểu, cách cảm nhận và cách thiết kế của bạn. Nếu làm được như thế
thì sau khi soạn xong, dường như bài soạn đã trọn vẹn trong suy nghĩ của bạn. Chính
vì thế khi lên lớp, bạn khơng cịn phải “đánh vật” với những trang giáo án nữa. Với tôi,
giáo viên cần phải thoát ly được giáo án khi dạy học, kể cả giáo viên mới ra trường.
Khi thoát ly được giáo án là khi người dạy làm chủ được toàn bộ kiến thức của bài


học. Nếu chưa chủ động được phần kiến thức cơ bản thì người dạy thật khó để thuyết
phục được người học.
- Trong quá trính soạn bài, cần đặc biệt lưu ý các khía cạnh sau:
+ Cấu trúc bài soạn: Bài soạn phải rõ ràng, các ý được khai thác phải là những
điều trọng tâm, cốt lõi của tác phẩm và trùng với mục đích yêu cầu của bài học. Giữa
các ý phải có mối liên hệ lơgic chặt chẽ nhưng không được trùng lặp, rối ý, chồng
chéo. Đây là khâu rất quan trọng đối với một bài soạn. Nếu cấu trúc khơng mạch lạc,
thống nhất, sáng rõ thì thật khó để làm nổi bật giá trị của một tác phẩm và giờ học khó
để đảm bảo tính hệ thống. Khi mới ra trường, thực sự tôi rất băn khoăn khi soạn bài
Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân dù đã đọc khá nhiều tài liệu tham khảo. Tôi
cứ tự hỏi: Nếu khai thác theo nhân vật thì có nên đưa hình ảnh các nhân vật trong cảnh
cho chữ vào khơng? Nếu cho vào thì có cần phải tách riêng cảnh cho chữ để khai thác
nữa không? Nếu tách cảnh cho chữ riêng thì phải khai thác như thế nào mới đúng. Tôi
đã phải nghĩ về các nhân vật,nghĩ về cảnh cho chữ kia rất nhiều và cuối cùng tôi hiểu
rằng, cảnh cho chữ giống như một khoảnh khắc sáng lóe có khả năng soi rọi vẻ đẹp

của các nhân vật một cách trọn vẹn và sinh động. Nếu khơng khai thác riêng, sẽ khơng
thấy cách xây dựng tình huống rất độc đáo của Nguyễn Tuân, Nếu đưa hình ảnh các
nhân vật trong cảnh cho chữ để khai thác theo nhân vật bài giảng sẽ bị trùng lặp. Cuối
cùng tôi đã lựa chọn cách thiết kế sau đây::
* Nhân vật Huấn Cao:
- Một nghệ sĩ tài hoa
- Một anh hùng khí phách
- Một thiên lương trong sáng
* Nhân vật viên quản ngục:
- Một người chọn nhầm nghề
- Một tấm lòng yêu cái đẹp, quý trọng người tài
* Cảnh tượng cho chữ:
- Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có
- Một cảnh tượng soi rọi vẻ đẹp của các nhân vật
+ Huấn Cao:
Tài hoa
Khí phách
Thiên lương
( Tất cả đều đạt tới mức độ tuyệt vời trong cảnh cho chữ)
+ Viên quản ngục:
Tấm lòng yêu cái đẹp, quý trọng người tài
Quy phục trước thiên lương, hướng về cái thiện
- Nghệ thuật miêu tả cảnh cho chữ
- Ý nghĩa cảnh tượng cho chữ
Thiết kế như vậy, tôi thấy bài dạy khá sáng rõ, nhất qn và lơgíc. Sau khi dạy
xong bài, tơi có lưu ý học sinh: nếu đề bài yêu cầu cảm nhận, phân tích từng nhân vật
thì phải kết hợp cả hai phần để làm bài vì vẻ đẹp của các nhân vật được tập trung làm
nổi bật trong cảnh cho chữ.
+ Hình thức bài soạn: Khi soạn bài, giáo viên có thể kẻ khung, có thể khơng
nhưng nhất thiết trong bài soạn phải thể hiện được hoạt động của thầy, hoạt động của

trò và phần kiến thức cần chốt lại cho học sinh.
Phần ghi hoạt động của thầy cần thấy được phương pháp, phương tiện sử dụng
khi giảng dạy và những khoảng để thầy liên hệ, mở rộng. Những khoảng ấy, giáo viên


