Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Tiêu luận môn ngân sách nhà nước thực trạng bội chi ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.6 KB, 42 trang )

Luật Ngân Sách Nhà Nước
I/ Tổng quan về bội chi ngân sách nhà nước và thực trạng bội chi ngân sách nhà
nước ở Việt Nam.
1/ Tổng quan về bội chi ngân sách nhà nước.
1.1/ Bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là gì?
Bội chi NSNN trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch giữa chi
lớn hơn thu của thời kỳ đó. Nhưng thu gồm những khoản nào, chi gồm những khoản gì?
Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về NSNN hằng năm như sau:
Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm
Thu Chi
A. Thu thường xuyên (thuế,
phí, lệ phí).
B. Thu về vốn (bán tài sản
nhà nước).
C. Bù đắp thâm hụt.
– Viện trợ.
– Lấy từ nguồn dự trữ.
Vay thuần (= vay mới – trả nợ
gốc).
D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.
F. Cho vay thuần
(= cho vay mới – thu nợ gốc).
A + B +C = D + E + F
Công thức tính bội chi NSNN của một năm sẽ như sau:
Bội chi NSNN = Tổng chi – Tổng thu = (D + E + F) – (A + B) = C
1.2/ Nguyên nhân dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước:
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng làm
cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những
khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. ở giai


- 1 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng
tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ
kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
- Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà
nước. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm
tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của
Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ
cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn,…), tổng
hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNN.
1.3 Tác động của bội chi ngân sách nhà nước đến nền kinh tế.
Bội chi ngân sách xảy ra khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu ngân sách huy
động được. Ngược lại, khi chi ngân sách nhỏ hơn số thu ngân sách thì có bội thu ngân
sách (hay thặng dư ngân sách). Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách
quan trọng của Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng
của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì Chính phủ có thể tăng mức chi
ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách
không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối
với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các
nước đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ
sở hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước Nhiều nước phát triển và đang phát
triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách.
Tác động của bội chi ngân sách nhà nước đến nền kinh tế là rất lớn. Có thể ví bội
chi ngân sách như con dao hai lưỡi, quan trọng là “người cầm dao” sử dụng nó như thế
nào? Nếu bội chi ngân sách hợp lí sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đáp ứng được sự
thiếu hụt nguồn vốn đối với các dự án quan trọng. Tuy nhiên nếu không thực hiện tốt,
điều tiết kịp thời thì bội chi ngân sách là một trong những nguyên nhân chính gây khủng
hoảng nền kinh tế, gây lên lạm phát, nợ quốc gia.

- 2 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
1.4/ Sự khác biệt giữa bội chi ngân sách và tạm thời thiếu hụt ngân sách nhà nước
Bội chi ngân sách Tạm thời thiếu hụt ngân sách nhà nước
- Khoản 1 điều 4 NĐ 60 ngày 06/06/2003
hướng dẫn thi hành Luật NSNN quy định:
“Bội chi NSNN là bội chi ngân sách trung
ương được xác định bằng chênh lệch thiếu
giữa tổng số chi NS trung ương và tổng thu
NS trung ương của năm ngân sách”.
- Được lên kế hoạch trước.
- Diễn ra ở cấp NS trung ương
- Không có nguồn thu để bù đắp
- Sự tác động đến nền kinh tế là rất lớn.
- Phương pháp giải quyết được sử dụng chủ
yếu hiện nay là vay tiền (sẽ được phân tích cụ
thể ở chương II)
- Là thuật ngữ để chỉ tình trạng mà ở thời
điểm nhất thời ngân sách nhà nước cần tiền
chi nhưng không có tiền.
- Không được lên kế hoạch và không biết
trước.
- Diễn ra ở cấp ngân sách trung ương và địa
phương.
- Có nguồn thu để bù đắp.
- Không ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
- Giải quyết bằng tạm ứng ngân hàng nhà
nước (khoản 2 điều 23 luật NSNN và khoản
3 điều 58 NĐ 60)
2/Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam.

2.1/ Giai đoạn 1986- 1990.
Từ năm 2001 trở lại đây, bội chi ngân sách vẫn diễn ra thường xuyên nhưng mức
bội chi đã có những thành tựu đáng mừng so với những năm 80 của thế kỷ trước.
Đây là giai đoạn có mức bội chi ngân sách cao do tình hình ngân sách còn yếu kém,
mức chi tiêu nhiều hơn so với mức thu vào lại thêm việc các nước Đông Âu và Liên Xô
- 3 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
cắt giảm các nguồn viện trợ làm tình hình bội chi càng trầm trọng. Chính phủ đã phải giải
quyết bội chi không chỉ bằng nguồn tiền đi vay nợ của nước ngoài mà còn bằng cả cách
phát hành tiền dẫn đến tình trạng lạm phát cao. Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990,
59,7% mức thâm hụt này được hệ thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền.
Bảng 1
Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước ngoài (so với
bội chi, khoản vay và viện trợ năm 1984 là 71,3%, năm 1985 là 40,8%, năm 1986:
38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm 1989: 24,9%, năm 1990 là 46,7%) và
một số nhỏ do các khoản thu từ bán công trái trong nước.
2.2/ Giai đoạn 1991- 1995.
Mức bội chi ngân sách đã giảm xuống do những điều chỉnh tích cự theo hướng thắt
chặt chi tiêu của chính phủ. Trong những năm này, số thâm hụt NSNN đã giảm dần qua
từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài, tỷ lệ bội chi NSNN so
với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2%
và năm 1995 là 4,17%).
2.3 Giai đoạn 1996-2000.
Tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển biến tích cực: nguồn thu đã đáp ứng
được nhu cầu chi tiêu thường xuyên của chính phủ và co chi đầu tư cho phát triển, thâm
hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, do tác động của khủng hoảng tài
chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm2000, tốc độ này mới
tăng lên chút ít. Tỉ lệ động viên GDP vào NSNN nếu năm 1992 mới đạt 17%, thì bình
- 4 -

