Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Giống và thời vụ sản xuất lúa đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.05 KB, 107 trang )

BỘ NƠNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NƠNG
THƠN
CỤC TRỒNG TRỌT
Giới Thiệu

ở Đồng bằng sơng Cửu Long
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
TP. Hồ Chí Minh – 2006
1
Biên tập
1. Thạc sĩ Nguyễn Văn Hòa, Phó Cục trưởng Cục
Trồng trọt
2. Thạc sĩ Nguyễn Quốc Lý, Phó Giám đốc Trung tâm
Khảo kiểm nghiệm giống trung ương; Trưởng Trạm
Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng Nam bộ.
3. Kỹ sư Đào Quang Hưng, Phó phòng kỹ thuật, Bộ
phận thường trực Cục trồng trọt tại Tp. Hồ Chí Minh.
4. Thạc sĩ Lê Thanh Tùng, Chuyên viên, Bộ phận
thường trực Cục trồng trọt tại Tp. Hồ Chí Minh.

2
LỜI NÓI ĐẦU
Đồng bằng sông Cửu Long với tiềm năng đa dạng,
phong phú và là vùng trọng điểm sản xuất lương thực.
Sản lượng lúa chiếm khoảng 52% tổng sản lượng lúa của
cả nước, hàng năm đóng góp trên 90% sản lượng gạo xuất
khẩu, sản xuất lúa ở ĐBSCL có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và
góp phần tích cực trong xuất khẩu.
Tuy nhiên, thời gian qua việc sản xuất lúa tại Đồng
bằng sông Cửu Long cũng còn biểu hiện sự thiếu ổn định


và bền vững. Sự xuất hiện nhiều loại dịch hại với mức bộc
phát, lan truyền ngày càng cao và liên tục đã làm suy
giảm đáng kể năng suất và sản lượng lúa của toàn vùng,
tình hình này đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm,
nhất là sử dụng giống và bố trí mùa vụ canh tác phù hợp
trong sản xuất lúa ở ĐBSCL hiện nay.
Với mục tiêu giúp cho cán bộ và nông dân trong
vùng hiểu biết thêm về việc sử dụng hợp lý giống và bố trí
thời vụ phù hợp trong sản xuất lúa Cục Trồng trọt biên
soạn tập sách này với mong muốn góp phần hướng dẫn
nông dân phát triển sản xuất lúa có hiệu quả và bền vững.
Dù đã rất cố gắng tập hợp và biên soạn, song tập
sách chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, chúng tôi rất mong
nhận được nhiều ý kiến phê bình, đóng góp của quý bạn đọc.
Xin chân thành các ơn các tác giả có những bài
viết đã được trích sử dụng trong tập sách này.
3
Cục trưởng Cục Trồng trọt
Nguyễn Trí Ngọc
4
5
Phần thứ nhất:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ
VÀ SỬ DỤNG GIỐNG LÚA
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
I. Sự cần thiết của giống lúa tốt trong sản xuất
1. Vai trò của giống lúa
Giống lúa vừa là mục tiêu vừa là một biện pháp kỹ
thuật để nâng cao năng suất và phẩm chất hạt gạo trong
sản xuất lương thực cho tiêu dùng nội địa và cho xuất khẩu

hiện nay nói chung và ở Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) nói riêng.
Trong nhiều năm qua việc lai tạo chọn giống lúa
theo 3 hướng chính:
• Chọn tạo giống có chất lượng gạo ngon phục vụ
thị trường trong nước và xuất khẩu.
• Chọn tạo giống có năng suất cao, ổn định cho vùng
thâm canh.
• Chọn tạo giống năng suất cao, thời gian sinh
trưởng ngắn, chống chịu sâu bệnh và chống chịu các điều
kiện khó khăn.
Việc chọn tạo theo những định hướng như trên đã
góp phần làm cho sản xuất cây lúa ở ĐBSCL từng bước ổn
định, đảm bảo an ninh lương thực cho toàn vùng và cho cả
nước trong nhiều năm qua.
6
Ngày nay giống vẫn được xem là một trong những
yếu tố hàng đầu trong việc không ngừng nâng cao năng
suất cây trồng. Các nhà khoa học ước tính khoảng 30 –
50% mức tăng năng suất hạt của các cây lương thực trên
thế giới là nhờ việc đưa vào sản xuất những giống tốt mới.
Những năm 60, ở ĐBSCL hầu như chỉ có những
cánh đồng lúa 1 vụ với những giống lúa địa phương cao
cây, dài ngày, tuy chất lượng khá nhưng năng suất thấp.
Trong thời gian 20 năm trở lại đây, nhiều cơ quan nghiên
cứu, trong đó có Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL, Viện
KHKT Nông nghiệp miền Nam, Viện Nghiên cứu và Phát
triển ĐBSCL (Đại học Cần Thơ)… đã cho ra đời nhiều
giống lúa cao sản ngắn ngày, có phẩm chất tốt, đảm bảo đủ
tiêu chuẩn xuất khẩu, cho phép tạo ra những cánh đồng lúa

