Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ nhằm tạo hứng thú và giáo dục truyền thống đạo đức dân tộc cho học sinh khối 10 trong dạy-học môn gdcd ở trường thpt như thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.29 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NHƯ THANH

SÁNG KIÊN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ NHẰM TẠO
HỨNG THÚ VÀ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG ĐẠO ĐỨC
DÂN TỘC CHO HỌC SINH KHỐI 10 TRONG DẠY- HỌC
MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT NHƯ THANH

Người thực hiện: Trần Thị Vân
Tổ : Sử - Địa – GDCD
SKKN Thuộc môn: GDCD

THANH HOÁ NĂM 2013


A. ĐẶT VẤN ĐỀ :
I. LỜI NÓI ĐẦU :
Đổi mới phương pháp dạy – học là một khâu rất cần thiết của giáo dục
hiện nay. Làm thế nào để nâng cao chất lượng và hiệu quả của dạy – học, đó là
câu hỏi ln trăn trở đối với mỗi giáo viên đứng trên bục giảng có tâm huyết.
Mục đích cuối cùng của giáo dục là : “Giúp cho học sinh phát triển tồn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân
cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm cơng dân…”
( Trích điều 23 – luật GD năm 2005 )
Để thực hiện được điều đó, các môn học, các hoạt động giáo dục trong
nhà trường đều có ý nghĩa, vai trị nhất định. Trong đó mơn GDCD giữ vai trị
quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục đạo đức, phát triển tâm lực và nhân
cách người Việt Nam. Giáo dục đạo đức cho học sinh là một nhiệm vụ rất quan
trọng của chương trình giảng dạy môn GDCD bậc THPT. Nhiệm vụ của phần


này là trang bị cho học sinh một hệ thống những tri thức về đạo đức, trên cơ sở
đó mà giáo dục truyền thống dân tộc và phát triển các phẩm chất đạo đức người
công dân, người lao động trong xã hội mới. Hiện nay nhiều người cho rằng giáo
dục đạo đức là một nội dung giảng dạy tương đối dễ vì ít nhiều học sinh đã học
ở các lớp dưới, ở các môn học xã hội khác và tự học hỏi từ thực tiễn cuộc sống.
Nhưng thực tế không phải vậy, bởi vì chúng ta biết rằng, đạo đức là toàn bộ
những quy tắc, những chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự điều chỉnh hành
vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, với hạnh phúc của con người và sự tiến
bộ của xã hội. Cho nên trong q trình giảng dạy nội dung này địi hỏi giáo viên
phải tìm ra một phương pháp thích hợp để làm “mềm hóa” giờ dạy giáo dục
cơng dân, gây hứng thú cho học sinh, để làm thế nào mà những quy tắc, chuẩn
mực đạo đức không khô khan, cứng nhắc, giáo điều, tránh sự thụ động nhàm
chán của học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức, nhằm đạt được hiệu quả
giáo dục cao nhất.
Bản thân tôi khi giảng dạy phần đạo đức, tơi ln cố gắng tìm tịi, vận
dụng những phương pháp mới và cũng đã có những kết quả nhất định. Một
trong những phương pháp mới mà tôi thường áp dụng và đem lại hiệu quả cao là
đưa các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào bài dạy. Trong khuôn khổ bài viết
này tôi sẽ nêu cách vận dụng trên ở một số bài cụ thể trong chương trình lớp 10

2


II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận:
1.1 Về kiến thức: học sinh cần nắm chắc các quan niệm làm nền tảng cho
việc hiểu những truyền thống đạo đức.
1.2 Mục đích, yêu cầu: học sinh nắm vững nội dung cơ bản các truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta như nhân nghĩa, hợp tác, nhân phẩm danh
dự, tình u, hơn nhân gia đình…