có thể để trống, hoặc chỉ dẫn hết sức ngắn gọn. Ví dụ: Khi dạy đoạn trích Trao duyên,
trích Truyện Kiều của Nguyễn Du, đến những câu thơ:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Giáo viên chỉ cần viết ở phần hoạt động của thầy: lấy thêm dẫn chứng trong
Truyện Kiều để làm nổi bật mối tình say đắm của Thúy Kiều và Kim Trọng có liên
quan đến các chi tiết trong hai câu thơ. Có làm được điều ấy mới thấy việc trao duyên
của Kiều là vơ cùng khó khăn. Nếu kết cấu bài soạn hợp lý, là khung xương vững
chắc thì những khoảng trống trong phần hoạt động của thầy là những nét uốn lượn
mềm mại làm nên vẻ đẹp và linh hồn của một giờ dạy văn. Một người thầy thiết kế
được nhiều khoảng trống phù hợp chính là một giáo viên văn giàu kiến thức và tài hoa.
Với người thầy giỏi, thì một khoảng trống có thể được lấp đầy bằng nhiều kiểu dạng
tùy theo đối tượng học sinh và sự kết hợp giữa thầy và trò. Chẳng hạn, khi phân tích vẻ
đẹp tài hoa của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của nhà văn
Nguyễn Tuân, khi khai thác tài viết chữ Hán của Huấn Cao, giáo viên có thể ghi một
chỉ dẫn: Nói thêm về thú chơi chữ Hán của người xưa. Một chỉ dẫn ấy có nhiều cách
để lấp đầy. Có thể giáo viên đưa ra một bức thư pháp chữ Hán để giới thiệu, có thể đọc
một đoạn trong bài thơ Ơng Đồ của Vũ Đình Liên, có thể tự mình viết một vài chữ
Hán theo lối thảo (nếu viết được đẹp) rồi giới thiệu. Thế mới có chuyện nhiều thầy cơ
cùng dạy theo một thiết kế giáo án nhưng mười giờ dạy vẫn hoàn toàn khác nhau về
chất lượng. Chỉ ai những ai nhìn thấy những khoảng trống và biết cách lấp đầy một
cách khéo léo, sinh động, hấp dẫn thì mới tạo ra được một giờ văn chất lượng. Làm
nên sự khác biệt giữa các giáo viên dạy văn chính là ở những khoảng trống khơng có
trong giáo án kia.
Phần ghi hoạt động của trò thường rất ngắn gọn bởi thực sự đó là phần giáo

viên mới có thể dự kiến chứ chưa thể biết học trò sẽ hoạt động ra sao. Đó là khoảng
trống dành cho học sinh. Khoảng trống ấy sẽ được lấp hay không tuỳ thuộc vào sự
khơi gợi của người dạy trong quá trình tổ chức giờ dạy.
Phần chốt lại cho học sinh chính là phần kiến thức cơ bản cần đạt được của một
đơn vị kiến thức. Phần này phải hết sức ngắn gọn, cô đọng, trọng tâm và phải kết hợp
chặt chẽ với hoạt động của thầy và trò. Nghĩa là kiến thức ấy được rút ra từ hoạt động
của thầy và trị. Ví dụ khi khai thác việc dạy con của nhân vật bà Hiền trong truyện
ngắn Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải, người dạy có thể có đặt câu hỏi
phát vấn cho học sinh để chốt lại những kiến thức như sau:
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung
Trong bữa ăn, bà Hiền thường * ViƯc d¹y con:
dạy con như thế no?
- Sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa,
cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn.
- ngời Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải
Vỡ sao b chú ý nhiều những cã chn mùc…
điều đó?
 gi¸o dơc ý thức, lối sống văn hoá lịch lÃm
Qua ú, em thấy bà Hiền quan cđa ngêi Hµ Néi.
tâm dạy con điều gì?
Giáo viên nói thêm về văn hố
của người Hà Ni
- Khi Dũng đi chiến đấu, bà đau đớn mà
bằng lßng .
Khi các con trai đi chiến đấu, - Khi con trai thứ hai làm đơn tòng quân, bà


thái độ của bà Hiền như thế kh«ng khuyÕn khÝch cũng không ngăn cản,
no?

ngăn cản tức là bảo nó tìm ®êng sèng ®Ĩ b¹n
Lý do bà Hiền khơng ngăn cản nó phải chết, cũng là giết chết nó.
con?
Qua thỏi ú, em thy b giáo dục cho con lòng tù träng và ý thúc dân
Hiền giáo dục con điều gì?
tộc.
Giáo viên nói thêm về hồn
cảnh đất nước thời chiến
tranh và phân tích, bình luận  Một người mẹ có tình u thương con sâu
thêm về câu nói của bà
sắc, yêu con gắn với tình yêu đất nước.
Em thấy bà Hiền là người mẹ
như thế nào?
Hiện nay, khơng ít giáo viên, vì khi soạn bài cịn viết như kiểu một đoạn văn
mà chưa triển khai thành các thao tác nên khi lên lớp. Để đảm bảo kiến thức đã chuẩn
bị, thầy, cô gần như đọc bài cho học sinh chép. Hãy so sánh đoạn tôi vừa khai thác trên
đây với cách khai thác của một giáo án trên mạng mà khơng ít giáo viên đã copy, cùng
nội dung về cách dạy con của nhân vật bà Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội
của nhà văn Nguyễn Khải. Tôi xin được copy nguyên vẹn mà không dám chỉnh sửa
bất cứ một chữ nào, kể cả lỗi về câu chữ, chính tả:
Hoạt động của GV và
Nội dung cần đạt
HS
* Cách dạy con:
+ Cô Hiên thực hiện xong thiên chức của 1 ngươì
phụ nữ ( 40 tuổi – sau khi sinh người con gái thứ 5) cơ
cũng tính tốn rất đầu cuối: ko đến nỗi quá già và tất
nhiên cũng ko còn trẻ. 40 tuổi sinh cơ con gái út, 60
tuổi nó cũng đã 20, lúc ấy mình mắt mờ chân chậm –
Cô Hiền dạy con như 20 tuổi cũng đã tự lập đc, khỏi ăn bám anh chị  việc