2 - 3 vụ với năng suất có thể đạt 6 - 7 tấn lúa/ha/vụ, đã
thay thế hầu hết những cánh đồng lúa 1 vụ dùng giống lúa
địa phương, năng suất thấp, phẩm chất kém.
Những giống lúa cao sản đưa vào canh tác đã từng
bước đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng
thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan.
Tuy nhiên từ vụ lúa Đông Xuân, Hè Thu, Thu Đông
và vụ Mùa năm 2006 ở các tỉnh phía Nam đã bị rầy nâu,
bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá gây hại với mức độ càng lúc
càng nghiêm trọng làm cho hàng trăm ngàn ha lúa bị giảm
năng suất, nhiều nơi phải hủy bỏ. Đa số các giống lúa đang
được sử dụng hiện nay ở ĐBSCL đều từ nhiễm nhẹ đến
nhiễm rầy nâu, đạo ôn, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá.
Để tránh sự gây hại của rầy nâu, bệnh vàng lùn và
lùn xoắn lá trên lúa ngoài các biện pháp canh tác như: áp
dụng IPM, 3 giảm 3 tăng, vệ sinh đồng ruộng, chuyển đổi
mùa vụ... thì công tác giống càng phải được chú trọng hơn.
7
Thực tiễn sản xuất đang đòi hỏi cấp bách phải nghiên cứu
tìm ra những giống lúa có năng suất cao, chất lượng đảm
bảo xuất khẩu, nhưng đồng thời phải kháng sâu bệnh, tạo
ra hạt giống lúa khỏe phục vụ sản xuất, có như vậy mới tạo
cho sản xuất lúa an toàn, bền vững lâu dài, giữ vững an
toàn lương thực, đảm bảo xuất khẩu, từng bước nâng cao
đời sống người nông dân Việt Nam nói chung và nông dân
vùng ĐBSCL nói riêng.
2. Hạt giống khỏe
Muốn có cây lúa khỏe thì phải có hạt giống tốt và
khỏe mạnh. Gieo trồng hạt giống khỏe, có chất lượng cao là
điều kiện cần thiết để cây lúa gieo trồng chịu đựng và vượt

qua được biến động của điều kiện thời tiết bất lợi và những
điều kiện bất thuận bên ngoài từ đó mới có thể cho năng
suất cao và gia tăng chất lượng gạo, nhất là gạo xuất khẩu.
Hạt giống khỏe là hạt giống phải đạt những yêu cầu
sau:
- Hạt giống phải thuần, đúng giống, đồng nhất về
kích cỡ, không bị lẫn những hạt giống khác, hạt cỏ và tạp
chất, không có hạt lem, lép và không bị dị dạng.
- Tỉ lệ nảy mầm cao và cây mạ phải có sức sống
mạnh.
- Hạt giống không bị côn trùng phá hoại (sâu mọt),
không mang mầm bệnh nguy hiểm.
3. Một số biện pháp cải thiện chất lượng hạt giống khi
còn trên đồng ruộng và trong bảo quản
a. Trên đồng ruộng:
+ Kỹ thuật canh tác: Bảo đảm cây lúa sinh trưởng
tốt, bón phân cân đối và đầy đủ, quản lý nước tốt, làm sạch
8
cỏ dại, không có lúa rày (lúa cỏ) trên chân ruộng, phòng
trừ sâu bệnh tốt ở cuối vụ như bệnh vàng lá, bệnh đốm
vằn, bệnh đạo ôn, cháy bìa lá, lem lép hạt, rầy nâu, bọ xít
dài,… để hạn chế gây lép hạt ở tỉ lệ cao và hạn chế vi sinh
vật gây bệnh cho hạt.
+ Khử lẫn: Tiến hành khử lẫn ngay từ đầu vụ và sau
khi trổ để bảo đảm độ thuần, nhổ bỏ những cây cao, cắt
những bông lúa khác so với quần thể như lúa cỏ, lúa von,
lúa khác giống.
b. Không chọn những ruộng lúa bị bệnh để làm
giống cho vụ sau: như bệnh lúa von, bệnh đạo ôn, bệnh
cháy bìa lá, bệnh than vàng, bệnh đen hạt, bệnh đốm nâu,…