1.3 Về tư tưởng tình cảm: Giúp học sinh thấy rõ và biết quý trọng các
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
1.4 Về hành động: Học sinh phải có ý thức thực hiện các chuẩn mực đạo
đức và biết phân tích, phê phán những việc làm trái với chuẩn mực đạo đức đang
diễn ra trong xã hội.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
2.1 Về phía khách quan :
- Thực tế dạy – học hiện nay học sinh đang phải chịu nhiều áp lực bởi
chương trình học nặng hơn, cũng như lo lắng nhiều cho việc thực hiện ước mơ,
hoài bão bằng con đường thi cử.
- Phụ huynh và học sinh đa số chỉ chú tâm đầu tư cho những môn học mà
các em sẽ thi tốt nghiệp, thi vào chun nghiệp, cịn mơn GDCD bị các em coi
nhẹ, các em không học bài cũ, không chuẩn bị bài mới, khi giáo viên đưa ra một
yêu cầu nào đó cho học sinh về nhà làm thì các em khơng làm hoặc có làm cũng
mang tính đối phó, qua loa, chiếu lệ.
- Mặt khác GDCD là môn khoa học xã hội kiến thức mơn học khá rộng
nó liên quan đến đạo đức, pháp luật, triết học, kinh tế, chính trị - xã hội nên rất
“khơ khan”, trừu tượng, khó hiểu, do vậy học sinh khơng hứng thú học, hiệu quả
dạy- học GDCD không cao.
- Từ việc không học mơn GDCD nên nhiều học sinh có dấu hiệu sa sút
nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, ý thức chấp hành
pháp luật kém, mất niềm tin vào người khác, sống khơng có lý tưởng, sống vơ
cảm với mọi người, khơng có chính kiến của mình nên dễ bị lơi kéo vào những
việc xấu và các tệ nạn xã hội như: gây bè phái đánh nhau, không tôn trọng người
già, vô lễ với giáo viên, nghiện ma túy, mại dâm, lô, đề, bài bạc, game, chat…
2.2 Về phía chủ quan:
Do quan niệm của học sinh và nhiều người trong xã hội cho rằng: “Thi gì
học nấy, không thi không học”, môn GDCD không đưa vào các kỳ thi nên nó bị
3



coi là mơn phụ học sinh khơng học. Vai trị của môn GDCD từ trước đến nay
đang bị lu mờ, chưa được mọi người nhìn nhận một cách đúng đắn như nó vốn
có. Từ chỗ học sinh chán khơng học bị nhiều người xem nhẹ dẫn đến giáo viên
cũng chán không muốn dạy, đa số giáo viên không tâm huyết với nghề nên chưa
đầu tư xứng đáng cho môn học. Giáo viên vẫn còn nặng về truyền thụ kiến thức
theo kiểu thuyết trình, giảng giải, ít phát huy tính tích cực và phát triển tư duy
chỉ khai thác những thông tin có sẵn trong sách giáo khoa, chưa chịu tìm tịi mở
rộng.
Rút kinh nghiệm ở các khóa trước, trong q trình giảng dạy cho học sinh
các lớp 10B1, 10B2, 10B3, 10B4, 10B5, 10B6 năm 2012 - 2013. Bên cạnh
những phương pháp dạy học truyền thống như: Diễn giải, đàm thoại, tranh luận
vv…Tôi đã áp dụng thêm phương pháp mới “Sử dụng ca dao, tục ngữ, thành
ngữ” để làm mềm hóa các tiết dạy GDCD, để các em hứng thú, tích cực, chủ
động tiếp thu kiến thức, đồng thời học sinh biết trân trọng, biết kế thừa có chọn
lọc và phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Sự lựa chọn này của
tôi là hợp lý bởi vì chúng ta đã biết ca dao, tục ngữ, thành ngữ là một phần rất
quan trọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Ca
dao, tục ngữ có tác dụng rất lớn trong việc hình thành tư tưởng, tình cảm, thói
quen đạo đức cho mỗi người. Ngay từ khi cịn nằm trong nơi các em đã bắt đầu
cảm nhận được giá trị đạo đức của dân tộc qua các câu ca dao, tục ngữ, thành
ngữ từ những lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ. Lớn lên các em lại được các thế
hệ đi trước, được thầy cô răn dạy, chỉ bảo, truyền kinh nghiệm qua ca dao, tục
ngữ.
3. Kết quả của thực trạng trên:
Từ những lý do trên mà giờ dạy GDCD cịn khơ khan, cứng nhắc không
hấp dẫn học sinh nên chất lượng dạy - học chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu
giáo dục nhân cách, giáo dục truyền thống đạo đức của dân tộc. Do vậy trong
quá trình giảng dạy ở các lớp 10 năm nay, năm học 2012 - 2013 bên cạnh những
phương pháp truyền thống quen thuộc tôi đã kết hợp thêm chuyên đề “sử dụng

ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong giảng dạy GDCD” Với phương pháp mới này
tôi đã đạt được một số kết quả khả quan.

4


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
1. Mục đích nghiên cứu :
- Do đặc thù bộ môn GDCD nặng về khái niệm, kiến thức trừu tượng, cịn
khó hiểu đối với tư duy lĩnh hội của học sinh khối 10.
- GDCD là mơn học góp phần quan trọng trong việc giáo dục và hình thành
nhân cách cho học sinh. Vì vậy tơi đã đặt ra mục đích làm thế nào để tạo được
hứng thú cho các em, để các em hiểu được truyền thống dân tộc và tu dưỡng đạo
đức bản thân. Trong rất nhiều phương pháp, tôi đã vận dụng phương pháp mới "
Sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ ". Bởi ca dao, tục ngữ là một thành phần văn
học mà các em đang được học trong chương trình ngữ văn lớp 10. Hơn nữa đây
là sản phẩm tinh thần của nhân dân lao động, các em đã được tiếp cận qua bà,
qua mẹ từ khi còn thơ bé, hàng ngày nhân dân lao động cũng thường hay ứng
dụng trong cuộc sống.
2. Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu là học sinh khối 10 trường THPT Như Thanh năm
học 2012 – 2013. Phạm vi nghiên cứu SGK GDCD lớp 10.
3. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu của phép biện chứng duy vật như:
Phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, trao đổi ý kiến với giáo viên trong nhóm, đặc
biệt trú trọng phương pháp sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào giảng dạy.
Đây cũng là phương pháp "Tích hợp" - một trong những phương pháp đổi mới
dạy - học mà Bộ giáo dục và đào tạo đang ứng dụng.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN

1. Hướng dẫn học sinh hiểu và làm quen với phương pháp “Sử dụng ca dao, tục
ngữ, thành ngữ” vào giảng dạy GDCD lớp 10, giáo viên phải thực hiện các bước
sau :
Bước 1 : Giáo viên và học sinh sưu tầm, chuẩn bị các câu ca dao, tục ngữ,
thành ngữ có nội dung phù hợp để đưa vào bài học.
Bước 2 : Học sinh lắng nghe và trình bày những câu ca dao, tục ngữ mà
mình đã sưu tầm bằng các hình thức ngâm, đối đáp, sau đó giáo viên yêu cầu
học sinh phân tích và phát biểu cảm nghĩ của mình.
Bước 3 : Giáo viên theo dõi, lắng nghe và tổng hợp ý kiến của học sinh
trả lời đồng thời xem xét, bổ sung thơng qua hình thức trị chơi chia lớp thành
các tổ, nhóm cùng sưu tầm theo một chủ đề mà giáo viên đưa ra.
5


Bước 4: Yêu cầu học sinh rút ra bài học về nhận thức, hành động, tình
cảm qua hình thức phát biểu, viết bài luận và tham gia ngoại khoá.
2. Giải pháp cụ thể
2.1 Sự chuẩn bị của thầy và trò trong bài học:
Trong bất cứ một bài học, tiết học nào thì sự chuẩn bị của thầy và trị cũng
đều rất quan trọng nhất là khi giáo viên sử dụng phương pháp dạy học mới coi
học sinh là trung tâm, người thầy đóng vai trị hướng dẫn, học sinh là người chủ
động tự tìm hiểu, tự nghiên cứu để rút ra kiến thức và vận dụng kiến thức đó vào
thực tiễn cuộc sống thì sự chuẩn bị càng hết sức cần thiết. Do vậy trước khi vào
bài mới giáo viên cần phải soạn giáo án, xây dựng hệ thống câu hỏi cho bài, cả
học sinh và giáo viên đều phải sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ.
Giáo viên yêu cầu tất cả học sinh đều phải sưu tầm và ghi vào giấy theo đơn vị
tổ. Kết quả là các em đều hào hứng, tích cực sưu tầm được rất nhiều những câu
ca dao, tục ngữ hay. Sự chuẩn bị tích cực của học sinh là cơ sở quan trọng cho
việc nhận thức sâu sắc kiến thức của bài mới trên lớp.
2.2. Sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ để giới thiệu bài mới gây hứng thú