thế nào?
đó h.tồn do cơ q.định, h.tồn ko phụ thuộc vào chống
với suy nghĩ: “ người đàn bà ko là nội tướng thì cái gđ
ấy cũng chẳng ra sao cả.
+ Nhưng ko vì đơng con mà cơ bỏ bê việc ni dạy
chúng. Trái lại, cơ giáo dục con rất tỉ mỉ, có phương
pháp và cũng hết sức thực tế, ko phải là lý thuyết
suông:
- Ngồi vào bàn ăn sửa cả cách ngồi, cách
cầm đũa, nói chuyện trong bữa ăn…
- Dạy con cách đi đứng nói năng chuẩn, ko đc
sống bng tuồng…
 Với phương châm: “ chúng mày là ng HN, tao chỉ
dạy chúng mày biết tự trọng, biết xấu hổ”. Đó là
phương châm tối ưu để 1 con người có thể hồn thiện 1
nhân cách: đó là biết tự trọng, biết xấu hổ”  tức là
biết quý trọng và yêu chính con ng mình trước hết thí
mới biết có ý thức vì ng khác, yêu người khác  cách
dạy dỗ của 1 ng phụ nữ thực tế, thơng minh, có học
vấn.
- Đất nước bước vào công cuộc k/c chống Mỹ, cô vô


cùng thương con, lo lắng cho con nhg cũng sẵn sàng
cho con ra trận như nhg~ bà mẹ VN khác. Trc việc
đứa con đầu lịng tình nguyện xin đi đành Mỹ, cơ
nói: “ tao đau đớn mà bằng lịng….tự trọng”.
- Trước việc đứa con trai thứ 2 lại làm đơn xin đi tong
quân, sau 3 năm ko nhận đc tin anh, cô Hiền buồn
bã, nhg suy nghĩ cũng rất nghiêm túc  thể hiện 1

lịng u nc thấm kín: “ tao ko….nước”  rõ ràng
cơ tính tốn việc nhà cũng tốt, việc nước cũng giỏi.
Tôi cứ băn khoăn mãi, không hiểu người soạn bài này sẽ làm thế nào để chuyển
tải được lượng kiến thức cần đạt kia nếu không phải là đọc chép. Toàn văn giáo án trên
được phủ kín trên sáu trang giấy A4, phơng chữ Time New Roman, cỡ chữ 12. Giáo
viên và học sinh sẽ làm việc thế nào với giáo án ấy đây? Thiết nghĩ, cách soạn bài này,
cần phải được thay đổi.
3. Rèn kĩ năng đọc văn bản, diễn đạt và các kĩ năng mềm.
Hiện nay, khơng ít những giáo viên khi dạy văn rất hiếm khi đọc văn bản. Với
các tác phẩm văn xuôi, họ cho rằng học sinh phải tự đọc ở nhà, trên lớp làm gì có thời
gian mà đọc. Với các tác phẩm thơ, họ thường để học sinh đọc. Đối với tôi, việc đọc
văn bản văn học của người thầy trên lớp rất quan trọng. Với các tác phẩm văn xi có
dung lượng dài, khơng đọc được nhiều thì giáo viên cũng phải lựa chọn những đoạn
tiêu biểu để đọc kết hợp trong q trình giảng dạy. Cịn với những bài thơ ngắn, giáo
viên nhất thiết phải đọc thật đúng và cố gắng đọc thật hay. Xét cho cùng, văn học là
nghệ thuật của ngôn từ mà ngôn từ chỉ thực sự trở nên trọn vẹn, đầy đủ ý nghĩa khi
được vang lên với đúng mọi cung bậc, sắc thái cần có của nó. Khi đọc một đoạn thơ,
một đoạn văn, người thầy phải đọc cho đúng giọng điệu bao trùm của tác phẩm, cho
đúng tâm trạng, thái độ của chủ thể trữ tình trong thơ, cho đúng giọng điệu, tâm trạng,
suy nghĩ của nhân vật tự sự, cho đúng phong cách nghệ thuật của tác giả và cho đúng
với đặc trưng thể loại. Giọng đọc của người thầy phải có khả năng biến hóa, linh hoạt
với đủ mọi sắc thái vui, buồn, bất ngờ, thất vọng, tin tưởng...Khi đọc truyện ngắn
Thạch Lam phải ra được cái chất văn nhỏ nhẹ, tâm tình giàu chất thơ, đọc văn Vũ
Trọng Phụng phải ra được giọng trào phúng, châm chọc vừa quyết liệt vừa hóm hỉnh,
thâm thúy. Giọng đọc truyện ngắn khác, đọc kịch khác, đọc tùy bút, bút kí lại khác. Có
làm được như thế, học sinh mới thực sự cảm thấy hứng thú và người thầy mới đưa
được tác phẩm đến với các em một cách dễ dàng.
Làm thế nào để người dạy văn đọc thật tốt văn bản? Một số người cho rằng đọc
văn hay phải có năng khiếu. Tơi khơng phủ nhận điều đó nhưng thế khơng có nghĩa là
cứ có năng khiếu là đọc hay, cứ khơng có năng khiếu thì khơng thể đọc được tốt.