c. Thu hoạch và cất giữ: Các điều kiện cần có để
bảo đảm độ thuần của lúa giống như sau:
- Chuẩn bị công cụ suốt sạch không còn lẫn tạp
giống khác, kể cả bao bì đựng lúa giống.
- Chuẩn bị sân phơi riêng, không phơi gần những
giống khác.
- Sau khi phơi khô, làm sạch đảm bảo ẩm độ hạt còn
14%, đây là ẩm độ cất giữ tốt nhất.
- Cất giữ nơi thoáng mát, tránh mưa nắng, nếu tồn
trữ từ vụ Hè Thu năm trước đến vụ Đông Xuân sau phải
chú ý ngăn ngừa sâu mọt để bảo đảm độ nảy mầm cao.
Nếu trữ hạt giống trong bao yếm khí thì thời gian trữ sẽ dài
hơn (4-6 tháng) không bị sâu mọt.
Trong tình hình sản xuất lúa với mức thâm canh,
tăng vụ cao như hiện nay tại ĐBSCL, mối đe dọa của các
loại thiên tai, dịch hại ngày càng nguy hiểm hơn, thì việc
9
chọn canh tác những giống lúa phù hợp cho một vùng sản
xuất, với việc dùng hạt giống thuần và khỏe mạnh vừa là
yếu tố quan trọng vừa là một biện pháp canh tác hàng đầu
để góp phần giữ vững và gia tăng năng suất, sản lượng.
II. Tình hình sử dụng giống lúa trong thời gian qua
ở ĐBSCL
Trong 5 năm qua, sản lượng lúa ở ĐBSCL đã tăng
trên 3 triệu tấn, từ 15.997.500 tấn năm 2001 lên 19.263.000
tấn năm 2005. Sản lượng vượt trội một phần do tăng vụ, mở
rộng diện tích gieo trồng, song chủ yếu là do năng suất lúa
tăng (từ 4,22 tấn/ha năm 2001 tăng lên 5,03 tấn/ha năm
2005). Những thành tựu to lớn trong sản xuất lúa ở ĐBSCL
có sự đóng góp quan trọng của công tác chọn tạo, phát triển

giống mới và áp dụng giống xác nhận ngày càng tăng.
Trong giai đoạn 1984 – 2005, Bộ Nông nghiệp và
PTNT đã công nhận 57 giống lúa ở phía Nam, trong đó
gồm 32 giống lúa được công nhận chính thức và 25 giống
công nhận tạm thời. Cơ cấu gieo trồng và diện tích sản
xuất 20 giống lúa chủ lực ở ĐBSCL giai đoạn 2003/2004
được tổng hợp và trình bày trong bảng dưới đây (theo số
liệu điều tra của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Giống cây
trồng Trung ương).

10
Bảng 1: 20 giống lúa gieo trồng chủ lực trong Vụ Hè
Thu và vụ Mùa năm 2003
Stt Tên giống Diện tích (ha) Tỉ lệ (%)
1 OM 1490 270.498 12,3
2 OM 576 252.612 11,5
3 OMCS 2000 188.405 8,6
4 IR 50404 159.541 7,3
5 VND 95-20 135.665 6,2
6 OM 3536 103.563 4,7
7 IR 64 93.564 4,3
8 OM 2517 74.805 3,4
9 TNĐB 100 70.455 3,2
10 VD 20 42.953 2,0
11 Jasmine 85 40.889 1,9
12 OM 2717 32.167 1,5
13 IR 59606 30.185 1,4
14 Địa phương 27.160 1,2
15 MTL 250 24.510 1,1
16 ML 48 21.124 1,0

17 AS 996 18.790 0,9
18 OM 2822 14.588 0,7
19 IR 56381 13.111 0,6
20 IR 42 12.698 0,6
11
Bảng 2: 20 giống lúa gieo trồng chủ lực trong Vụ Đông
Xuân 2003 - 2004
STT Tên giống Diện tích (ha) Tỉ lệ (%)
1 IR 50404 181.188 11,4
2 OM 1490 168.784 10,6
3 VND 95-20 137.827 8,7
4 OM 576 128.780 8,1
5 Jasmine 85 109.620 6,9
6 OMCS 2000 97.784 6,2
7 OM 2517 87.483 5,5
8 IR 64 57.454 3,6
9 OM 3536 54.589 3,4
10 OM 2717 45.491 2,9
11 VD 20 38.766 2,4
12 TNĐB 100 50.972 3,2
13 OM 1723 15.991 1,0
14 Nếp 14.730 0,9
15 MTL 250 13.212 0,8
16 IR5 9606 12.734 0,8
17 OM 2518 11.337 0,7
18 IR5 6381 10.228 0,6
19 AS 996 10.176 0,6
20 Địa phương 9.996 0,6
12
Bảng 3: 20 giống lúa gieo trồng chủ lực ở phía Nam năm

2005
Stt Tên giống Ước DT
2005 (ha)
Số tỉnh
gieo
trồng
Phản
ứng rầy
nâu
Phản
ứng đạo
ôn
1 OM 1490 400.000 19
N N
2 OM 576 360.000 12 HN HN
3 IR 50404 350.000 14 HN HN
4 OMCS 2000 280.000 19 HN N
5 VND 95-20 300.000 20 HN HN
6 OM 2517 180.000 10 HN HN
7 Jasmine 85 160.000 11 N N
8 IR 64 150.000 19 HN HN
9 OM 3536 140.000 17 N HN
10 OM 2718 130.000 13 N N
11 VD 20 80.000 9 N HN
12 OM 2717 70.000 15 N N
13 TNĐB 100 55.000 10 HN HN
14 OM 2514 40.000 7 N HN
15 AS 996 30.000 11 HN HN
16 MTL 250 25.000 15 N HN
17 OM 2822 15.000 5 HK HN