cho các em ngay từ phần đầu :
Thay cho cách giới thiệu bài thơng thường bằng phương pháp thuyết
trình, giáo viên có thể sử dụng một hay một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ để
dẫn dắt các em vào bài mới.
Vd 1: Trước khi dẫn học sinh vào bài 5 SGK lớp 10 : "Cách thức vận
động, phát triển của sự vật và hiện tượng" tôi đặt cho học sinh câu hỏi: Các em
hãy tìm cho cơ một số câu thành ngữ, tục ngữ nói lên sự thay đổi của lượng và
chất. Học sinh trình bày, giáo viên bổ sung thêm các câu thành ngữ như :
- “Góp gió thành bão, góp cây thành rừng”
- “Tích tiểu thành đại ”
Sau khi tạo được hứng thú cho học sinh, tôi tiếp tục đặt câu hỏi : "Các em
hãy cho biết hai câu thành ngữ trên muốn nói điều gì"? Chỉ định học sinh trả lời
xong, giáo viên bổ sung và đưa ra kết luận: Hai câu thành ngữ trên hàm ý nói sự
thay đổi của lượng dẫn đến sự biến đổi của chất khi đã đạt đến một điểm nút,
một điểm giới hạn nhất định. Thế lượng là gì ? Chất là gi? Chất và lượng có mối
quan hệ với nhau như thế nào? Chúng ta sẽ đi tìm hiểu nội dung bài 5.
Vd 2 : Để giới thiệu bài 10 “quan niệm về đạo đức” giáo viên có thể sử
dụng ngay câu thành ngữ : “Tiên học lễ, hậu học văn”. Vì câu thành ngữ này rất

6


quen thuộc với mỗi học sinh nên tôi đặt câu hỏi ln : "Nội dung câu thành ngữ
trên nói điều gì? ".
Giáo viên chỉ định học sinh trả lời sau đó kết luận : “Lễ” ở đây được hiểu
là đạo đức, cịn “Văn” là kiến thức văn hóa. Câu thành ngữ này nhằm khẳng
định đạo đức giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển nhân cách và trí
tuệ của con người. Thế đạo đức là gì ? Đạo đức có vai trị như thế nào trong sự
phất triển của cá nhân, gia đình và xã hội ? Để trả lời những câu hỏi trên cơ trị
ta cùng tìm hiểu bài 10.

