Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

’Thế nào là kiểm soát chi ngân sách nhà nước? Vị trí pháp lý của Kho bạc nhà nước trong hoạt động Kiểm soát chi ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.32 KB, 13 trang )

I. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
II. Khái quát về bội chi ngân sách nhà nước
II.1. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước
Theo Điều 1 Luật Ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2002 thì : "Ngân sách nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan có
thẩm quyền của Nhà nước quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước". Và Chính phủ đã sử dụng quyền lực
của mình để tập trung một bộ phận của tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền
tệ trung của quốc gia làm nguồn để thực hiện nhiệm vụ của mình. Các khoản thu ngân
sách nhà nước gồm nhiều loại, theo điều 2 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 thu ngân
sách nhà nước gồm các khoản: thu từ thuế, phí, lệ phí; thu từ hoạt động kinh tế của nhà
nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ, và các khoản
thu khác theo quy định của pháp luật.
Ngân sách nhà nước trong quá trình sử dụng không phải lúc nào cũng được thực
hiện theo đúng bản dự toán ngân sách, có trường hợp tổng chi tổng chi tiêu của ngân
sách nhà nước vượt quá các khoản thu" không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà
nước đó chính là bội chi ngân sách nhà nước hay còn gọi là thâm hụt ngân sách.Trong
kinh tế học vĩ mô và kinh tế tế học cộng đồng là tình trạng các khoản chi của ngân sách
Nhà nước lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường
hợp hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân
sách nhà nước. Thu của chính phủ không bao gồm khoản đi vay. Đi vay chính là một
cách mà chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân sách.
Nói tóm lại bội chi ngân sách nhà nước là sự vượt trội về chi tiêu so với tiền thu
được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt NSNN do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm
thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.’’ Vì vậy em chọn chủ đề: Đề số 9 ‘’Thế nào là
kiểm soát chi ngân sách nhà nước? Vị trí pháp lý của Kho bạc nhà nước trong hoạt
động Kiểm soát chi ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành?
II.2. Phân loại bội chi ngân sách nhà nước
Tài chính công hiện đại phân loại bội chi ngân sách thành hai loại: bội chi cơ
cấu và bội chi chu kỳ.
Bội chi cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy


biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu
cho giáo dục, quốc phòng,
1
Bội chi chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế,
nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền
kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống
trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của bội chi cơ cấu và bội chi chu kỳ được tính toán như sau:
Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong một
giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu
nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau
giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động.
Việc phân biệt hai loại bội chi trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh giá
ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính mở rộng
hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có
những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế
Ngân sách Nhà nước là tập hợp các khoản thu chi hàng năm được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền phê chuẩn và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là một hệ thống các quan
hệ phân phối không hoàn lại giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế trong xã hội thông
qua quỹ ngân sách Nhà nước.
III. Phương thức xử lý bội chi ngân sách nhà nước
III.1. Nguyên nhân của bội chi ngân sách
Như đã đề cập ở trên, bội chi ngân sách được chia thành 2 trường hợp, đó là:
Một là, bội chi cơ cấu là bội chi xảy ra khi cơ cấu thu và chi của nền kinh tế, do
những quyết định của nhà nước về tình hình cơ cấu chi như chi cho giáo dục, quốc
phòng an ninh trợ cấp bảo hiểm… khi cơ cấu chi của các nhân tố này tăng lên thì dẫn