Luật Ngân Sách Nhà Nước
quân thời kỳ 1996-2000 đã đạt 19,6. Tỷ lệ bội chi NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm 1996
lên 4,95% GDP năm 2000.
Bảng 2
Tỷ lệ bội chi bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm 1991-
1995 (2,63%). Năm 2000 có mức bội chi cao nhất là 4,95% GDP và năm 1998 có mức
bội chi thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu phát, nên mức bội chi
NSNN như trên không tác động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế
chuyển sang giai đoạn đi lên.
2.4 Giai đoạn từ năm 2001 – Nay.
Mức bội chi ngân sách nhà nước đã có những biến chuyển tích cực do sự tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ và công tác thu có những thành tựu đáng kể . Tốc độ tăng thu
hằng năm bình quân là 18,8%. Trong đó, thu từ dầu thô tăng bình quân hàng năm 18,7%
và chiếm tỷ trọng gần một phần tư tổng thu ngân sách Nhà nước, chủ yếu do những năm
vừa qua giá dầu thô tăng mạnh, nhất là trong năm 2005. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
đưa vào cân đối ngân sách tăng bình quân 14,7%/năm và chiếm tỷ trọng 20,9%. Thuế đã
được xem xét đúng với vai trò cơ bản củ nó trong cơ chế thị trường là tạo nguồn thu cho
ngân sách, kích thích tăng trưởng, điều chỉnh và phân phối lại thu nhập. Hệ thống thuế đã
và dang được cải cách theo hướng mở rộng cơ sở thu thuế, tăng tỉ lệ động viên từ thuế so
với GDP, đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các sắc thuế có nội
dung rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra và không trùng lắp, nhiều sắc lệnh
thuế mới ban hành phù hợp với điều kiên nước ta và thông lệ quốc tế (thuế thu nhập, thuế
đất đai, thuế tài nguyên). Chi tiêu ngân sách hàng năm đã được Quốc hội thảo luận và
thông qua trong các phiên họp của mình, thể hiện rõ định hướng của nhà nước trong kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội. Chi ngân sách đã được thực hiên theo nguyên tắc tiết
kiệm, hiệu quả nhằm nâng dần phần tích lũy của ngân sách cho đầu tư phát triển. Khoản
- 5 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
chi thường xuyên của ngân sách thường được khống chế tối đa trong khuôn khổ khả năng
thu ngân sách. Mỗi khoản chi được xác định trên cơ sở phân định rõ đối tượng và mục

đích cụ thể. Tốc độ tăng chi thường xuyên được khống chế thấp hơn tốc độ tăng chi cho
phát triển Tổng chi NSNN trong 5 năm 2001 - 2005 tăng 18,6% so với mục tiêu. Trong
đó, tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển là khoảng 29,2% (đạt 8,2% GDP); chi ngân sách
cho giáo dục - đào tạo tăng từ 15% (năm
2000) lên 19% (năm 2005); chi khoa học - công nghệ đạt 2% (chi cho 2 lĩnh vực này tăng
gần 5 lần so với giai đoạn 1996 - 2000); chi cho y tế và kinh phí thực hiện chính sách đối
với người có công, gia đình chính sách, thực hiện nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo tăng trên
2,5 lần… Do đó bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5%
GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP.
Tuy nhiên, nếu xét về tỉ lệ bội chi ngân sách so với GDP giai đoạn năm 1991- 1995,
mức bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996-2000 ở mức
3,87% so với GDP thì có thể thấy tỉ lệ trong giai đoạn này đang ở mức cao (khoảng 5%
so với GDP).
Nếu xét trong cả giai đoạn từ năm 1996 tới nay thì mức bội chi NSNN cũng không
ngừng tăng lên. Đặc biệt, trong 8 năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội chi
NSNN là khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng trưởng thì còn
cao hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm 2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%;
năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%). Sự tăng lên của
bội chi ngân sách là do nhà nước đầu tư một lượng lớn vào các công trình xây dựng cơ
bản như giao thông vận tải thông qua phát hành trái phiếu chính phủ, phát hành lượng lớn
- 6 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp học.
Nếu tính những khoản này vào cân đối ngân sách nhà nước thì mức bội chi những năm
qua sẽ khoảng 5%- 6,2% GDP.
Bội chi NSNN so với GDP (2001-2007)
Năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong khi tỉ lệ
tăng trưởng của Việt Nam chỉ đạt 6,23% thì tỉ lệ lạm phát lên tới 23%,tỉ lệ bội chi ngân
sách vẫn ở mức cao 8% GDP. Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2008 tăng 22,3% so với
năm 2007 và bằng 118,9% dự toán năm. Trong đó, chi đầu tư phát triển và chi thường

xuyên vượt dự toán tương ứng ở mức 118,3% và 113,3%.Trong 9 tháng đầu năm 2009,
tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 274,4 nghìn tỷ đồng, trong khi tổng chi ước tính là
330,2 nghìn tỷ đồng. Như vậy, nguồn thu của ngân sách nhà nước đã bị ảnh hưởng do
ảnh hưởng của những chính sách thực hiện miễn, giảm, giãn thuế để khuyến khích các
doanh nghiệp sản xuất, do giá dầu thô trên thế giới giảm xuống trong những tháng đầu
năm trong khi yêu cầu chi cho các chương trình của chính phủ vẫn lớn: so với mức dự
toán thì chi đầu tư phát triển bằng 67,2% (riêng chỉ đầu tư xây dựng cơ bản là 66%), chi
phát triển sự nghiệp kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng, quản lý Nhà nước, đoàn thể
bằng 69,6%, chi trả nợ và viện trợ bằng 70,7%. Theo ý kiến của các đại biểu Quốc hội
trong phiên họp ngày 26/05/2009, trong năm nay,mức bội chi ngân sách cần thực hiện
dưới mức 8% để đảm bảo được an ninh tài chính quốc gia và kiềm chế nguy cơ lạm phát
lại xảy ra. Đây là bài toán khó cho chính phủ để có thể phục hồi nhanh nền kinh tế sau
khủng hoảng.
3. Kết luận.
- 7 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
Như vậy, sự ra đời của Luật NSNN năm 1996 đã đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong phương pháp điều hành tài khóa, giúp cải thiện rất lớn tình hình ngân sách
những năm qua. Liên tiếp từ năm 1999 đến nay, bội chi ngân sách tính trên GDP tăng
liên tục, (năm 1999 là 4,9% thì năm 2000 là 5%), điều này cũng cho thấy chính sách nới
lỏng tài khóa đã được thực hiện. Do đối mặt với những khó khăn về nguồn thu, tiềm lực
tài chính, tâm lý lo ngại nguy cơ giá cả tăng vọt không kiểm soát được, tình trạng lãng
phí, chính sách tài khóa đã được điều hành theo hướng giảm áp lực lạm phát, ngân sách
được điều hành theo chủ trương thắt chặt chi tiêu tiến hành tiết kiệm, cắt giảm chi thường
xuyên. Việc duy trì được mức bội chi ngân sách 5% so với GDP trong thời gian vừa qua
có thể coi là thành tựu lớn trong điều hành kinh tế vĩ mô vì vẫn thúc đẩy nền kinh tế tăng
tưởng tương đối ổn định. Nhưng bên cạnh đó, đã xuất hiện nhiều bất cập trong tình hình thu chi
ngân sách:
Theo đánh giá của các chuyên gia, từ năm 2001 tới đây, do phải kích cầu đầu tư nên
ngân sách nhà nước (NSNN) đã chi một lượng tiền lớn ra lưu thông nên tốc độ tăng bội