Vd 3 : Giới hiệu bài 7 SGK “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức” giáo viên có thể dùng các câu thành ngữ sau :
“Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”.
“Đi ra biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”.
Giáo viên đặt câu hỏi : Em hiểu nội dung hai câu thành ngữ trên muốn
nói điều gì ? Cũng như các ví dụ trên giáo viên chỉ định học sinh trả lời, gọi học
sinh khác bổ sung và sau đó kết luận. Hai câu thành ngữ trên muốn nói lên vai
trị quan trọng của thực tiễn đối với nhận thức con người. Nếu khơng có thực
tiễn thì con người sẽ khơng có nhận thức đúng đắn, sâu sắc. Thế thực tiễn là gì ?
Thế nào là nhận thức ? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức như thế nào ? Ta
cùng đi nghiên cứu bài 7.
2.3. Sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong quá trình truyền thụ kiến
thức cơ bản đồng thời giáo dục truyền thống đạo đức của dân tộc cho học
sinh.
Vd 1 : Khi giảng dạy phần 2a của bài 13 : “Nhân nghĩa” để học sinh hiểu
rõ nội dung này, giáo viên đưa ra câu hỏi vấn đáp: Em hiểu như thế nào là nhân
nghĩa ?
Học sinh trả lời : “Nhân” là lòng thương người, “Nghĩa” là điều được
coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội.
Nhân nghĩa là lòng thương người và đối xử với người theo lẽ phải.
Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: Vậy cha ông ta đã ca ngợi người có nhân
nghĩa và phê phán những kẻ bất nhân, bất nghĩa như thế nào ? Để trả lời câu hỏi
này giáo viên sẽ chỉ định một số em đại diện của các tổ đứng lên trình bày và
đọc các câu ca dao, tục ngữ mà các em đã sưu tầm. Sau đó giáo viên yêu cầu các
thành viên khác nhận xét bổ sung. Các em đã làm việc rất tích cực , sưu tầm
được nhiều câu thể hiện rõ được nội dung của truyền thống nhân nghĩa như :
7



+ Các câu ca ngợi tình yêu thương con người và lòng nhân ái :
- Thương người như thể thương thân
- Lá lành đùm lá rách.
- Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ.
- Ở hiền thì lại gặp lành
Những người nhân đức, trời dành phúc cho.
- Thương người, người lại thương ta
Ghét người, người lại hóa ra ghét mình.
-Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng.
- Bầu ơi thương lấy Bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
- Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người.
- Người trồng cây hạnh người chơi
Tôi trồng cây đức để đời về sau.
- Có tiên thì hậu mới hay
Có trồng cây đức mới dầy nên thân.
- Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại…
+ Các câu phê phán lối sống ích kỉ, vụ lợi, khơng có trước có sau :
- Vong ân, bội nghĩa.
- Ăn cháo đá bát.
- Giả nhân giả nghĩa.
- Ngậm máu phun người.
- Ghét người yêu của.
- Trách người một trách ta mười.
Bởi ta bạc trước cho người tệ sau.
- Ai mà phụ nghĩa quên công
Đeo trăm cành hồng cũng chẳng thấy thơm…
Để phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, học sinh cần phải biết

quan tâm chia sẻ nhường nhịn mọi người như thầy cơ, bạn bè, hàng xóm láng
giềng. Biết cảm thơng và sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn hoạn
nạn, tích cực tham gia các hoạt động uống nước nhớ nguồn đền ơn đáp nghĩa,
hoạt động nhân đạo do trường, do cộng đồng tổ chức như : Hiến máu nhân đạo,
giúp đỡ các bạn học sinh nghèo vượt khó, mua tăm tre ủng hộ người mù, ủng hộ
nạn nhân chất độc da cam, đồng bào bị thiên tai…
Vd 2 : Khi giảng dạy bài 12 “Cơng dân với tình u, hơn nhân, gia đình”

8


Giáo viên đặt câu hỏi : em quan niệm về tình yêu như thế nào ? Hãy sưu
tầm những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ nói về tình u đôi lứa.
Hỏi : Giáo viên gọi một số học sinh đứng lên trình bày quan điểm của mình về
tình yêu và đọc các câu mà mình đã sưu tầm.
Học sinh sẽ trả lời : Tình yêu là sự rung cảm và quyến luyến sâu sắc giữa
hai người khác giới. Ở họ có sự phù hợp về nhiều mặt làm cho họ có nhu cầu
gần gũi, gắn bó với nhau, tự nguyện sống vì nhau và sẵn sàng hiến dâng cho
nhau cuộc sống của mình. Học sinh đã sưu tầm được một số câu ca dao, tục ngữ
nói về tình u nam nữ:
- Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
- Cơ kia đứng ở bên sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.
- Vì sơng nên phải lụy đị
Vì trời tối phải lụy cơ bán hàng
Vì tình nên phải đa mang
Vì dun thiếp biết quê chàng ở đây.