đến bội chi ngân sách.
Hai là, bội chi chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh
tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ, khi nền
kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống
trong khi chi ngâ sách cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
2
Do vậy, để tìm hiểu lý giải đúng từng trường hợp, ta đi sâu vào nguyên nhân khiến
ngân sách nhà nước bị thâm hụt.
Trong những năm vừa qua tình trạng bội chi ngân sách của Việt Nam đang diễn
biến một cách đáng lo ngại. Thâm bội chi ngân sách của Việt Nam liên tục tăng đặc biệt
là trong những năm gần đây. Với mức bội chi như vậy, Việt Nam đang bước vào một
tình trạng nguy hiểm bởi lẽ bội chi ngân sách cao sẽ đem lại nhiêu hệ lụy rất nghiêm
trọng. Để phân tích rõ hơn vấn đề này, cần một cái nhìn sâu hơn về nguyên nhân gây ra
bội chi ngân sách ở Việt Nam. Thông thường thâm hụt ngân sách đến từ việc thu ngân
sách không đủ bù đắp các khoản chi ngân sách. Chi ngân sách bao gồm chi thường
xuyên, chi đầu tư bao gồm đầu tư trong ngân sách và đầu tư ngoài ngân sách, chủ yếu
qua SOEs (rất lớn). Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước còn có thể hiểu là do
những nguyên nhân khách quan là do nền kinh tế suy thoái mang tính chu kỳ, thiên tai,
tình hình bất ổn chính trị; và các nguyên nhân chủ quan như do quản lý điều hành ngân
sách bất hợp lý; do nhà nước chủ động sử dụng bội chi ngân sách nhà nước như một
công cụ sắc bén của chính sách tài khóa; do cách đo lường bội chi… Xét thực tế, ta thấy
nguyên nhân của bội chi ngân sách là do nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, tác động của chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước. Khi nhà nước
thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi ngân
sách nhà nước. Ngược lại thực hiện chính sách đầu tư và tiêu dùng của nhà nước thì
mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách
cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
Thứ hai, tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng làm cho thu nhập của nhà
nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh
tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi ngân sách nhà nước tăng lên. Ở giai đoạn

kinh tế phồn thịnh, thu của nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương
ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi ngân sách nhà nước. Mức bội chi do tác động của
chu kỳ kinh doanh gây ra được goi là bội chi chu kỳ. Mà bội chi do chu kỳ là do từng
tình hình của từng giai đoạn chu kì của nền kinh tế, như chúng ta biết thì nền kinh tế
mỗi nước luôn có mỗi chu kì phát triển kinh tế, chu kì này được thay đổi ở từng thời
điểm khác nhau, tùy vào từng thời điểm đó thì có mức phát triển khác nhau, “Chu kỳ
kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba
pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha
phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng
thịnh” và ở từng thời điểm đó chúng ta có sự biến động lên xuống của gdp dẫn đến thu
ngân sách cũng tăng giảm, khi thu giảm dễ dẫn đến bội chi. Khi chu kì kinh tế suy thoái
thì thu ngân sách sẽ cũng giảm do mức doanh lợi nền kinh tế cũng giảm dẫn đến bội chi.
3
Trong điều kiện bình thường không có chiến tranh, không có thiên tai lớn, tổng
hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách nhà nước. Bội chi trong
một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ
đó.
III.2. Các phương thức xử lý bội chi ngân sách nhà nước
Xử lý bội chi ngân sách nhà nước là một vấn đề nhạy cảm bởi nó không chỉ tác
động trước mắt tới nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang có những biến đổi lớn như: giá dầu tăng
cao, khủng hoảng tài chính ở Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra trên rất nhiều các quốc gia
trên thế giới đặt ra yêu cầu hạn chế lạm phát là rất cấp thiết không chỉ ở Việt Nam.
Trong đó, có nhiều cách để chính phủ bù đắp bội chi ngân sách nhà nước như tăng thuế,
phí, lệ phí, giảm chi ngân sách, vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài, phát hành thêm
tiền để bù đắp chi tiêu… việc sử dụng phương pháp nào phụ thuộc vào điều kiện kinh tế
và chính sách tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Cụ thể, các biện pháp cơ
bản mà chính phủ Việt Nam thực hiện để khắc phục bội chi ngân sách bao gồm:
III.2.1. Tăng thu giảm chi
Đây là biện pháp cơ bản nhất mà chính phủ thường dùng để giảm bội chi ngân