18 OM 3242-49 15.000 5 N HN
19 IR 56381 10.000 2 HN N
20 ST 3 10.000 5 N N
Ghi chú: N: Nhiễm; HN: Hơi nhiễm
13
Nhìn chung, có thể thấy xu hướng chuyển đổi rõ nét
về cơ cấu giống lúa ở ĐBSCL những năm gần đây là việc
tăng nhanh sử dụng các giống lúa cực ngắn ngày (TGST từ
88 – 95 ngày trong điều kiện sạ) thích nghi cả hai vụ Đông
Xuân và Hè Thu, năng suất cao, chất lượng gạo tốt hoặc
chấp nhận được. Việc canh tác các giống lúa cực ngắn
ngày góp phần tiết kiệm chi phí, nước tưới, phục vụ cho
chuyển đổi cơ cấu cây trồng và tăng vụ. Nhóm giống này
hiện chiếm khoảng 70% diện tích gieo trồng lúa toàn vùng.
Trong số các giống lúa hiện đang sử dụng ở ĐBSCL,
nhóm giống cải tiến, năng suất cao đóng vai trò then chốt,
chiếm khoảng 85% diện tích sản xuất các vụ, trong đó tỉ lệ
giống cao sản chất lượng cao (hạt thon dài, ít bạc bụng,
hàm lượng Amylose trung bình) ngày càng tăng và chiếm
tới 55 – 60% diện tích lúa, đã góp phần quan trọng trong
việc tăng chất lượng và giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam
những năm qua.
Số lượng giống lúa có mặt trong sản xuất ở ĐBSCL
rất đa dạng và phong phú, trên 200 giống trong vụ Hè Thu
và Mùa, và khoảng 180 giống trong vụ Đông Xuân. Tuy
nhiên, có thể xác định 10 giống lúa chủ lực chiếm tới 65 –
70% tổng diện tích gieo trồng và có vị trí quyết định đến
sản xuất lúa giai đoạn 2000-2005 là: VNĐ 95 – 20; OM
1490; OM 576; OMCS 2000; IR 64; OM 2717; OM 2718;
Jasmine 85; OM 3536 (OMCS 21) và OM 2517.

Thay đổi tích cực về cơ cấu giống lúa trong hơn một
thập kỷ qua thể hiện ở tỉ lệ giống lúa được chọn tạo, phát triển
trong nước ngày càng tăng và chiếm vị trí chủ đạo (trên 70%)
trong sản xuất lúa hiện nay; trái ngược hẳn tình hình những
năm 80 và đầu những năm 90 khi mà giống lúa có nguồn gốc
từ Viện nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) chiếm đa số.
14
Ảnh hưởng của thị trường đến chuyển đổi cơ cấu
giống lúa ở ĐBSCL thể hiện rõ trong những năm gần đây,
đó là sự tăng đột biến diện tích sản xuất các giống lúa
thơm, đặc sản như VD 20, Jasmine 85, ST3, các giống lúa
nếp và mùa đặc sản địa phương như Tài nguyên, Nàng
thơm, Nàng hương, Tép hành… Những giống lúa này
ngon cơm, có giá trị thương mại cao nhưng có nhược điểm
chung là nhiễm nặng nhiều loại sâu bệnh hại chính ở
ĐBSCL như rầy nâu, bệnh đạo ôn, khô vằn.
Trước năm 2000, cơ cấu giống lúa Jasmine 85 và VD
20 hầu như không đáng kể. Nhưng do nhu cầu xuất khẩu,
năng suất và giá trị thương mại cao nên diện tích sản xuất
giống Jasmine 85 và VD 20 bùng phát nhanh, lên tới trên
200.000 ha năm 2004 và khoảng 250.000 ha vào năm
2005. Nhóm lúa thơm đặc sản hiện chiếm trên 10% tổng
diện tích gieo trồng lúa toàn vùng.
Các giống lúa đặc sản được sản xuất khá tập trung ở
một số địa phương, vì thế ở nhiều vùng tỉ lệ diện tích lúa
thơm nhiễm rầy nâu và bệnh đạo ôn lên đến 20 – 30%.
Đây có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc
tích tụ và bùng phát dịch rầy nâu hiện nay.
Sau nhiều năm sản xuất trên diện rộng, tính kháng
của phần lớn các giống lúa với sâu bệnh đã suy giảm, nhất