- Thương em vô giá quá chừng
Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay.
- Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Nhớ ai nhớ mãi thế này
Nhớ đêm quên ngủ nhớ ngày quên ăn.
- Yêu nhau tam, tứ núi cũng trèo
Thất, bát sông cũng lội.
Tứ ,cửu, tam, thập, lục đèo cũng qua.
- Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong
Đôi ta như thể con ong
Con quấn, con quýt, con trong, con ngoài…
Ở phần này giáo viên phải làm rõ khái niệm tình yêu cho học sinh hiểu,
đồng thời học sinh phải biết được như thế nào là tình u chân chính, học sinh
phải biết tránh xa một số biểu hiện khơng đúng về tình u như: yêu lợi dụng,
9


yêu sớm sao nhãng học hành ở lứa tuổi học sinh THPT, yêu nhiều nhiều người.
cùng một lúc…Từ đó giúp các em có kiến thức đúng đắn về tình u đó là hành
trang hạnh phúc cho tương lai các em sau này.
Vd 3 : Sử dụng ca dao, tục ngữ dạy phần 3c bài 12 “Mối quan hệ gia đình
và trách nhiệm của các thành viên”.
Giáo viên đặt câu hỏi: Gia đình em gồm có những thành viên nào và mối
quan hệ giữa họ ra sao?
Học sinh trả lời:
a. Quan hệ vợ – chồng:
Giáo viên lại tiếp tục đặt câu hỏi phụ: Vợ chồng có nghĩa vụ, trách nhiệm
với nhau như thế nào ? Em hãy đọc các câu ca dao, tục ngữ nói lên quan hệ đó ?

Học sinh trả lời: Quan hệ vợ chồng dựa trên cơ sở tình yêu và được pháp
luật thừa nhận. Vợ chồng phải có trách nhiệm chung thủy, yêu thương, quý
trọng, giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, tiến
bộ.
Các câu nói về quan hệ vợ chồng như :
- Thuận vợ, thuận chồng, tát biển đông cũng cạn.
- Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon.
- Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
- Vợ chồng là nghĩa tao khang
Chồng hòa, vợ thuận nhà thường yên vui
Sinh con mới ra thân người
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.
- Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở : Rằng anh giận gì?
- Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa, một đời không khê.
- Xấu xa cũng thể chồng ta
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người .
- Tay nâng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau…

10


b. Quan hệ cha mẹ với con cái:
Giáo viên đọc câu hỏi : Cha mẹ phải có trách nhiệm thế nào với con cái
và ngược lại ? Đọc những câu nói lên mối quan hệ này
Học sinh trả lời: Cha mẹ có trách nhiệm u thương, ni dưỡng và tạo

điều kiện cho con cái được học tập nên người, tôn trọng ý kiến và quyền lợi hợp
pháp của con. Cha mẹ phải giáo dục con cái trở thành người con hiếu thảo của
gia đình, là cơng dân có ích cho xã hội. Ngược lại con cái có bổn phận yêu q,
kính trọng, biết ơn với cha mẹ, ơng bà, biết lắng nghe những lời khuyên bảo
đúng đắn của cha mẹ, biết giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình. Con cái có
nghĩa vụ ni dưỡng, chăm sóc chu đáo, không được ngược đãi, súc phạm cha,
mẹ.
Các câu ca dao, tục ngữ như:
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
- Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con.
- Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
- Ơn cha nặng lắm ai ơi !
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.
- Ni con mới biết sự tình
Cảm thương cha mẹ ni mình ngày xưa.
- Cơng cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta
Liệu mà thờ mẹ kính cha
Đừng tiếng nặng nhẹ người ta chê cười.
- Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao
Đố ai đếm được vì sao
Đố ai đếm được cơng lao mẫu từ…
c. Quan hệ anh, chị em ruột với nhau:
Giáo viên đặt câu hỏi: Em hãy trình bày những câu ca dao, tục ngữ nói
lên trách nhiệm của anh chị em trong gia đình với nhau?
Học sinh trả lời: Anh chị em phải có trách nhiệm thương yêu, đùm bọc,