sách. Bằng quyền lực và nghĩa vụ của mình chính phr tính toán để tăng các khoản thu
và cắt giảm chi tiêu. Tăng thu và giảm chi là biện pháp truyền thống nhưng không phải
luôn thực hiện thành công. Vì ở đây xảy ra hai nghịch lý khó giải quyết đó là: Một là,
trong bối cảnh tỷ lệ tăng trưởng GDP chưa lớn sẽ ảnh hưởng vào khả năng đầu tư vào
tiêu dùng ở khu vực tư nhân bị hạn chế, tức là giảm động lực phát triển kinh tế. Hai là,
khả năng giảm chi cũng có một mức giới hạn nhất định, nếu giảm chi quá mức có thể
ảnh hưởng không tốt tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, vấn đề đặt ra chính
phủ phải có tính toán tăng thu giảm chi cho phù hợp để ít ảnh hưởng nhất tới sự phát
triển kinh tế.
Thứ nhất, tăng thu: Công tác thu ngân sách nhà nước phải đảm bảo mức động
viên vào ngân sách nhà nước hợp lý, tăng nhanh tỷ trọng nội địa trong tổng thu ngân
sách nhà nước, tập trung thu đúng, đủ, kịp thời theo các luật thuế nhằm động viên hợp
lý, khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển và đảm bảo nguồn lực thực hiện nhiệm
vụ quan trọng phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế, chủ động ứng
phó với các tác động của thị trường giá cả trong và ngoài nước; đồng thời đẩy mạnh
thực hiện cải cách thủ tục hành chính, hải quan và mở rộng cơ chế tự khai tự nộp tăng
trách nhiệm của người nộp thuế và cơ quan thu, tăng cường kiểm tra chống thất thu, nợ
đọng tạo môi trường thuận lợi, bình đẳng trong mọi doanh nghiệp của các thành phần
kinh tế. Có cơ chế khuyến khích các cấp tăng thu được hưởng hợp lý kết quả tăng thu so
4
với nhiệm vụ nhà nước giao theo quy định của pháp luật. Hiện nay, tình trạng nợ đọng
thuế chưa kiểm soát được chặt chẽ. Vì vậy, chính phủ cần phải có biện pháp kiên quyết
hơn trong việc kiểm soát nguồn thu từ thuế, có biện pháp kiểm soát hiệu quả sẽ góp
phần tăng thu ngân sách nhà nước như: đẩy mạnh giáo dục để nâng cao hiểu biết và tự
giác thực hiện nghĩa vụ thuế; đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý kịp thời
các trường hợp kê khai không đúng, không đủ số thuế phải nộp để tăng thu tiền thuế cho
ngân sách nhà nước.
Chính phủ cần phải cải thiện các nguồn thu ngân sách này tránh tình trạng ngân
sách phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn thu không bền vững (tới hơn 40%) từ dầu mỏ
và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện

chiếm 2% ngân sách nhà nước của Việt Nam, trong khi con số này ở trong các nền kinh
tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn
là một cách đảm bảo sự bền vững trong ngân sách nhà nước, đồng thời giúp nhà nước
thực hiện được các chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng vì quốc kế dân sinh.
Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và
giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi
NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực
của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, giảm chi: Triệt để tiết kiệm các khoản đã đầu tư công và chi thường
xuyên từ ngân sách nhà nước. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô
cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi ngân sách và xuất hiện lạm phát.
Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là đầu tư vào những dự án mang tính
chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt
những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm thậm chí là không đầu tư. Mặt
khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản thu đầu tư công, những khoản chi
thường xuyên của những cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi
này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
Một trong những giải pháp quan trọng được quốc hội thông qua là cơ cấu lại chi
ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên cho an sinh xã hội; tăng chi có trọng điểm cho
phát triển nông nghiệp, nông thôn và những vùng khó khăn, nhất là 61 huyện có tỷ lệ
nghèo cao. Quốc hội quyết định cần rà soát kỹ nguồn vốn nhà nước bố trí cho các dự án,
công trình thuộc trách nhiệm đầu tư của ngân sách nhà nước giao cho các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước thực hiên.Không bố trí vốn ngân sách nhà nước cho các dự án, công
5
trình không thuộc lĩnh vực ngân sách nhà nước đầu tư. Chính phủ Việt Nam vì được đặt
trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách tài khóa của chính phủ trong thời gian
vừa qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường
xuyên) và qua đó giảm tổng cầu. cụ thể chính phủ chỉ định:

- Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước.
- Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà
nước.
- Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp.
Tổng đầu tư nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước thông qua doanh nghiệp
nhà nước) luôn chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Vì vậy không nghi ngờ
gì nếu nhà nước có thể cắt giảm một số hạng mục đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu
tiên thấp thì sưc ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự vậy, lạm phát
cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi tiêu thường
xuyên (chiếm 56% tổng chi ngân sách năm 2007).
Mặc dù vậy, việc cắt giảm chi tiêu là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những
biện pháp cụ thể đến đâu còn chưa chắc chắn vì ít nhất có 4 lý do:
- Việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là khi
những dư án này đã được các cơ quan lập các quyết định, đã được đưa vào quy định của
các bộ, ngành địa phương, đã được triển khai và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết
thân của những cơ quan liên quan đến dự án.
- Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các doanh nghiệp
nhà nước một mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do
một số tập đoàn lớn đã tự thành lập ngân hàng riêng.
- Tốc độ lạm phát nhanh như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư công
theo đúng dự toán cũng được coi là một thành tích đáng kể.
- Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn nên
đây là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm. Hơn thế với thực tế ở Việt
Nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi
quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên), sau đó trừ đi các khoản phụ cấp
có tính chất lương, chi chính sách, chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc tế,
các khoản chi thường xuyên đã thực hiện…
6
Theo ước lượng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm
được khoảng 3000 tỷ đồng chi hội họp và mua sắm xe, tức là giảm được 0,8 tổng chi

ngân sách nhà nước.
III.2.2. Biện pháp vay nợ
Thứ nhất, vay nợ trong nước: Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốnền tài trợ cho
sự phát triển kinh tế quá lớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua
việc chúng ta chỉ vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm
quốc gia phục vụ lợi ích phát triển đất nước. Nhưng trên thực tế số tiền vay, phải đặc
biệt của nước ngoài chưa được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư dần dàn trải ở các địa
phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công nhưng dự án trongj điểm
quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả. Chính vì vậy, các khoản đầu tư phát triển lấy
nguồn vốn vay cả trong nước và ngoài nước cân đảm bảo các quy định của ngân sách
nhà nước và mức bội chi cho phép hàng năm do quốc hội quyết định.
Tập trung các khoản vay do trung ương đảm nhận các nhu cầu đầu tư của địa
phương cần được xem xét và bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực hiện như vậy phải
tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn quản lý chặt chẽ
số bội chi ngân sách nhà nước. Hiện nay chính ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa nhu
cầu vốn cho vay đầu tư với nguồn nhân lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt chặt, hạn chế
vay để đầu tư sẽ kìm hãm sự phát triển cảu nền kinh tế đang có nhu cầu vay vốn rất cao.
Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của ngân sách nhà nước,
nhất là vay vốn của ngân sách địa phương thì nguy cơ ảnh hưởng tới nền an ninh, tài
chính quốc gia, sự bền vững của ngân sách nhà nước. Thực hiện đầu tư tập trung cũng
có lợi là bảo đảm phát triển hài hòa, cân đối giữa các vùng miền trong toàn quốc. Khi
các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ kiên quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên
cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí
duy to, bảo dưỡng các công trình làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy, phải tự cân
đối nguồn kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách nhà nước.
Vay trong nước được chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái, trái phiếu.
Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước là một loại chứng
khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế xã
hội và các ngân hàng. Ở Việt Nam chính phủ thường ủy nhiệm cho kho bạc nhà nước
phát hành trái phiếu dưới các hình thức tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc và trái