chi NSNN là khá cao, ở mức 17- 18%. Theo lý thuyết về tổng cầu của nhà kinh tế học
Keyness, tăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng sẽ kích thích đầu
tư phát triển, góp phần đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu tăng chi quá mức cho
phép, tức là tăng chi đến mức làm cho thâm hụt ngân sách nhà nước ở mức cao và để bù
đắp thâm hụt này, Chính phủ sẽ phải huy động từ nguồn vay trong nước và vay nợ nước
ngoài làm cho việc trả nợ hàng năm lên đến trên dưới 15% tổng chi ngân sách.
- 8 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
Kết quả là đưa đến kích thích tiêu dùng quá lớn thì ở chu kỳ sau sẽ tăng tỷ lệ lạm
phát mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư và hệ quả tất yếu là giảm mục tiêu tăng trưởng.
Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN
chiếm khoảng 1/3 số thâm hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả
phần vay về cho vay lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bù đắp thâm
hụt NSNN khoảng 2%-2,5% GDP. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra tinh hình
lam phát cao trong năm 2007 (12,7%) và năm 2008 (23%). Qua đồ thị dưới đây cho thấy,
chi NSNN đã tăng từ 27% GDP năm 2001 lên 40,4% năm 2007 là một con số khá lớn
trong chi tiêu của Chính phủ.
- Theo chuyên gia tư vấn quốc tế Jitendra Modi, mức bội chi ngân sách của Việt
Nam năm 2007 nếu tính theo thông lệ quốc tế phải là 6,9% GDP, thay vì con số xấp xỉ
5% GDP như báo cáo của Chính phủ trước QH. Việc chênh lệch gần 2% trong kết quả
cũng đưa đến con số tuyệt đối là hàng nghìn tỷ đồng trong bội chi ngân sách. Như vậy,
nếu tính bội chi ngân sách theo thông lệ của IMF thì Việt Nam cần bổ sung thêm một số
nội dung vào tính bội chi ngân sách: Đầu tư vốn theo nguồn hỗ trợ phát triển chính thức
ODA; Các hoạt động đầu tư do ngân hàng phát triển Việt Nam hỗ trợ; Cho vay bằng hình
thức trái phiếu ưu đãi và chi đầu tư ngoài ngân sách- đây các khoản chi lớn không được
đưa vào cân đối ngân sách hàng năm. Vụ trưởng Vụ Tài chính- Tiền tệ, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư – Ông Lê Quốc Lý khẳng định: nếu cộng lượng vốn lớn được đầu tư ra các công
trình giao thông và thủy lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và lượng
công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hóa trường học (hai
lượng tiền lớn không cân đối vào NSNN), thì bội chi NSNN trong những năm qua không

phải chỉ là 5% GDP.
- Trong khi mức bội chi ngân sách vẫn cao thì mức thu của ngân sách nhà nước lại
giảm xuống. Từ khi mở cửa hội nhập, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, nhất là
nhập lậu, trốn thuế gia tăng cả về quy mô, hình thức, phương tiện. Điều quan ngại là tình
trạng này lại có sự tiếp tay, bảo kê của những kẻ thoái hoá, biến chất trong khu vực nhà
nước. Kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế còn ở mức thấp: trong 3 nhân tố đóng
góp vào tốc độ tăng trưởng kinh tế thì vốn chiếm tới 52,7%, lao động chiếm 19,1%, còn
năng suất - nhân tố tổng hợp (TEP), nhân tố chất lượng - chỉ chiếm 28,2%, thấp xa so với
tỉ trọng trên dưới 40% của các nước trong khu vực.
- 9 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
- Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là thuế nhưng trong những năm vừa
qua, trong tổng thu ngân sách, thu từ dầu thô và thuế xuất nhập khẩu chiếm tỉ trọng khá
lớn: thu từ dầu thô năm 2006 chiếm 29,82% và năm 2007 chiếm 24,37%; thu từ thuế
quan năm 2006 chiếm 15,32% thì năm 2007 tăng lên 19,11%. Thu ngân sách 2008 dù ượt
dự toán 76.000 tỷ đồng, nhưng có 35.400 tỷ đồng vượt dự toán là do giá dầu thô trên thị
trường thế giới tăng 41 USD/thùng so với giá tính dự toán; thu XNK tăng 23.500 tỷ đồng
(tăng 34,6% so dự toán), thu từ đất tăng 5.500 tỷ đồng (tăng 33,3% so dự toán. Đó là
những khoản thu không trực tiếp phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nước, trái
lại nó thể hiện tính chưa bền vững và sự phụ thuộc của các nguồn thu NSNN nước ta.
Thu từ dầu thô không chỉ phụ thuộc vào trữ lượng, sản lượng khai thác, mà còn phụ
thuộc khá lớn vào giá cả dầu mỏ trên thị trường thế giới. Trong tiến trình hội nhập, yêu
cầu giảm mức thuế quan xuống 0-5% là yêu cầu tất yếu với Việt Nam, cũng nghĩa là
nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ đây cũng sẽ giảm xuống. Theo một nghiên cứu của
Viện Khoa học Tài chính, thu ngân sách Nhà nước trong năm 2009 này sẽ giảm khoảng
53.314 tỷ đồng do suy giảm từ ba nguồn thu quan trọng là thu nội địa (giảm 29.654 tỷ
đồng), thu dầu thô (giảm 12.740 tỷ đồng), và thu xuất nhập khẩu (giảm 10.920 tỷ đồng).
Những phân tích trên cho thấy thu ngân sách còn chứa đựng nhiều yếu tố đột biến, không
ổn định.
II/ Xử lí bội chi ngân sách nhà nước dưới góc độ của luật ngân sách nhà nước 2002