là ở những vùng có sức ép sâu bệnh hại cao như vùng canh
tác 3 vụ, vùng có thâm canh cao.
Dịch rầy nâu, kèm theo lây truyền bệnh vàng lùn, lùn
xoắn lá đã xảy ra trên diện tích rộng ở hầu hết các tỉnh
ĐBSCL trong năm 2006, có nguy cơ bùng phát ngày càng
rộng trong vụ Đông Xuân 2006 – 2007 và những vụ tới
nếu không có những biện pháp phòng trừ hiệu quả.
15
Từ cơ cấu giống lúa và thực tế sản xuất những năm
gần đây đặt ra những vấn đề cần quan tâm như sau:
Một là, cần tổ chức đánh giá định kỳ phản ứng với
rầy nâu, đạo ôn và bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá của nhóm
giống chủ lực và nhóm giống lúa bổ sung để có chiến lược
sử dụng và điều chỉnh cơ cấu giống lúa phù hợp cho từng
vùng, từng vụ sản xuất, xác định các nguy cơ tiềm ẩn để
đề ra biện pháp quản lý dịch hại chủ động và hiệu quả.
Hai là, tổ chức khảo nghiệm, xác định nhanh các
giống lúa mới có đặc tính nông học phù hợp, năng suất và
chất lượng cao hoặc chấp nhận được, kháng rầy nâu và
bệnh đạo ôn, nhiễm nhẹ bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá để bổ
sung vào cơ cấu giống chủ lực là rất cấp thiết.
Ba là, tăng cường hơn nữa công tác chọn tạo phát
triển các giống lúa kháng sâu bệnh.
Bốn là, tổ chức hệ thống sản xuất giống lúa các cấp,
phục tráng và làm thuần các giống lúa chủ lực đã tồn tại
lâu dài trong sản xuất, kết hợp với biện pháp canh tác tổng
hợp để phát huy tốt tiềm năng và kéo dài thời gian tồn tại
của giống trong sản xuất.
III. Định hướng cơ cấu giống lúa hiện nay và trong thời
gian tới

1. Sơ bộ tình hình sâu bệnh đang phát sinh hiện nay
Rầy nâu và bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá gần đây đã có
những diễn biến phức tạp. Thời gian bùng phát và gây hại
mạnh bắt đầu từ năm 2005, và kéo dài với tốc độ lây
truyền bệnh nhanh, trên phạm vi rộng.
Bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá tại một số vùng chiếm tới
70 – 80% diện tích lúa bị nhiễm rầy nâu, là một tỉ lệ cao và
đáng lo ngại.
16
Tốc độ lây lan nhanh và rộng do những yếu tố về
mùa vụ canh tác lúa của những vùng là chính (luôn luôn
có sự hiện diện của cây lúa trên đồng ruộng, rầy nâu dễ
dàng di trú theo gió về Đông Nam bộ khi ĐBSCL thu
hoạch lúa và ngược lại). Ngoài ra việc sử dụng tỉ lệ cao
một số giống nhiễm rầy nâu trong sản xuất đã làm cho
dịch hại này có điều kiện bộc phát nhanh và kéo theo sự
lây truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên diện rộng.
Tuy nhiên bằng nhiều biện pháp canh tác như cắt bỏ
vụ 3, áp dụng 3 giảm 3 tăng, sử dụng một số giống lúa
chống chịu rầy nâu, IPM, 4 đúng trong dùng thuốc BVTV,
thời vụ sạ lúa tập trung, “né rầy”, “bao lúa” bằng việc
khống chế nước, “giăng mùng” cho mạ,… đã góp phần
quan trọng vào việc khống chế dịch rầy nâu, vàng lùn và
lùn xoắn lá.
2. Giới thiệu cơ cấu giống vụ Đông Xuân 2006 - 2007
Nhiều giống lúa có thể dùng cho vụ ÐX 2006 – 2007,
ít nhất là để chờ có giống tốt hơn là: OMCS 2000, OM 576,
IR 50404, IR 64; và AS 996, VND 95 – 20, OM 5930.
Một số giống được các tác giả giới thiệu có tính
kháng rầy tốt, như OM 4495, OM 4498, MTL 382, MTL

465. Ðiều này thể hiện tiềm năng tạo, chọn giống, nhưng
trước hết là số lượng hạt giống chưa đáp ứng và cũng cần
sàng lọc qua thử thách trong sản xuất.
Nhóm giống phản ứng phức tạp (khi kháng, khi
nhiễm, vùng kháng, vùng nhiễm): OM 2718; OM 2517; IR
64; VNĐ 95 – 20; OMCS 2000; OM 3536; VD 20… cần
được tiếp tục khảo sát nghiêm túc.
Trên cơ sở khảo sát thực tế, đề xuất của các địa
phương và ý kiến các cơ quan nghiên cứu khoa học
17
chuyên ngành, cơ cấu giống cụ thể cho vụ Đông Xuân
2006 – 2007 được khuyến cáo như sau:
- Nhóm giống chủ lực khuyến cáo sử dụng: OM
4498; OM 4495; AS 996; OM 2395; VNĐ 95 – 20; OMCS
2000; OM 2517; OM 576; IR 64.
- Nhóm giống lúa có thể xem xét mở rộng sản xuất
thử: MTL 474; MTL 385; OM 5930; OM 4900; OM 5932,
OM 5796; OM 5637; IR 59656-5K-2.
- Nhóm giống khuyến cáo hạn chế sử dụng: OM
1490; OM 2717; VD 20; Jasmine 85; các giống nếp.
► Cơ cấu giống cho tiểu vùng:
Cơ cấu giống lúa cụ thể cho các vùng sản xuất
lúa chính đề nghị như sau:
• Vùng phù sa ngọt dọc sông Tiền, sông Hậu sử dụng
các giống lúa thâm canh chất lượng cao như: VND 95 –
20, AS 996, OMCS 2000, IR 64, OM 2517, OM 4498.
• Vùng Tây sông Hậu và Tứ giác Long Xuyên sử
dụng các giống chủ lực nêu trên.
• Vùng Đồng Tháp Mười: cơ cấu chủ lực là các
giống cực sớm và sớm như OM 576, IR 50404,