phiếu công trình. Đây là biện pháp cho phép chính phủ có thể giảm bội chi ngân sách
mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm lưu trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này
được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát. Tuy vậy, việc khắc phục bội chi
ngân sách bằng nợ tuy không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp
7
lực lạm phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa, việc
vay từ dân trực tiếp sẽ làm giảm khả năng khu vực tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng
và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước. Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn
lạm phát cao (như nước ta hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh
chóng, làm cho chúng trở nên ít hấp dẫn. chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình
để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu. tuy nhiên, nếu việc làm
này kéo dài sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của chính phủ và khiến cho việc
huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau.
Thứ hai, vay nợ nước ngoài: Chính phủ có thể giảm bội chi ngân sách bằng các
nguồn vốn nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định
chế tài chính thế giới như ngân hàng (WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng phát
triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế…. Viện trợ nước
ngoài là nguồn vốn phát triển cả các chính phủ, các tổ chức nhằm thực hiện các chương
trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính
thức ODA. Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu
bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng…
Ưu điểm: nó là một biện pháp giảm bội chi ngân sách hữu hiệu, có thể bù đắp được
các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây cũng là một
nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội.
Nhược điểm: nó sẽ khiến chi gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả
năng chi tiêu cho chính phủ, đồng thời, nó cũng dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ
thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo
đó là nhiều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước ngoài đi
vay bị phụ thuộc nhiều.

III.2.3. Vay ngân hàng (in tiền)
Chính phủ khi bị thâm hụt ngân sách sẽ đi vay ngân hàng trung ương để bù đắp.
Đáp ứng nhu cầu này, tất nhiên, ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in tiền. Điều này sẽ
tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. Chính vì vậy, nó được gọi là tiền tệ hóa thâm hụt.
Ưu điểm: nhu cầu tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một cách
nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần.
Nhược điểm: lãi lớn hơn rất nhiều lần. việc in thêm và phát hành thêm tiền sẽ
khiến cho cung tiền vượt cầu tiền. Nó đẩy cho việc lạm phát trở nên không thể kiểm
soát nổi. Việt Nam từ năm 1988 trở về trước bội chi ngân sách được nhà nước bù đắp
8
chủ yếu bằng cách phát hành thêm tiền và lưu thông dẫn đến lạm phát rất cao, năm
1986 là 774,7%, năm 1987 là 223,1%, năm 1988 là 393,8%; nhưng từ năm 1991 mặc dù
bội chi ngân sách còn ở mức lớn, do bù đắp bằng các biện pháp tích cực khác nên lạm
phát đã giảm nhanh, và được kiểm soát ở mức độ con số cho đến nay.
Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít được sử dụng. Và từ năm 1992
nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
III.2.4. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước
Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách
kinh tế vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. để thực
hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ
mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết các mối quan
hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ tăng trưởng và công
bằng xã hội. Giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn môi trường… đặc biệt trong điều kiện
hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai
trò quản lý của nhà nước đối với ngân sách nhà nước nói chung và xử lý bội chi ngân
sách nói riêng là vô cùng cấp thiết.
III.2.5. Nhà nước phát hành thêm tiền
Việc xử lý bội chi NSNN có thể thông qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và
đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành
thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN

là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây “tăng trưởng nóng”
và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
IV. Thực tiễn về bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam và một
số giải pháp
IV.1. Thực tiễn về bội chi NSNN ở Việt Nam
IV.1.1. Giai đoạn 1986 - 1990
Từ năm 2001 trở lại đây, bội chi ngân sách vẫn diễn ra thường xuyên nhưng mức
bội chi đã có những thành tựu đáng mừng so với những năm 80 của thế kỷ trước.
Đây là giai đoạn có mức bội chi ngân sách cao do tình hình ngân sách còn yếu
kém, mức chi tiêu nhiều hơn so với mức thu vào lại thêm việc các nước Đông Âu và
Liên Xô cắt giảm các nguồn viện trợ làm tình hình bội chi càng trầm trọng. Chính phủ
9
đã phải giải quyết bội chi không chỉ bằng nguồn tiền đi vay nợ của nước ngoài mà còn
bằng cả cách phát hành tiền dẫn đến tình trạng lạm phát cao. Trong thời gian 5 năm
1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt này được hệ thống Ngân hàng thanh toán bằng cách
phát hành tiền. Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước
ngoài (so với bội chi, khoản vay và viện trợ năm 1984 là 71,3%, năm 1985 là 40,8%,
năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm 1989: 24,9%, năm 1990 là
46,7%) và một số nhỏ do các khoản thu từ bán công trái trong nước.
IV.1.2. Giai đoạn 1991 - 1995
Mức bội chi ngân sách đã giảm xuống do những điều chỉnh tích cự theo hướng thắt
chặt chi tiêu của chính phủ. Trong những năm này, số thâm hụt NSNN đã giảm dần qua
từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài, tỷ lệ bội chi NSNN so
với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2%
và năm 1995 là 4,17%).
IV.1.3. Giai đoạn 1996 - 2000
Tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển biến tích cực: nguồn thu đã đáp ứng
được nhu cầu chi tiêu thường xuyên của chính phủ và co chi đầu tư cho phát triển, thâm
hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, do tác động của khủng hoảng tài
chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng

trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000, tốc độ này mới
tăng lên chút ít. Tỉ lệ động viên GDP vào NSNN nếu năm 1992 mới đạt 17%, thì bình
quân thời kỳ 1996-2000 đã đạt 19,6. Tỷ lệ bội chi NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm
1996 lên 4,95% GDP năm 2000. Tỷ lệ bội chi bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn
mức bình quân năm 1991- 1995 (2,63%). Năm 2000 có mức bội chi cao nhất là 4,95%
GDP và năm 1998 có mức bội chi thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu
phát, nên mức bội chi NSNN như trên không tác động gây ra lạm phát mà có tác động
làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn đi lên.
IV.1.4. Giai đoạn từ năm 2001 - nay
Mức bội chi ngân sách nhà nước đã có những biến chuyển tích cực do sự tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ và công tác thu có những thành tựu đáng kể . Tốc độ tăng thu
hằng năm bình quân là 18,8%. Trong đó, thu từ dầu thô tăng bình quân hàng năm 18,7%
và chiếm tỷ trọng gần một phần tư tổng thu ngân sách Nhà nước, chủ yếu do những năm
vừa qua giá dầu thô tăng mạnh, nhất là trong năm 2005. Thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu đưa vào cân đối ngân sách tăng bình quân 14,7%/năm và chiếm tỷ trọng 20,9%.
Thuế đã được xem xét đúng với vai trò cơ bản củ nó trong cơ chế thị trường là tạo
nguồn thu cho ngân sách, kích thích tăng trưởng, điều chỉnh và phân phối lại thu nhập.
Hệ thống thuế đã và dang được cải cách theo hướng mở rộng cơ sở thu thuế, tăng tỉ lệ
10
động viên từ thuế so với GDP, đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, các sắc thuế có nội dung rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra và không
trùng lắp, nhiều sắc lệnh thuế mới ban hành phù hợp với điều kiên nước ta và thông lệ
quốc tế (thuế thu nhập, thuế đất đai, thuế tài nguyên). Chi tiêu ngân sách hàng năm đã
được Quốc hội thảo luận và thông qua trong các phiên họp của mình, thể hiện rõ định
hướng của nhà nước trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Chi ngân sách đã được
thực hiên theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả nhằm nâng dần phần tích lũy của ngân
sách cho đầu tư phát triển. Khoản chi thường xuyên của ngân sách thường được khống
chế tối đa trong khuôn khổ khả năng thu ngân sách. Mỗi khoản chi được xác định trên
cơ sở phân định rõ đối tượng và mục đích cụ thể. Tốc độ tăng chi thường xuyên được
khống chế thấp hơn tốc độ tăng chi cho phát triển Tổng chi NSNN trong 5 năm 2001 -