Xử lý bội chi ngân sách nhà nước là một vấn đề nhạy cảm , bởi nó không chỉ tác
động trước mắt tới nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc
gia .Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như : giá dầu tăng cao
.khủng hoảng tái chính tại mỹ ,tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới,vấn đề
kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở việt nam .Vậy xử lý bội chi ngan
sách như thế nào đẻ ỏn định vĩ mô ,thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát
triển kinh tế -xã hội ,tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay ?
Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường lam các nhà chính trị gia đau đầu giữa một bên
là phát triển bền vững ,duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có
hạn .Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự
- 10 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
phát triển trong tương lai .Từ sự lưa chọn đó họ đưa ra mức bọi chi hợp lý ,bảo đảm nhu
cầu tài trợ cho tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế ,đòng thời bảo đảm cho nợ quốc gia
ở mức hợp lý .Bội chi ngân sách nhà nước được hiểu một cách chung nhất là là sự vượt
trọi về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt ngân sách do sự cố ý
của chính phủ tạo ra nhằm thực hiên chính sách kinh tế vĩ mô . Có nhiều cách để chính
phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế ,phí ,lệ phí ; giảm chi ngân sách ;vay
nợ trong nước ,vay nợ nước ngoài ;phát hành thêm tiền để phù đắp chi tiêu ;…Sử dụng
phương pháp nào ,nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài
chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia .
Bội chi ngân sách tác động đến nền kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào các giải
pháp nhằm bù đắp bội chi ngân sách .Mỗi giải pháp bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân
đối kinh tế vĩ mô .Chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu một số giải pháp cơ bản mà chính phủ
Viêt Nam sử dụng để kiềm chế bội chi ngân sách hiên nay .
Theo điều 4 Nghị định 60/2003/NĐ-CP , quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật NSNN năm 2002 thì bội chi NSNN là bội chi NSTW được xác định bằng chêch lệch
thiếu giữa NSTW và tổng số thu NSTW của năm ngân sách .Điều đó cho thấy vấn đề thu
chi nó ảnh hưởng rất lớn đến cán cân NSNN ,nếu thu chi không hợp lí sẽ dễ dẫn đến bội
chi NSNN. Vì vậy ,Chính Phủ đã có những kế hoạch điều chỉnh vấn đề này như sau:

1. Tăng thu giảm chi.
Đây là biện pháp cơ bản nhất mà chính phủ thường dùng để giảm bội chi ngân sách
.Bằng quyền lực và nghĩa vụ của mình chính phủ tính toán để lập dự toán thu chi NSNN
nhằm tăng các khoản thu và cắt giảm những khoản chi không hợp lý.
Tăng thu và giảm chi là biện pháp cổ tryền nhưng không phải bao giờ cũng thực
hiện thành công được bởi vì ở đây xả ra hai nghịch lí khó giải quyết .
Một là: trong bối cảnh tỉ lệ tăng trưởng GDP chưa lớn sẽ ảnh hưởng đến khả năng
đầu tư vào tiêu dùng ở khu vực tư nhân bị hạn chế ,tức giảm động lực phát triển kinh tế .
- 11 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
Hai là: khả năng giảm chi cũng có giới hạn nhất định ,nếu giảm chi vượt quá giới
hạn thì cũng ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển xã hội.
Chính vì thế vấn đề đặt ra là chính phủ phải tính toán phí tăng thu và giảm chi
như thế nào để gây ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế.
1.1 Tăng thu
Công tác thu ngân sách nhà nước phải đảm bảo mức động viên vào ngân sách nhà
nước sao cho hợp lý , làm tăng nhanh tỉ trọng nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước ,
tập trung thực hiện thu đúng,đủ ,kịp thời theo các luật thuế nhằm động viên hợp lý ,khuyến
khích sản xuất kinh doanh phát triển và đảm bảo nguồn lực , để thực hiện nhiệm vụ quan
trọng phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế ,chủ động ứng phó với các
tác động của thị trường giá cả trong và ngoài nước ;đồng thời đẩy mạnh thực hiện cải cách
thủ tục hành chính ,hải quan và mổ rộng cơ chế tự khai tự nộp tăng trách nhiệm người nộp
thuế và cơ quan thu ;tăng cường kiểm tra chống thất thu ,nợ đọng tạo môi trường thuận lợi
bình đẳng trong mọi doanh nghiệp của các thành phần kinh tế .Có cơ chế khuyến khích
các cấp tăng thu được hưởng hợp lý kết quả tăng thu so với nhiệm vụ nhà nước giao theo
quy định pháp luật .Hiện nay tình trạng nợ đọng thuế chưa được kiểm soát chặt chẽ .Vì
vậy chính phủ cần phải có giải pháp kiên quyết hơn trong việc kiểm soát nguồn thu từ thuế
,có biện pháp kiểm soát hiệu quả thì sẽ góp phần tăng thu ngân sách nhà nước như :Đẩy
mạnh tuyên truyền giáo dục để nâng cao hiểu biết và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế ;đẩy
mạnh kiểm tra ,thanh tra phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp kê khai không đúng