Người có năng khiếu mà khơng rèn kĩ năng đọc thường xun, khơng tìm hiểu tác
phẩm kĩ thì khó mà đọc được hay. Người khơng có năng khiếu nhưng nếu tìm hiểu
thấu đáo tác phẩm và thường xuyên rèn kĩ năng đọc thì vẫn có thể đọc rất tốt. Mà dù
có năng khiếu hay khơng thì người dạy văn vẫn phải đọc tốt văn bản văn học nếu thực
sự tâm huyết với nghề. Cách rèn tốt nhất là bạn hãy đọc thầm tác phẩm một vài lần để
nắm bắt tinh thần của tác phẩm, dự kiến giọng đọc cần đạt rồi tiến hành đọc. Ban đầu
có thể khó khăn thì cứ cố gắng đọc tròn vành, rõ chữ, phát âm cho đúng chính tả rồi
dần dần tiến tới đọc thật diễn cảm, hấp dẫn văn bản. Nếu bạn có phịng làm việc, bạn
cứ đóng cửa phịng lại rồi đọc cho tự nhiên. Nếu có phương tiện ghi âm, bạn hãy ghi
lại giọng đọc của mình, nghe lại, thấy cần chỉnh như thế nào thì tiếp tục sửa. Những
năm mới ra trường, thỉnh thoảng tôi bị anh chị em cùng tổ “bắt quả tang” đang đọc văn


bản trong văn phòng tổ khi họ bất ngờ mở của đi vào. Những lúc ấy quả cũng có chút
ngại nhưng rồi hầu như mọi người đều hiểu việc tôi làm. Cho đến bây giờ, tơi vẫn giữ
thói quen nghe chương trình Đọc truyện đêm khuya trên Đài tiếng nói Việt Nam. Tôi
rất cảm phục các nghệ sĩ đọc truyện và cứ âm thầm học tập họ dù biết rằng mình khó
lịng mà đọc tuyệt vời được như thế. Nhiều lúc đi trên đường, ngồi trên xe, tôi vẫn cứ
đọc đi đọc lại một bài thơ, một đoạn văn nào đó mà mình sắp phải lên lớp giảng dạy.
Có thể có nhiều người cho rằng tơi lẩn thẩn mất rồi nhưng biết làm sao được khi “đã
đem cái nghiệp vào thân”.
Khả năng diễn đạt cũng là một yếu tố cực kì quan trọng trong việc tạo nên chất
lượng của một giáo viên dạy văn. Đành rằng đã soạn giáo án, đã chuẩn bị kĩ càng
nhưng thực tế một giờ dạy trên lớp, giáo viên phải làm việc nhiều hơn thế rất nhiều.
Ngôn ngữ diễn đạt trên lớp không phải ngôn ngữ viết như ngơn ngữ của một bài phê
bình, nó cũng không thể lôm nhôm, vô tội vạ như một cuộc nói chuyện tào lao, nó
cũng khơng phải là ngơn ngữ độc thoại từ một phía. Cái khó của ngơn ngữ diễn đạt
trong một giờ dạy văn vừa phải giàu chất văn chương, lại vừa gần gũi, giản dị tự nhiên
lại vừa sinh động bởi sự đối thoại, hô ứng liên tục giữa thầy và trò. Điều quan trọng là
người thầy phải làm rõ màu sắc của các kiểu ngôn ngữ diễn đạt trong giờ học. Khi đọc

văn bản thì ra giọng điệu của tác phẩm. Khi tổ chức, điều khiển lớp học thì phải rõ tính
chất tổ chức, khi đặt câu hỏi lại khác, khi phân tích, bình phẩm khác, khi chốt kiến
thức lại khác. Tôi vẫn quan niệm, trong một giờ học, người thầy phải sắm rất nhiều
vai, mỗi vai địi hỏi một kiểu ngơn ngữ diễn đạt. Để sắm trọn được tất cả các kiểu vai
ấy, người dạy phải hình dung ra tất cả các tình huống, các vai mà mình đảm nhiệm và
nếu cần thiết phải “thử vai” trước khi “lên sàn diễn”. Khi mới vào nghề thì càng phải
siêng năng “thử vai”. Tơi cũng khơng ít lần đóng cửa phịng “lên lớp” một mình, thậm
chí phải “thử vai” trong tưởng tượng, trong suy nghĩ khi mình đang bận làm một việc
chân tay đơn giản nào đó. Tơi đã từng chứng kiến, có những thầy cơ cảm thụ văn
chương rất tốt, viết rất hay nhưng khi lên lớp thì chỉ có một giọng văn đều đều mà
nghe lâu thì cảm thấy rất mệt mỏi. Trước khi làm thầy, ai chẳng có một thời làm trị.
Khi mình là trị, mình muốn được học một người thầy như thế nào thì khi làm thầy,
mình phải cố gắng để trở thành một người thầy như thế. Đừng vội trách nhiều học sinh
nói chuyện trong một giờ dạy văn mà hãy hỏi xem mình đã dạy như thế nào mà nhiều
học sinh nói chuyện thế? Hãy rèn luyện khả năng diễn đạt, làm chủ ngôn ngữ, biết làm
đẹp ngôn ngữ dạy văn sau mỗi tiết dạy, biến ngôn ngữ thành một phương tiện hữu hiệu
nhất, thuyết phục nhất.
Các kĩ năng mềm rất phong phú đa dạng nhưng ở đây tôi muốn nói đến kĩ năng
mềm có nhiều hiệu quả đối với một giờ dạy văn. Như trên tơi đã nói, một người dạy
văn dường như phải “sắm nhiều vai” trong một giờ dạy. Mà muốn làm được điều đó
phải có kĩ năng. Khi dạy về ca dao dân ca, người dạy có thể diễn xướng một bài ca dao
thành bài hát ru hay một làn điệu dân ca đã có trong dân gian. Dạy bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ, người dạy có thể ngâm bài thơ theo giọng ngâm Huế. Khi dạy các đoạn trích kịch,
giáo viên có thể nhận một vai và cùng diễn với học sinh trong một trích đoạn nào đó.
Dạy các tác phẩm như Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh, Bài ca ngất
ngưởng của Nguyễn Cơng Trứ, giáo viên có thể hát được một vài câu ca trù thì thật là
hấp dẫn. Nếu bạn có khả năng vẽ thì rất hiệu quả khi dạy những bài thơ giàu chất họa,
nếu bạn giỏi thư pháp thì rất hiệu quả khi dạy văn học cổ...Vẫn biết những kĩ năng
mềm kia cần phải có năng khiếu nhưng điều tơi muốn nói ở đây là trong mỗi người,
nhất là những người dạy văn tiềm ẩn rất nhiều khả năng. Bạn hãy biết khai thác triệt để