OMCS 2000, VND 95-20, OM 4498.
• Vùng ven biển Nam bộ: cơ cấu chủ lực là các giống
OM 576, IR 50404, OMCS 2000, AS 996, OM 4498,
VND 95-20, OM 3242.
• Vùng bán đảo Cà Mau (tính từ Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Cà Mau và một phần tỉnh Kiên Giang) xem xét lựa
chọn các giống chủ lực nêu trên, các giống lúa ST đặc
sản. Vùng đất phèn có thể sử dụng giống OM 1350,
OM 2488, IR 56381 (MTL 149), AS 996, OM 3242,
18
Tuy nhiên về tương lai lâu dài cơ cấu giống lúa nên
được hoạch định theo những định hướng cho từng vùng
như sau:
+ Mỗi vùng sản xuất tùy theo điều kiện tự nhiên và
theo sự giới thiệu, khuyến cáo của các cơ quan sản xuất
giống chỉ nên sản xuất từ 4 – 5 giống chủ lực và lưu ý rằng
không có giống chủ lực nào chiếm quá 20% diện tích. Cần
quy hoạch sản xuất 1 hoặc 2 giống có những đặc tính
tương đồng trong từng cánh đồng để thuận tiện cho việc áp
dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến, phù hợp và dễ dàng
hình thành một vùng hàng hóa đồng nhất.
+ Nên sử dụng giống xác nhận và cố gắng duy trì
việc sản xuất 1 giống lúa trong nhiều vụ bằng các biện
pháp, kỹ thuật canh tác thích hợp để gia tăng tính ổn định
và khai thác hết tiềm năng năng suất của giống (hiện nay
một số giống lúa chỉ có thể tồn tại trong khoảng 3 năm tại
một vùng sản xuất sau đó với áp lực của các loại sâu hại đã
không thể phát huy hết những đặc tính tốt của mình).
+ Bố trí cơ cấu giống cho từng vụ nên chú ý một số
loại dịch hại phổ biến và những yếu tố bất lợi trong vụ đó

để dùng giống có tính kháng hoặc có thể chống chịu với
dịch hại hoặc chịu đựng được điều kiện bất thuận và tăng
cường các biện pháp thâm canh tiên tiến để hạn chế dịch
hại lây lan trên diện rộng.
+ Nên chuẩn bị một hoặc vài giống lúa mới để sản
xuất thử và đánh giá tính thích nghi trong vùng để chủ
động thay thế khi có những diễn biến bất lợi.
+ Mỗi hệ thống canh tác, mỗi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu
cây trồng… của từng vùng phải có một định hướng sử
dụng giống cho phù hợp. Các giống lúa trung mùa chất
19
lượng cao, giống lúa mùa đặc sản là những giống có thể
được khuyến khích duy trì và xem xét để sản xuất tại
những vùng sản xuất lúa – tôm, lúa – cá, hoặc những vùng
sản xuất lúa tùy thuộc nước trời, nhiễm mặn, những vùng
canh tác 1 vụ lúa…
3. Một số giống lúa đề nghị cho vụ Hè Thu 2007
Những giống lúa khuyến cáo sản xuất trong vụ Hè
Thu 2007 phải dựa trên cơ sở phản ứng với rầy nâu, bệnh
vàng lùn và lùn xoắn lá trong vụ Đông Xuân 2006 – 2007.
Giống lúa tỏ ra chống chịu được với những dịch hại này tại
địa phương cần được xem xét tiếp tục sản xuất.
Vụ Hè Thu cần quan tâm thêm về độ cứng cây, tính
chống chịu với hạn đầu vụ và bệnh đốm vằn.
Ngoài những giống lúa đã được xác định trong vụ
Đông Xuân 2006 – 2007, vụ Hè Thu 2007 có thể mở rộng
sản xuất một số giống có triển vọng như sau: OM 5930;
OM 5239; OM 3556; OM 3539; MTL 382; MTL 384;
MTL 392.
4. Định hướng thay đổi giống