,không đủ số thuế phải nộp để tăng thu tiền thuế cho ngân sách nhà nước
Chính phủ cũng cần phải cải thiện các nguồn thu ngân sách này tránh tình trạng
ngân sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn 40% vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ
và thuế nhập khẩu như hiện nay ) Cải cách thuế ,đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện
chiếm 2% ngân sách nhà nước của Việt Nam, trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện
đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một
cách đảm bảo sự bền vững trong ngân sách nhà nước, đồng thời giúp nhà nước thực hiện
được các chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng vì quốc tế nhân sinh.
- 12 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
Chính phủ điều chỉnh tăng mức thuế xuất, thuế nhập bằng trần tối đa theo cam kết
trong WTO của năm 2008 đối với các hàng hóa tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu (
ô tô nguyên chiếc, linh kiện và phụ tùng mô tô, một số mặt hàng điện tử điện lạnh…) ;
điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm mặt hang thiết thực phục vụ sản xuất
(một số mặt hàng sản xuất thức ăn chăn nuôi, giấy in báo…) để góp phần bình ổn giá điều
chỉnh tăng thuế xuất khẩu đối với hang hóa là tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản (dầu
thô,than đá, quặng kim loại…) điều chỉnh tăng lệ phí trước bạ đối với ô tô con nguyên
chiếc dưới 10 chỗ ngồi; thực hiện biện pháp kéo dài, giãn thời hạn nộp thuế và giảm thuế
đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, hoạt động chế biến và xuất khẩu, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp vượt qua khó khăn do giá đầu vào tăng cao, duy trì và tăng sản xuất xuất
khẩu.
1.2 Giảm chi
Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ ngân sách nhà
nước . Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế ,nhưng vô cùng quan trọng với mỗi
quốc gia khi sảy ra bội chi ngân sách và xuất hiện lạm phát .triệt để tiết kiệm các khoản
đầu tư công có nghĩa là chi đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo , hiệu quả nhằm tạo
ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế _xã hội ,đặc biệt những dự án chưa hoặc không
hiệu quả thì phải cắt giảm ,thậm chí không đầu tư .Mặt khác bên cạnh việc triệt để tiết
kiệm các khoản thu đầu tư công ,những khoản chi thường xuyên của nhưng cơ quan nhà
nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần

thiết
Một trong những giải pháp quan trọng được quốc hội thông qua là cơ cấu lại chi
ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên cho an sinh xã hội; tăng chi có trọng điểm cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn và những vùng khó khăn, nhất là 61 huyện có tỉ lệ nghèo cao.
Quốc hội quyết định: cần rà soát kĩ nguồn vốn nhà nước bố trí cho các dự án,
công trình thuộc trách nhiệm đầu tư của ngân sách nhà nước sao cho các tập đoàn, tổng
- 13 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
công ty nhà nước thực hiện. Không bố trí vốn ngân sách nhà nước cho các dự án công
trình không thuộc lĩnh vực ngân sách nhà nước đầu tư.
Chính phủ Việt Nam vì được đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách tài
khóa của chính phủ trong thời gian vừa qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công
(gồm đầu tư công và chi thường xuyên ) và qua đó giảm tổng cầu .Cụ thể chính phủ chỉ
định :
- Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước
-Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước
-Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp
Tổng đầu tư nhà nước (từ ngân sách ,tín dụng nhà nước thông qua doanh nghiệp
nhà nước) luôn chiếm trên 50% tổng đầu tư của toàn xã hội .Vì vậy không nghi ngờ gì ,nếu
nhà nước có thể cắt giảm một số hạng mục đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp
thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ nhẹ đi .Cũng tương tự vậy ,lạm phát cũng sẽ
được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi tiêu thường xuyên (chiếm
56% tổng chi ngân sách năm 2007)
Mặc dù việc cắt giảm chi tiêu là hoàn toàn đúng đắn , song hiệu lực của những
biện pháp cụ thể đến đâu còn chưa chắc chắn vì ít nhất có 4 lý do :
-Thứ nhất việc cắt giảm ,thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng , nhất là khi
những dự án này đã được các cơ quan lập các cấp quyết định ,dã dược đưa vào quy định
của các bộ ,ngành địa phương ,đã được triển khai , và nhất là khi chúng gắn với lợi ích
thiết thân của những cơ quan liên quan đến dự án
-Thứ 2 :nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các DNNN một

mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư ,và mặt khác là do một số tập đoàn lớn
đã tự thành lập ngân hàng riêng
- Thứ 3 : Với tốc độ lạm phát nhanh như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng ức đầu tư
công theo đúng dự toán cũng được coi là một thành tích đáng kể
- 14 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
-Thứ 4 : kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn
nên đây là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm . Hơn thế với thực tế ở việt
nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều . Đầu tiên là phải trừ đi
quỹ lương ( chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên ),sau đó trừ đi các khoản phụ cấp có
tính chất lương ,chi chính sách chế độ ,tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc te, các
khoản chi thường xuyên đã được thực hiện …
Theo ước lượng của bộ kế hoạch và đầu tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm
được khoảng 3000 tỷ đồng chi hội họp và mua sắm xe ,tức giảm được khoảng 0,8 tổng chi
ngân sách nhà nước .
2. Vay nợ
Căn cứ vào khoản 2 Điều 8 Luật NSNN năm 2002 : “Bội chi ngân sách nhà
nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng
cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến
hạn”Như vậy theo Luật NSNN năm 2002 thì các cơ quan có thẩm quyền đã áp dụng các
biện pháp vay nợ để bù đắp bội chi NSNN nhằm đảm bảo cân đối NSNN . Cụ thể như sau
:
2.1 Vay nợ trong nước
Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế quá lớn
đòi hỏi phải đi vay để bù đắp . Điều này được thể hiện qua việc chúng ta chỉ vay để đầu tư
phat triển kết cáu ha tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển
đất nước . Nhưng trên thực tế số tiền vay ,đặc biệt của nước ngoài chưa được quản lý chặt
chẽ .Tình trạng đâu tư dân trải ở các địa phương vẫn chưa đươc khắc phục triệt để tiến
độthi công nhưng dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả .Chính vì vậy các