những thế mạnh của mình và có ý thức trang bị cho mình những kĩ năng có liên quan
đến việc dạy văn để những giờ dạy của bạn trở nên hấp dẫn.
4. Tổ chức giờ dạy:
Một giáo viên giàu kiến thức hay không, thiết kế chuẩn bị bài tốt hay không, cỏ
khả năng đọc văn bản, khả năng diễn đạt, có kĩ năng mềm tốt hay khơng đều thể hiện
trong quá trình tổ chức giờ dạy. Để tổ chức tốt một giờ dạy văn, người dạy cần phải
làm như thế nào?
Tâm thế của người dạy văn:
Tâm thế của người dạy văn rất quan trọng. Làm nên tâm thế của người dạy văn
theo tơi có nhiều yếu tố nhưng có ba yếu tố cơ bản quan trọng nhất là kiến thức của
người dạy, tâm trạng của người dạy và thái độ của người học.
Nếu kiến thức bài dạy đã được giáo viên chuẩn bị một cách kĩ lưỡng đầy đủ,
giáo viên đã làm việc cùng với tác phẩm một cách thấu đáo, sẵn sàng buồn, vui cùng
nhân vật cùng nhà văn, sẵn sàng chia sẻ điều mình biết về tác phẩm cùng học sinh, thì
đó là một tâm thế tuyệt vời, cần có của người dạy về điều kiện kiến thức và sự chuẩn
bị cho bài dạy.
Người dạy văn vốn nhạy cảm, dễ vui, dễ buồn, dễ bị chi phối tâm trạng cảm
xúc. Điều này ảnh hưởng không tốt đến quá trình dạy văn. Nếu trước khi lên lớp mà
thầy cơ giáo đang phiền lịng vì chuyện gia đình, vợ chồng, con cái, đang bực mình vì
ngổn ngang bao nhiêu chuyện riêng chưa biết sắp xếp, tính tốn, xoay sở thế nào thì
thật khó để có được một giờ dạy văn đúng nghĩa. Tơi cịn nhớ như in một lá thư của
một cơ học trị tơi đã chủ nhiệm. Hơm ấy, gần hết năm học, tôi ra một dề văn kiểm tra
để lấy điểm chuẩn bị tổng kết cho kì học. Đề bài là: Em hãy viết về điều mà em muốn
viết nhất. Lúc ấy, trong nhà trường THPT, kiểu bài nghị luận xã hội chưa được chú ý
như bây giờ nên học trị của tơi rất háo hức với đề văn này. Thơi thì muốn viết gì thì
viết, thoải mái. Tập bài tôi thu về hôm ấy thật bất ngờ, thú vị và xúc động với nhiều
cảm xúc, tình cảm đáng q của học trị. Trong số bài ấy có một lá thư viết cho tôi,
viết về tôi. Cô học trị nói nhiều về sự q trọng với người thầy chủ nhiệm, người thầy