Các cơ sở nghiên cứu về lúa cần kế thừa phương
pháp thanh lọc và tạo chọn giống lúa kháng rầy như trước
đây, đồng thời ứng dụng và phát triển những công nghệ
tiên tiến để có chương trình nghiên cứu giống lúa kháng
rầy có hệ thống kết hợp giữa truyền thống với hiện đại.
Tuy nhiên, trước mắt cần xác định giống kháng ngay
trong sản xuất. Ðồng thời, cần tập hợp được các chuyên gia
tạo giống lúa có kinh nghiệm, không phân biệt trong hay
ngoài các cơ quan, đơn vị có chức năng tạo chọn giống lúa,
ở trong hay ngoài cơ quan nghiên cứu, có thể khuyến khích,
mở rộng cho các công ty giống cùng tham gia.
20
Nông dân cần biết rõ vùng đất của mình, canh tác
những giống có khả năng phát triển tốt theo khuyến cáo
của các cơ quan nghiên cứu về giống và các cơ quan
chuyên môn tại địa phương. Về lâu dài những giống lúa có
chất lượng khá, phù hợp với thị trường tiêu thụ nội địa và
xuất khẩu cần chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu sản xuất lúa.
Những giống kháng sâu bệnh, và chống chịu điều kiện bất
lợi của môi trường cần được chú ý đưa vào canh tác.
4.1. Đổi mới hạt giống
Đổi mới hạt giống là một khâu thiết yếu để duy trì
phẩm chất hạt giống trong sản xuất.
Việc sử dụng hạt giống trong ruộng sản xuất qua
nhiều vụ sẽ dẫn đến giống bị lẫn tạp, thoái hóa, không cho
năng suất cao và tính chống chịu với điều kiện bất lợi sẽ
không như hạt giống ban đầu. Do vậy, khi vẫn còn muốn
canh tác giống lúa này trong ruộng sản xuất thì việc phải
đổi mới hạt giống là cần thiết.
Việc đổi mới hạt giống hợp lý và tối ưu nhất là sử

dụng giống xác nhận trong từng vụ sản xuất. Tuy nhiên
điều này hầu như không thể và rất khó thực hiện cho tất cả
diện tích gieo trồng trong tình hình hiện nay, khi mà các
đơn vị, cơ sở nhân giống lúa xác nhận không thể đáp ứng
nhu cầu. Vì vậy việc đổi mới hạt giống mang tính cộng
đồng có thể thực hiện bằng một trong các biện pháp sau:
- Trong ruộng sản xuất của từng hộ nông dân cần để
riêng ra một diện tích đất tốt nhất, bằng phẵng, đầy đủ ánh
sáng và có chế độ chăm sóc riêng để cuối vụ thu hoạch
làm giống cho vụ sau.
- Khi lúa trong giai đoạn sinh trưởng, trổ chín thì
định kỳ tiến hành khử những cây lúa bị lẫn và khi thu
21
hoạch thì tiến hành thu hoạch riêng bông cái của những
cây lúa khỏe mạnh nhất trong ruộng để làm giống.
- Trong cộng đồng sản xuất nếu có thể thì chọn một
hoặc vài nông dân có kỹ thuật thâm canh cao, có kinh
nghiệm sản xuất lúa giống để chuyên sản xuất lúa giống và
thỏa thuận hợp lý để cung cấp cho một nhóm nông hộ.
Những biện pháp đổi mới hạt giống như nêu trên cần
được khuyến khích và phổ biến rộng rãi trong các hộ sản
xuất lúa.
4.2. Thay giống mới
Việc thay thế các giống cũ trong sản xuất bằng các
giống mới có nhiều đặc tính sinh học và kinh tế tốt hơn là
nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác về giống cây trồng,
nhất là trong sản xuất lúa.
Mỗi một lần thay giống là một bước tiến cao hơn về
chất trong việc hoàn thiện giống cây trồng. Vì lý do đó, có
thể căn cứ vào nhịp độ thay thế giống để đánh giá phần

nào trình độ phát triển của công tác giống cây trồng nói
chung cũng như của sản xuất giống lúa nói riêng. Thực
tiễn sản xuất ở vùng ĐBSCL cho thấy nhịp độ thay giống
lúa khá nhanh trên quy mô rộng lớn sau ngày giải phóng
đến nay, Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL đã lai tạo, tuyển
chọn và phóng thích ra sản xuất hàng trăm giống lúa có
chất lượng cao, kháng sâu bệnh, đã góp phần đáng kể cho
sản xuất lúa cũng như xuất khẩu gạo của nước ta, đem lại
lợi nhuận không nhỏ cho người nông dân ĐBSCL.
Tuy nhiên, do sự thiếu chặt chẽ trong công tác chọn
giống cũng đã xảy ra tình trạng một số giống mới không có
triển vọng và không được nghiên cứu đầy đủ đã được phổ biến
ra sản xuất. Điều này đã mang lại những thiệt hại đáng tiếc.
22
Để khắc phục tình trạng nói trên cần phải làm sao
cho từ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý đến tận người sản
xuất đều hiểu rõ là việc thay giống mới chỉ nên tiến hành
trong 3 trường hợp sau:
Một là, khi các nhà chọn giống đã tạo ra được giống
mới có một số ưu điểm có giá trị kinh tế hơn hẳn các giống
cũ đang dùng trong sản xuất.
Hai là, khi điều kiện sinh thái trong vùng thay đổi
làm các giống đang sử dụng trở nên không thích hợp nữa.
Ví dụ như sự bộc phát của những loại dịch hại, sự thay đổi
về điều kiện thủy văn, thủy nông…
Ba là, khi có sự thay đổi về hướng sử dụng sản phẩm
như để chế biến, tiêu thụ nội địa, xuất khẩu.
4.3. Những yêu cầu cơ bản đối với một giống lúa mới
Nền nông nghiệp hiện đại có những yêu cầu ngày
càng cao đối với giống cây trồng nói chung và giống lúa