khoản đầu tư phát triển lấy từ nguồn vốn nay cả trong và ngoài nước cần đảm bảo các quy
định của ngân sách nhà nước và mức bội chi cho phép hằng năm do quốc hội quyêt định
Tập trung các khoản vay do trung ương đảm nhận các nhu cầu đầu tư của địa
phương cần được xem xét và thực hiện bổ xung từ ngân sách cấp trên thực hiện như vậy
- 15 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
,tránh được đầu tư tràn lan kém hiệu quả va để tồn ngân sách quá lớn quản lý chặt chẽ số
bội chi ngân sách nhà nước .Hiên tại chúng ta đang đưng rước mâu thuẫn giưa nhu cầu vốn
cho vay đầu tư với nguồn nhân lực hạn hẹp . Nếu thực hiên thắt chặt ,hạn chế vay để đầu
tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vay vốn rất cao .Nhưng nếu
chung ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của ngân sách nhà nước ,nhất là vay vốn
của ngân sách địa phương thi nguy cơ ảnh hưởng tới nên an ninh tài chính quốc gia ,sự bền
vững của ngan sách nhà nước .Thực hiên đầu tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển
hài hòa cân đối giưa các vùng miền trong toàn quốc . khi các địa phương vay vốn để đầu
tư sẽ kien quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình khi
hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu ,bả dưỡng các công trình ,làm
giảm hiệu quả đầu tư . Có như vậy các địa phương phải tự cân đói nguồn kinh phí này chứ
không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách nhà nước
Vay trong nước được chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái ,trái
phiếu .Công trái ,trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước ,là một loại
chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư ,các tổ chức kinh tế
xã hội và ngân hàng .Ở việt nam chính phủ thường ủy nhiệm cho kho bạc nhà nước phát
hành trái phiếu dưới các hình thức tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc, trái phiếu công
trình
- 16 -
NĂM
2009
SỐ TIỀN VAY TRONG NƯỚC (tỷ đồng)
48.009
2007 43000

2006 36000
2005 32420
2004 27450
2003 22895
2002 18382
Luật Ngân Sách Nhà Nước
Ưu điểm :Đây là biện pháp cho phép chính phủ có thể giảm bội chi ngân sách mà
không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dư trữ quốc tê . Vì vậy ,biện pháp này được
coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát
Nhược điểm : viêc khắc phục bội chi ngân sách bằng nợ tuy không gây ra lạm phát
trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ
trong GDP liên tục tăng . Thứ nữa ,viêc vay từ dâ trực tiếp sẽ làm giảm khả năng khu vực
tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước
Đặc biệt ,ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiên nay) ,
giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng ,làm cho chúng trở nên ít hấp
dẫn .Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác trong nền
kinh tế phải giữ trái phiếu. Tuy nhiên ,nếu việc làm này kéo dài sẽ gây ảnh hưởng nghieem
trọng đến uy tín của chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở
nên khó khăn hơn vào các năm sau .
Một số điểm đã đạt được ,đối với vay nợ trong nước : hằng năm ngân hàng phải
huy động một khoản tiền nhàn rỗi trong nước tương đối lớn để bù đắp bội chi ngân sách
.Để việc huy đông vốn không ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ ,đến lãi suất ,Bộ tài
chính thực hiện chính sách trước hết thực hiện vay vốn nhàn rỗi từ các quỹ tài chính nhà
nước như : quỹ bảo hiểm xã hội ,quỹ tích lũy trả nợ phần còn thiếu sẽ thực hiện phát hành
trái phiếu và tín phiếu chính phủ .Đối với tín phiếu (loại thời hạn 1 năm) ,thực hiện phối
hợp với ngân hàng nhà nước đấu thầu (đấu thầu về lãi suất ) qua ngân hàng nhà nước ,đây
là biện pháp vừa để đảm bảo nguồn bù đắp bội chi cho ngân sách nhà nước ,đồng thời
- 17 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
cũng tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn nhàn rỗi ,chưa cho vay được

thực hiện mua trái phiếu này (kết quả cho thấy trong năm qua nhiều tổ chức tín dụng đã
mua tín phiếu kho bạc )
2.2 Vay nợ nước ngoài
Chính phủ có thể giảm bội chi ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài thông qua
việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước nước
ngoài ,các định chế tài chính thế giới như ngân hàng thế giới(WB), Qũy Tiền tệ Quốc tế
(IMF) ,Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB),các tổ chức liên chính phủ ,toor chức quốc tế

Viên trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ ,các tổ chức nhằm
thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn
vốn phát triển chính thức ODA
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dướicác hình thức :phát hành trái phiếu bằng
ngoại tệ mạnh ra nước ngoài ,vay bằng hình thức tín dụng …
NĂM
2009
SỐ TiỀN VAY NƯỚC NGOÀI (tỷ đồng)
19.668
2007 13500
2006 12500
2005 8326
2004 7253
2003 7041
2002 7125
- 18 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
Ưu điểm : nó là một biện pháp giảm bội chi ngân sách hữu hiệu ,có thể bù đắp
được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm pháp cho nền kinh tế .Đây cũng là
một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước ,góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế -xã hội
Nhược điểm : Nó sẽ khiến chi gánh nặng nợ nần ,nghĩa vụ trả nợ tăng lên ,giảm