dạy văn là tôi nhưng đoạn cuối lá thư có viết: “Thầy ơi, em ln chờ đợi những giờ
dạy văn của thầy và thường thì sự chờ đợi của em đều xứng đáng. Nhưng gần đây, em
không cịn có cảm giác ấy nữa. Hình như, thầy bước vào lớp mà qn khơng để lại
những ưu tư ngồi cửa. Lúc nào trông thầy cũng buồn bã. Thầy cố gắng lên nhé. Em
rất mong có lại được cảm giác đợi chờ thầy đến lớp.”. Đọc lá thư ấy, tôi chống váng
mất một lúc. Đúng là vì nhiều chuyện buồn, vì bao nhiêu nhọc nhằn, vất vả những năm
mới ra trường, đã có lúc tơi khơng dành trọn cảm xúc, tâm tư cho những giờ dạy văn.
Học trị của tơi sao lại phải chịu trách nhiệm về chuyện buồn của tôi chứ? Thú thực là
tôi thấy chán tôi lúc ấy khủng khiếp. Trong lịng tơi thầm cảm ơn cơ học trò ấy và xốc
lại tinh thần, quyết lấy lại niềm tin u của học trị. Tơi đã làm theo gợi ý của cơ học
trị ấy. Trước khi vào lớp, hãy hình dung có một cái giá treo vơ hình ngồi cửa và hãy
treo tất cả những chuyện buồn ở đó để bước vào lớp với tâm trạng thoải mái, thân
thiện, tồn tâm tồn ý với bài dạy, với học trị của mình. Và tơi đã được đền đáp, sau
một năm học nữa, khi học trị của tơi chuẩn bị ra trường, tơi nhận được khá nhiều
những món q nho nhỏ của bọn học trò lờp văn hầu hết là do các em tự làm. Trong số
đó có món quà là cuốn sách Những tấm lòng cao cả với những dòng chữ: Em thấy
nhan đề cuốn sách rất phù hợp để em tặng nó cho thầy. Em cảm ơn vì thầy đã khơng
giận em, vì thầy đã cho em những giờ văn thực sự đáng nhớ. Không, thầy mới là người
phải cảm ơn em. Sao thầy có thể giận một cơ học trị như em. Tơi thầm nhủ với mình
như thế trong nỗi xúc động, vui sướng thật khó diễn tả.


Thái độ từ phía học trị cũng dễ tác động đến tâm thế của người dạy văn. Một
quả sung lăn trên nền nhà, rẻ lau bảng còn bẩn, bàn ghế giáo viên xộc xệch, những câu
nói vơ ý của trị, ba bốn học trị khơng thuộc bài đều có thể khiến giáo viên dạy văn
mất hứng thú, thậm chí nổi nóng. Hãy đặt mình vào lứa tuổi “dở dở, ương ương” của
các em mà nén giận, hãy vì cả một giờ dạy văn mang sứ mệnh dạy người mà bỏ qua,
hãy thay lời trách móc, mắng mỏ thành lời trách hài hước, dí dỏm. Hãy để nụ cười
trên mơi bạn khi bước vào một giờ dạy văn. Đành rằng, cũng có lúc phải mắng học
sinh nhưng những lúc ấy lời mắng của người thầy cũng phải thể hiện sự thiện chí và sự

bao dung với học trị để giây phút căng thẳng dễ dàng trôi đi.
Hoạt động tổ chức giờ dạy
Với tất cả kiến thức đã chuẩn bị, với một tâm thế sẵn sàng, thiện chí, hết lịng
cho bài dạy, người dạy văn tiến hành các thao tác, các phương pháp dạy học theo đặc
thù bộ môn. Bạn hãy biết kích thích, phát huy sự tham gia của học trị. Một lớp học sơi
nổi hay trầm lắng khơng phải hồn toàn do học sinh mà cơ bản lại do người dạy. Nếu
bạn biết cách tung hứng, khơi gợi, dẫn dắt, chỉ huy thì bạn sẽ điều khiển được giờ dạy
theo ý mình.
Với tơi, điều quan trọng nhất của người dạy văn khi tổ chức giờ dạy là sự linh
hoạt, nhạy bén, biết lắng nghe học trò, biết từ học sinh mà thay đổi phương pháp thậm
chí là bổ sung kiến thức cho bài học. Không phải lúc nào giờ học cũng trôi chảy đúng
như giáo án đã thiết kế, đúng như những dự kiến, suy nghĩ của người thầy. Những lúc
như thế, người thầy hết sức bình tĩnh, thậm chí phải thấy hứng thú trước tình huống lạ.
Tơi cịn nhớ năm đầu tiên khi đi dạy học. Hôm ấy, tôi dạy đến đoạn trích Thúc Sinh Từ
biệt Thuý Kiều. Khi dạy đến hai câu thơ:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
,tôi đưa ra lời bình: Hai câu thơ như một câu hỏi nhức nhối thể hiện nỗi lo âu của
Kiều về mối duyên tình dang dở. Cơ học trị bé nhỏ ngồi bàn đầu của lớp 10A rụt rè
giơ tay. Tôi hơi ngạc nhiên và rồi cũng hỏi: Em có điều gì thắc mắc khơng? Cơ học trị
thưa: Thưa thầy, em muốn hỏi là, theo thầy thì ai là người xẻ đơi vầng trăng hạnh
phúc của Thuý Kiều và Thúc Sinh? Là một giáo viên vừa ra trường, tơi thấy hơi khớp
vì mình chưa nghĩ đến tình huống này, câu hỏi này khơng hề có trong giáo án. Tuy
nhiên tơi thấy câu hỏi thật thú vị và bị cuốn vào đó với tất cả niềm hứng khởi khi gặp
được sự chia sẻ rất tích cực từ phía học trị. Trước tiên, tơi trì hỗn thời gian trả lời
bằng một lời khen: Câu hỏi của em rất hay, rồi tôi hỏi tiếp: Vậy theo em, vì sao sau
này Thúy Kiều và Thúc Sinh phải chia lìa? Cơ học trị trả lời: Là vì Hoạn Thư ghen
tng và tìm cách hãm hại Kiều ạ.. Tơi lại hỏi tiếp: Hoạn Thư ghen tng khi chồng
mình đem lịng tưởng nhớ, thương yêu người khác là đúng hay sai? Trị:Thưa thầy
đúng ạ. Thầy hỏi: Sao có vợ rồi Thúc Sinh vẫn còn đem lòng yêu Thuý Kiều và muốn