2005 tăng 18,6% so với mục tiêu. Trong đó, tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển là khoảng
29,2% (đạt 8,2% GDP); chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo tăng từ 15% (năm 2000)
lên 19% (năm 2005); chi khoa học - công nghệ đạt 2% (chi cho 2 lĩnh vực này tăng gần
5 lần so với giai đoạn 1996 - 2000); chi cho y tế và kinh phí thực hiện chính sách đối
với người có công, gia đình chính sách, thực hiện nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo tăng
trên 2,5 lần… Do đó bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức
5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Bội chi NSNN năm 2010 bằng 5,8%
GDP, giảm 0,4% so với mục chỉ tiêu của Nghị quyết Quốc hội là 6,2% GDP.Bộ tài
chính cho biết năm 2010 các công cụ thuế, phí, lệ phí… đối với hàng hóa xuất, nhập
khẩu đã được sử dụng linh hoạt để đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, khuyến
khích sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước để hạn chế nhập siêu.
Như vậy, sự ra đời của Luật NSNN đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong
phương pháp điều hành tài khóa, giúp cải thiện rất lớn tình hình ngân sách những năm
qua. Nhưng do đối mặt với những khó khăn về nguồn thu, tiềm lực tài chính, tâm lý lo
ngại nguy cơ giá cả tăng vọt không kiểm soát được, tình trạng lãng phí, chính sách tài
khóa đã được điều hành theo hướng giảm áp lực lạm phát, ngân sách được điều hành
theo chủ trương thắt chặt chi tiêu tiến hành tiết kiệm, cắt giảm chi thường xuyên. Việc
duy trì được mức bội chi ngân sách 5% so với GDP trong thời gian vừa qua có thể coi là
thành tựu lớn trong điều hành kinh tế vĩ mô vì vẫn thúc đẩy nền kinh tế tăng tưởng
tương đối ổn định. Nhưng bên cạnh đó, đã xuất hiện nhiều bất cập trong tình hình thu
chi ngân sách như:
Theo đánh giá của các chuyên gia, do phải kích cầu đầu tư nên ngân sách nhà nước
đã chi một lượng tiền lớn ra lưu thông nên tốc độ tăng bội chi NSNN là khá cao, ở mức
17- 18%. Kết quả là đưa đến kích thích tiêu dùng quá lớn thì ở chu kỳ sau sẽ tăng tỷ lệ
lạm phát mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư và hệ quả tất yếu là giảm mục tiêu tăng
trưởng.
11
- Trong khi mức bội chi ngân sách vẫn cao thì mức thu của ngân sách nhà nước lại
giảm xuống. Từ khi mở cửa hội nhập, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, nhất là
nhập lậu, trốn thuế gia tăng cả về quy mô, hình thức, phương tiện…

- Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là thuế nhưng trong những năm vừa
qua, trong tổng thu ngân sách, thu từ dầu thô và thuế xuất nhập khẩu chiếm tỉ trọng khá
lớn. Đó là những khoản thu không trực tiếp phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong nước, trái lại nó thể hiện tính chưa bền vững và sự phụ thuộc của các nguồn thu
NSNN nước ta.
IV.2. Giải pháp để giải quyết vấn đề bội chi ngân sách ở Việt Nam
Để giải quyết tổng thể vấn đề bội chi NSNN ở Việt Nam theo nhóm cần thiết phải
có những quy định chặt chẽ hơn, theo đó có thể áp dụng các giải pháp sau:
- Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư của địa
phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực hiện như
vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn và quản lý
chặt chẽ số bội chi NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu
vốn cho đầu tư phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Thực hiện đầu tư tập trung cũng có lợi
là bảo đảm phát triển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền trong toàn quốc.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, nhất là
ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư, sẽ kiên quyết
không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành
và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu
quả đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân đối nguồn kinh phí này chứ không
thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách.
- Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám sát chặt chẽ
việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển các
cơ sở kinh tế. Các khoản vay của ngân sách địa phương cần được tổng hợp và báo cáo
Quốc hội để tổng hợp số bội chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của các địa phương
không được kiểm soát chặt chẽ chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan, đầu tư
kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong tương lai. Bội chi
NSNN hằng năm không được kiểm soát chặt chẽ trước khi trình Quốc hội, mức bội chi
thực tế khác với mức bội chi báo cáo cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng nợ cho
NSNN, bởi NSNN là một thể thống nhất và đa số các địa phương trông chờ chủ yếu vào
ngân sách trung ương, do vậy suy cho cùng, các khoản nợ của ngân sách địa phương sẽ

là gánh nợ của NSNN trong khi việc đầu tư lại dàn trải, kém hiệu quả.
12

×