khả năng chi tiêu cho chính phủ .Đông thời ,nó cũng dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị
phụ thuộc vào nước ngoài .Thậm chí ,nhiều khoản vay ,khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm
theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị ,quân sự ,kinh tế khiến cho các nước đi vay bị
phụ thuộc nhiều .
Một số điểm đã đạt được ,đối với vay nợ nước ngoài ,thực hiện chính sách chỉ vay
ưu đãi nước ngoài ,không vay thương mại nước ngoài cho đàu tư phát triển .Đối với những
khoản vay thương mại nước ngoài và nợ quá hạn trước đây đã được xử lý qua câu lạc bộ
Pari và câu lạc bộ luân đôn . thực hiện xử lý nợ với Nga ,Angiêri … Nhờ thực hiện tốt quá
trình cơ cấu lại nợ ,cũng như chính sách vay mới mà dư nợ Chính phủ hiện nay ở mức
35% GDP vào năm 2005 ,mức an toàn ,đảm bảo an ninh tài chính quốc gia .
3.Vay ngân hàng (in tiền)
Ngoài phương pháp trên , để bù đắp bội chi NSNN , Chính phủ có thể vay ngân
hàng trung ương, để đáp ứng nhu cầu này ,ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in tiền
Ưu điểm :của biện pháp này là nhu cầu tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được
dáp ứng một cá nhanh chóng ,không phải trả lãi ,không phải gánh thêm các gánh nặng nợ
nần.
Nhược điểm :của biện pháp này là lại lớn hơn rất nhiều lần .Việc in thêm và phát
hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền . nó đẩy cho việc lạm phat trở nên
không thể kiểm soát nổi. Viêt nam từ năm1988 trở về trước bội chi ngân sách được nhà
nước bù đắp chủ yếu bằng cách phát hành thêm tiền vào lưu thông dẫn đến tốc độ lạm phát
rất cao ,năm 1986 là 774,7% ,năm 1987 là 223,1% ,1988 là 393,8% ;nhưmg từ năm1991
mặc dù bôi chi ngân sách còn ở mức lớn ,đô bù đắp bằng các biện pháp tích cực khác nên
- 19 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
lạm phát đã giảm nhanh và đã được kiểm soát ở mức một con số cho đến nay .Chính vì
những hậu quả đó ,biện pháp này rất ít khi được sử dụng
Biện pháp này hiện nay pháp luật Việt nam không cho phép thực hiện nên
Luật NSNN năm 2002 không quy định cụ thể điều này. Sở dĩ như vậy vì phương
pháp này có quá nhiều nhược điểm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế
Viêt Nam .Và từ năm 1992 ,nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi

ngân sách nhà nước
III/ Kết luận.
Có nhiều cách để chính phủ bù đắp bội chi ngân sách nhà nước ,nhưng phải sử
dụng cách nào ,nguồn nào thì còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế ,chính sách
kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia , bởi mỗi giải pháp bù bắp đều có
những ưu nhược điểm làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô .Vì vậy,chính phủ Việt
Nam cần phải tính toán kỹ lưỡng để đưa ra các giải pháp bù đưa phù hợp với thực trạng
hiện nay ,khi nền kinh tế của Việt Nam đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước ,nền tài chính quốc gia cũng được đổi mới .
Để giải quyết tổng thể vấn đề bội chi NSNN ở Việt Nam theo chúng tôi cần thiết
phải có những quy định chặt chẽ hơn, theo đó có thể áp dụng các giải pháp sau:
1- Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư của địa
phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực hiện
như vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn
và quản lý chặt chẽ số bội chi NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn
giữa nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt
chặt, hạn chế vay để đầu tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu
vốn rất cao. Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ của
NSNN, nhất là vay của ngân sách địa phương, thì nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh tài
chính quốc gia, sự bền vững của NSNN. Thực hiện đầu tư tập trung cũng có lợi là
bảo đảm phát triển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền trong toàn quốc. Kinh
- 20 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
nghiệm của Trung Quốc: nghiêm cấm ngân sách các địa phương vay vốn dưới bất
kỳ hình thức nào, các khoản chi đầu tư của địa phương được xem xét tính toán và bổ
sung từ ngân sách trung ương.
2 – Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên,
nhất là ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư,
sẽ kiên quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình
khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công

trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân đối nguồn
kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách.
3 – Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám sát chặt
chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và phát
triển các cơ sở kinh tế. Các khoản vay của ngân sách địa phương cần được tổng hợp
và báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của
các địa phương không được kiểm soát chặt chẽ chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn
tràn lan, đầu tư kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong
tương lai. Bội chi NSNN hằng năm không được kiểm soát chặt chẽ trước khi trình
Quốc hội, mức bội chi thực tế khác với mức bội chi báo cáo cáo Quốc hội. Điều đó
tạo nên gánh nặng nợ cho NSNN, bởi NSNN là một thể thống nhất và đa số các địa
phương trông chờ chủ yếu vào ngân sách trung ương, do vậy suy cho cùng, các khoản
nợ của ngân sách địa phương sẽ là gánh nợ của NSNN trong khi việc đầu tư lại dàn
trải, kém hiệu quả./.
IV Tài liệu tham khảo và phụ lục kèm theo.\
1. Tài liệu tham khảo:
1. Số liệu dựa trên Báo Sài Gòn online , VNexpress , Lao động ……
2. Luật ngân sách Nhà nước năm 2002 và các văn bản hướng dẫn.
3. Báo , tạp chí online.
- 21 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
4. Giáo trình Luật ngân sách nhà nước – Nhà xuất bản công an nhân dân.
5. Quản lý ngân sách nhà nước – PGS.TS Nguyễn Ngọc Hung – Trường ĐH Kinh
Tế tp Hồ Chí Minh
6. Tập bài giảng Luật NS nhà nước – Ths Phan Phương Nam
7. Các thủ tục liên quan đến kho bạc nhà nước tại webside:
/>18.9971967803/
8. Đề tài " Các nguyên tác tổ chức chi ngân sách nhà nước ;liên hệ việc triển khai các
nguyên tắc này ở Việt Nam trong giai đoạn gần đây " ( />tai-cac-nguyen-tac-to-chuc-chi-ngan-sach-nha-nuoc-lien-he-viec-trien-khai-cac-nguyen-
tac-nay-o.208012.html)