nói riêng. Điều kiện tự nhiên rất đa dạng của các vùng sinh
thái khác nhau lại có những yêu cầu cụ thể khác nhau đối
với giống. Tuy nhiên, nhìn chung giống lúa được trồng
phải đáp ứng những yêu cầu chính sau:
- Giống lúa phải có khả năng cho năng suất cao và
ổn định. Đây là yêu cầu quan trọng nhất, vì năng suất bao
giờ cũng là kết quả tổng hợp của tất cả các quá trình sinh
trưởng và phát triển cũng như mức độ kháng sâu bệnh của
cây lúa.
- Giống lúa phải có khả năng chống chịu được các
điều kiện ngoại cảnh bất lợi. Tùy theo điều kiện cụ thể của
từng vùng sinh thái mà giống phải có các đặc tính như chịu
hạn, chịu ngập, chịu nóng, chịu lạnh, chịu phèn, chịu mặn,
23
không đổ ngã v.v… Khả năng chống chịu điều kiện bất lợi
của ngoại cảnh giúp cho lúa có năng suất ổn định. Để đảm
bảo được năng suất ổn định ở những vùng và những mùa
vụ thường bị hạn cần tạo ra những giống chịu hạn. Những
vùng đất phèn, mặn, việc cải tạo các loại đất này rất tốn
kém và đòi hỏi thời gian dài, vì vậy sản xuất đòi hỏi các
giống chịu phèn, chịu mặn và có năng suất cao hơn những
giống hiện trồng trên vùng đất này. Hiện tượng đổ ngã
thường gây ra những thiệt hại lớn về năng suất, phẩm chất
của sản phẩm bị giảm sút, vì vậy việc tạo giống kháng đổ
ngã là một yêu cầu rất quan trọng, nhất là với những vùng
và mùa vụ có mưa to, gió lớn…
- Giống lúa phải có khả năng kháng một số sâu, bệnh
chính trong vùng. Sâu bệnh thường gây ra những thiệt hại
lớn đến năng suất, có khi bị mất trắng như trường hợp lúa
bị bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá ở ĐBSCL hiện nay. Các

biện pháp phòng trừ sâu, bệnh bằng hóa chất thường tốn
kém và làm ô nhiễm môi trường, nhưng không phải bao
giờ cũng đạt được những kết quả mong muốn. Việc xử lý
bằng thuốc trừ sâu thường kèm theo những hậu quả tiêu
cực đối với những loài côn trùng có ích, kẻ thù của những
côn trùng có hại. Ngoài ra, dùng thuốc hóa học phòng trừ
sâu bệnh không hợp lý sẽ làm mất cân bằng sinh thái,
những côn trùng có lợi bị tiêu diệt và những côn trùng có
hại thường tạo ra những khả năng sinh sản ào ạt trở lại để
gây hại cho lúa. Vì những lý do trên, việc đưa vào sản xuất
các giống lúa có khả năng kháng sâu bệnh sẽ khắc phục
được những nhược điểm cơ bản của biện pháp phòng trừ
sâu, bệnh bằng hóa chất và mang lại hiệu quả kinh tế to
lớn trong sản xuất nông nghiệp.
- Giống lúa phải thích hợp với điều kiện canh tác
trong vùng. Ở những nơi có mức độ cơ giới hóa cao trong
24
sản xuất nông nghiệp thì các giống lúa phải có những đặc
tính thích hợp với việc canh tác bằng cơ giới hóa, có độ
đồng đều cao, cứng cây, không đổ ngã, ít rụng hạt. Trong
điều kiện có đủ phân bón hay có thể tưới tiêu tự động thì
cần những giống có phản ứng tốt với liều lượng phân bón
cao hay với nước tưới, nhưng trong điều kiện thiếu phân,
thiếu nước người ta lại cần những giống ít đòi hỏi phân và
chịu hạn…
- Giống lúa phải có phẩm chất tốt, đáp ứng được yêu
cầu của thị trường.
IV. Tổ chức hệ thống sản xuất, cung ứng và quản lý
chất lượng giống lúa
1. Phân cấp hạt giống lúa

Theo Quyết định 53/2006/QĐ- BNN ngày 26 tháng 6
năm 2006 về quản lý, sản xuất, kinh doanh và sử dụng
giống lúa, hạt giống lúa được phân cấp như sau:
o Hạt giống tác giả (TG) là hạt giống thuần do tác
giả chọn, tạo ra.
o Hạt giống lúa siêu nguyên chủng (SNC) là hạt
giống lúa được nhân ra từ hạt giống tác giả hoặc
phục tráng từ hạt giống sản xuất theo quy trình
phục tráng hạt giống siêu nguyên chủng và đạt tiêu
chuẩn chất lượng theo quy định.
o Hạt giống lúa nguyên chủng (NC) là hạt giống lúa
được nhân ra từ hạt giống siêu nguyên chủng và
đạt tiêu chuẩn chất lượng theo quy định.
o Hạt giống lúa xác nhận (XN) là hạt giống được
nhân ra từ hạt giống nguyên chủng và đạt tiêu
chuẩn chất lượng theo quy định.
25

×