lấy nàng làm vợ? Trị trả lời: là vì xã hội cho phép người đàn ơng có thể năm thê bảy
thiếp ạ. Thầy hỏi: Bây giờ em đã trả lời được câu hỏi của em chưa? Trò: Dạ, người
trực tiếp chia rẽ hạnh phúc của Thúc Sinh và Thuý Kiều là Hoạn Thư nhưng sâu xa,
hạnh phúc đó tan vỡ là bởi chế độ phong kiến bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ có
phải khơng thầy? Tơi thở phào nhẹ nhõm vừa cười vừa nói: Em rất thơng minh, thầy
rất mong nhận được nhiều câu hỏi như thế. Cả lớp học cũng bị cuốn hút vào cuộc đối
thoại ấy, giờ học trôi đi thật nhanh. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu cách xử lý tình
huống và cách khơi gợi như thế có đúng khơng chỉ biết rằng học trị của tơi thấy hài
lịng. Sau này, tơi cịn gặp rất nhiều tình huống như vậy và đó là những lúc tơi rất


thích thú và tâm đắc. Bạn đừng vội trách học sinh thụ động. Thụ động hay khơng trước
hết ở chính cách dạy của người dạy.
Một điều cũng cực kì quan trọng khi tổ chức một giờ dạy văn là người thầy phải
biết gắn tác phẩm văn học với cuộc đời. Văn học bao giờ cũng xuất phát từ cuộc đời,
cách để tác phẩm dễ neo đậu trong tâm trí người học là trả tác phẩm lại với cuộc đời.
Tôi thường quan niệm, một giờ dạy văn như một cuộc chuyện trò, trao đổi giữa giáo
viên và học sinh. Nội dung của những cuộc chuyện trò ấy là câu chuyện về cuộc đời,
về con người với bao nhiêu cung bậc cảm xúc. Khi dạy bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ
Lão, đến hai câu thơ:
Cơng danh nam tử cịn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
bạn có thể hỏi: Qua hai câu thơ trên, em hiểu gì về lý tưởng của người thanh niên
trong thời phong kiến, lý tưởng của thanh niên ngày nay có gì khác?
Dạy bài Tự tình của Hồ Xuân Hương, đến hai câu thơ:
Ngán nỗi xuân đi xn lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
bạn có thể hỏi: Hồ Xuân Hương vốn là người phụ nữ táo bạo, ngang tàng, sao những
câu thơ trên lại ngậm ngùi đến thế. Em hãy lý giải.
Giải quyết được những câu hỏi ấy tức là đã trả các tác phẩm trở lại đúng thời

đại, xã hội của nó và giúp học sinh liên hệ với cuộc đời hôm nay.
Khi dạy tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn nguyễn Minh Châu, đến
cảnh bạo hành trong gia đình người đàn bà hàng chài, giáo viên có thể hỏi: Em thấy ở
nơi em sống, có diễn ra cảnh bạo lực như trong tác phẩm này không? Nếu chứng kiến
cảnh tượng như thế, em sẽ làm gì?
Trong một giờ dạy văn, giáo viên đừng chỉ có chăm chăm vào các đề mục với
lượng tri thức của tác phẩm sao cho không thừa, không thiếu thời gian. Hãy quan tâm
nhiều hơn đến việc bài học hơm nay gợi cho học trị những suy nghĩ, những cảm xúc
gì về cuộc đời, về con người và về bản thân. Chính vì thế, giáo viên nên biết kết hợp
giảng bài với việc lắng nghe, chia sẻ những tâm sự của học sinh được nảy sinh, xuất
phát từ tác phẩm. Có một lần, học khi tơi đang dạy đoạn trích Hồn Trương Ba, da
hàng thịt, một học sinh đã hỏi tôi: Thưa thầy, người ta đau khổ khơng được sống thật
với mình nhưng sao, em sống thật với con người mình thì người khác cứ khó chịu? Em
chẳng làm gì sai, sao bố mẹ cứ khơng chấp nhận tính cách của em? Những câu hỏi rất
thực, rất đúng với lứa tuổi. Thế là từ một giáo viên văn, tôi trở thành một chuyên gia
tâm lý bất đắc dĩ . Tôi đưa câu hỏi ấy thành đề tài để cả lớp cùng chia sẻ. Chuyện của
một em hố ra là chuyện chung của cả lớp chỉ có điều có nói ra hay khơng. Sau những
lúc sẻ chia như thế, tôi thấy giờ dạy văn thực sự rất ý nghĩa.
Một điều quan trọng để lời giảng của người thầy dạy văn trở nên thuyết
phục chính là nhân cách của người thầy. Dạy văn, người thầy thường xuyên nói những
lời hay, ý đẹp, những đạo lý, chân lý của cuộc đời. Nếu bản thân người thầy không là
một minh chứng cho những điều tốt đẹp ấy thì phỏng những điều tốt đẹp kia cịn có ý
nghĩa gì. Vì lẽ ấy, người dạy văn không chỉ dạy học bằng bài soạn, bằng kiến thức
sách vở, kiến thức cuộc đời mà dạy học bằng chính nhân cách của người thầy văn
chương. Hãy nói với học sinh những lời chân thành nhất của trái tim. Hãy hướng học
sinh đến những điều mà chính mình khao khát, tin tưởng và đi theo. Hãy làm để học
sinh tin rằng văn chương có tác dụng bồi đắp tâm hồn và nhân cách của mỗi người. Đó
cũng là nét đặc thù của bộ mơn Ngữ văn.



KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Đã 12 năm làm công việc dạy văn, tơi ln nghĩ rằng nghề của mình thật thầm
lặng. Có gì đáng nói đâu. Cuộc đời của người thầy nói chung và người thầy dạy văn
nói riêng xét cho cùng là những cuộc đời dâng tặng cho đời, thường đem cho chứ ít
khi được nhận và rất ngại nói về những gì mình làm được. Biết nói thế nào về kết quả
đạt được của đề tài này đây? Chẳng lẽ khơng nói. Nhưng thơi, đã là phần bắt buộc cần
có của một đề tài sáng kiến kinh nghiệm thì cũng nên nói ít nhiều.
Với việc thực hiện những kinh nghiệm trên đây vào công việc dạy văn, tôi thấy
điều được lớn nhất của mình là tình cảm yêu quý của các em học sinh, thậm chí của
các bậc phụ huynh. Nhiều học sinh của tôi đã trưởng thành, thành đạt trong cuộc sống
và ln lưu giữ những tình cảm đẹp của một thời cắp sách đến trường, kỷ niệm về
những giờ học văn sôi nổi mà lắng đọng cảm xúc. Đội tuyển học sinh giỏi do tôi bồi
dưỡng, giảng dạy nhiều năm đạt kết quả cao trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Cụ thể
là:
Đội tuyển lớp 10 năm học 2003-2004 đứng thứ 5 tỉnh Hưng Yên
Đội tuyển lớp 12 năm học 2005-2006 đứng thứ 3 tỉnh Hưng Yên
Đội tuyển lớp 12 năm học 2008-2009 đứng thứ 2 khối tỉnh Hưng n
Về bản thân mình, tơi được nhà trường, đồng nghiệp tín nhiệm và giao cho
nhiều cơng việc chuyên môn quan trọng như dạy lớp chọn văn, bồi dưỡng đội tuyển,
dạy các lớp ôn thi đại học, cao đẳng. Năm học 2004- 2005, nhà trưởng cử tôi đi thi
giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh. Với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ của đồng nghiệp,
tôi đã giành giải nhì trong cuộc thi giáo viên dạy giỏi môn Văn- Tiếng Việt của tỉnh
Hưng Yên năm học ấy. Sau một chặng đường 12 năm dạy học, tôi thấy mình trưởng
thành lên và tâm hồn vẫn ni dưỡng được niềm đam mê văn chương sau những giờ
dạy văn. Thật may mắn và hạnh phúc khi tôi được làm cộng tác viên chuyên môn của
Sở Giáo dục và Đào tạo từ năm 2006 đến nay. Với công việc này, tơi càng có nhiều cơ
hội để học hỏi anh chị em làm công tác giảng dạy môn Ngữ văn tỉnh nhà.
Kết quả đạt được của tơi thực sự cịn rất hạn chế. Tuy nhiên, với tình u cơng
việc dạy văn, tơi sẽ tiếp tục phấn đấu để có thêm nhiều giờ học có ý nghĩa với các em
học sinh.



KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Dạy văn thì nhọc nhằn, lao tâm khổ tứ. Đã theo nghề thì đâu có ngại những gian
khổ của nghề. Chính nỗi nhọc nhằn, vất vả của nghề tạo nên niềm vui, hạnh phúc và ý
nghĩa cao cả của một giáo viên dạy văn. Văn chương thì vơ bờ, nghề dạy học thì thầm
lặng, cuộc sống thì bộn bề, sơi động với bao nhiêu thăng trầm, toan tính. Cái tâm của
người thầy dạy văn là cốt lõi, là nên tảng của mọi kinh nghiệm dạy học. Khi u bằng
một tình u đủ lớn, người ta có muôn ngàn cách vượt qua những trở ngại để giữ gìn
và bồi đắp tình yêu ấy.
Một số kinh nghiệm về cơng việc dạy văn mà tơi vừa trình bày trên đây, thiết
nghĩ chỉ như một vài hạt muối bé nhỏ ném vào lòng đại dương thăm thẳm của nghiệp
dạy văn. Dù bé nhỏ, ít ỏi là thế nhưng nếu góp được chút mặn mịi nào đó cho cơng
việc của những người dạy văn tôi đã cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện.
Tơi biết, cịn nhiều các thầy cơ dạy văn, tâm huyêt, giỏi nghề, giàu kinh nghiệm
giảng dạy. Rất mong được các thầy cơ góp ý cho sáng kiến kinh nghiệm của tôi và
chia sẻ thêm những kinh nghiệm của bản thân để công việc dạy văn của chúng ta hiệu
quả và bớt phần nhọc nhằn hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Phù Cừ ngày 05 tháng 5 năm 2012



×