9. Tiểu luận "Những giải pháp khắc phục bội chi ngân sách nhà nước Việt Nam
hiện nay" ( />boi-chi-ngan-sach-nha-nuoc-viet-nam-hien-nay 199563.html)
10.Xử lý bội chi ngân sách nhằm kiềm chế lạm phát - TS. TRẦN VĂN GIAO -
Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh – Tạp chí Cộng Sản
18(162) năm 2008.
11.Các tài liệu khác có liên quan.
2. Phụ lục kèm theo:
2.1 Báo cáo tổng kết thực tiễn quản lý nợ công
I. Vay nợ và các nhóm chủ thể hiện có hoạt động vay nợ
Vay nợ giúp chủ thể đi vay có thể đầu tư ở mức cao hơn thu nhập hiện tại và nếu
được sử dụng hiệu quả sẽ giúp tăng thu nhập tương lai tạo nguồn trả nợ. Các chủ thể vay
nợ ở Việt Nam hiện nay gồm mọi thành phần kinh tế, như Nhà nước/Chính phủ (vay trong
nước và nước ngoài), chính quyền địa phương (vay trong nước của chính quyền tỉnh, thành
- 22 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
phố trực thuộc trung ương), các DNNN (vay trong nước và nước ngoài), các doanh nghiệp
khác (vay trong nước và nước ngoài), các đơn vị sự nghiệp được phép vay (trong nước)
theo quy định của pháp luật.
Theo thông lệ quốc tế (định nghĩa của Ngân hàng Thế giới) thì nợ khu vực công bao
gồm nợ của hệ thống các cơ quan Nhà nước ở trung ương và địa phương (Ngân hàng Thế
giới - Hệ thống báo cáo nợ công thế giới).
II. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động vay trả nợ.
1. Thống kê các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý nợ công được
tóm tắt tại Bảng 1 dưới đây:

Bảng 1. Hệ thống hoá khung pháp lý điều chỉnh hoạt động vay trả nợ
STT
Tên văn bản quy phạm
pháp luật
Năm

ban hành
Lĩnh vực liên quan
I CÁC VĂN BẢN QPPL CHUNG
1 Hiến pháp 1992
2 Luật Ngân sách Nhà nước 2002 Nguyên tắc thống nhất quản lý nợ
Chính phủ, nợ quốc gia, vay nợ
của chính quyền địa phương
3 Luật Chứng khoán 2005 Phát hành công cụ nợ ra công
chúng của các chủ thể đi vay
4 Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 Quản lý hoạt động vay nợ của
NHNN, giám sát hoạt động cho
vay nền kinh tế của tổ chức tín
dụng
5 Luật Tổ chức tín dụng Các nguyên tắc tổ chức tín dụng
tự thẩm định, cho vay, đảm bảo
an toàn vốn
6 Luật Doanh nghiệp 2005 Nguyên tắc tự chủ kinh doanh
của DN, kể cả trong quyết định
vay
- 23 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
STT
Tên văn bản quy phạm
pháp luật
Năm
ban hành
Lĩnh vực liên quan
7 Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 Nguyên tắc tự chủ kinh doanh
của DNNN, nguyên tắc chịu trách
nhiệm hữu hạn đối với các nghĩa

vụ, kể cả nghĩa vụ nợ
8 Nghị định 60/2003/NĐ-CP Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật Ngân sách nhà nước
6/6/2003
II VBQPPL LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ NỢ CÔNG CHIA THEO LĨNH VỰC
(1) VĂN BẢN QPPL VỀ TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
9 Pháp lệnh số 12/1999/PL-
UBTVQH về Phát hành trái phiếu
xây dựng tổ quốc
27/4/1999 Quy định về mục đích huy động
và quản lý sử dụng nguồn vốn từ
công trái
10 Nghị định 141/2003/NĐ-CP về
Phát hành trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh và
trái phiếu chính quyền địa phương.
20/11/2003 Quy định chủ thể phát hành, điều
kiện phát hành, nguyên tắc phát
hành, quản lý sử dụng vốn, phân
công trách nhiệm QLNN đối với
việc phát hành trái phiếu
11 Quyết định 66/2004-QĐ – BTC ban
hành Quy chế hướng dẫn về trình
tự, thủ tục phát hành trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu được Chính
phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính
quyền địa phương.
11/8/2004 Hướng dẫn trình tự, thủ tục phát
hành các loại trái phiếu này

12 Thông tư 19/2004 – BTC Hướng
dẫn việc đấu thầu tín phiếu kho bạc
và trái phiếu ngoại tệ qua Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam
18/3/2004 Nguyên tắc, quy trình thủ tục đấu
thầu qua Ngân hàng Nhà nước
13 Thông tư 21/2004/TT-BTC Hướng
dẫn việc đấu thầu trái phiếu Chính
24/3/2004 Nguyên tắc, quy trình, thủ tục
đấu thầu qua thị trường chứng
- 24 -
Luật Ngân Sách Nhà Nước
STT
Tên văn bản quy phạm
pháp luật
Năm
ban hành
Lĩnh vực liên quan
phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh và trái phiếu Chính quyền địa
phương qua thị trường giao dịch
chứng khoán tập trung.
khoán
14 Thông tư 29/2004/TT-BTC Hướng
dẫn việc bảo lãnh phát hành và đại
lý phát hành trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh
và trái phiếu Chính quyền địa
phương.
6/42004 Như tên gọi

15 Thông tư 32/2004/TT-BTC Hướng
dẫn việc phát hành trái phiếu Chính
phủ qua hệ thống Kho bạc Nhà
nước.
12/4/2004 Quy trình, thủ tục phát hành trái
phiếu Chính phủ bán lẻ
16 Quyết định 46/2006/QĐ – BTC ban
hành Quy chế Phát hành trái phiếu
Chính phủ theo lô lớn.
6/9/2006 Cách thức tổ chức phát hành trái
phiếu lô lớn
Nghị quyết 414/2003/NQ-
UBTVQH11 về việc phát hành trái
phiếu Chính phủ để xây dựng một
số công trình giao thông, thuỷ lợi
quan trọng của đất nước.
29/8/2003 Như tên gọi
17 Quyết định 182/2003/QĐ-TTg về
việc phát hành và sử dụng trái
phiếu Chính phủ đầ tư một số công
trình giao thông thuỷ lợi quan trọng
5/9/2003 Quy định tổng mức huy động và
danh mục các công trình sử dụng
nguồn vốn
18 Quyết định 171/2006/QĐ-TTg về
việc phát hành và sử dụng trái
phiếu Chính phủ đầ tư một số công
24/7/2006 Sửa đổi Quyết định 182 nói trên,
bổ sung thêm khối lượng phát
hành và phân bổ nguồn vốn cho

- 25 -

×