biết bảo ban, chăm sóc giúp đỡ nhau trong cuộc sống.
11


Các câu ca ngợi tình cảm anh chị em với nhau như :
- Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.
- Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
- Anh em đóng cửa bảo nhau.
- Chị ngã em nâng.
- Anh em như tre cùng khóm
Chị em gái như trái cau non.
- Anh em ăn ở thuận hòa
Chớ điều chênh lệch người ta chê cười…
Phần này ngoài làm rõ khái niệm gia đình, mối quan hệ các thành viên
với nhau thì học sinh phải biết áp dụng những kiến thức đã học vào gia đình
mình để cư xử với nhau cho đúng mực, các em phải biết cố gắng học tập và rèn
luyện đạo đức bản thân để trở thành người con ngoan, có hiếu với ơng bà, cha
mẹ.
Vd 4 : Giảng dạy phần 3 bài 11: “Nhân phẩm và danh dự”
Giáo viên đặt câu hỏi : Em hãy đọc những câu ca dao, tục ngữ nói về
nhân phẩm và danh dự con người.
Học sinh đã sưu tầm được những câu sau :
- Đói cho sạch rách cho thơm.
- Giấy rách phải giữ lấy lề.
- Chết đứng hơn sống quỳ.
- Chết vinh còn hơn sống nhục.
- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
- Cọp chết để da, người ta chết để tiếng.

- Ăn một miếng, tiếng một đời.
- Trăm năm bia đá thì mịn
Nghìn năm bia miệng hãy cịn trơ trơ .
- Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngồi thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.
- Vàng thật chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa cho đau lòng vàng.
12


- Nhân phẩm là toàn bộ những phẩm chất mà mỗi người có được, hay nhân
phẩm là giá trị làm người của mỗi người. Qua đây giáo dục cho học sinh dù
trong hồn cảnh nào, dù khó khăn túng quẩn đến đâu cũng phải giữ nhân phẩm
trong sạch.
Vd 5: Vận dụng vào giảng dạy phần 2C bài 13 "Hợp tác".
Hỏi : Trong cuộc sống, lao động, học tập con người phải biết hợp tác. Vậy thế
nào là hợp tác ? Hãy sưu tầm các câu ca dao, tục ngữ nói về hợp tác.
HS : Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trong một
công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
Các câu ca dao, thành ngữ như:
- Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hịn núi cao.
- Khơn bầy hơn khôn độc.
- Bẻ đũa chẳng bẻ được cả nắm.
- Cả bè hơn cây nứa.
- Dựng nhà cần nhiều người,
Đánh giặc cần nhiều sức…
Hỏi : Học sinh lớp này kéo bè, kéo cánh đánh nhau với học sinh lớp khác - đấy

có phải hợp tác khơng ? Vì sao ?
Giáo viên gọi một số học sinh nam trả lời và sau đó giáo viên kết luận:
Hợp tác nó khác với chia bè, kéo cánh, kết thành phe phái để gây mâu thuẩn mất
đồn kết, tranh giành nhau vì mục đích trục lợi cá nhân hoặc một nhóm người.
Qua bài học này giáo viên giáo dục truyền thống hợp tác của cha ông ta cho học
sinh, các em biết vận dụng hợp tác trong học tập, qua việc học nhóm để những
bạn học tốt có thể giúp đỡ, dìu dắt những bạn học kém hơn.
- Như vậy với việc sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào quá trình
truyền thụ kiến thức cơ bản, giáo viên đã khơi dậy được tính tích cực, chủ động,
tự giác tiếp thu được những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, góp phần
khắc phục tình trạng lười học mơn GDCD của học sinh.
2.4. Sử dung ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong việc củng cố bài học và kiểm tra
đánh giá.
Sau khi giúp học sinh tìm hiểu xong các giá trị truyền thống đạo đức dân
tộc, giáo viên tiếp tục sử dụng một số câu nhằm củng cố, kiểm tra kiến thức,
kiểm tra khả năng liên hệ thực tiễn của các em như:

13


- Nhường cơm sẻ áo.
-Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng.
Nhuỵ vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
- Yêu nhau cởi áo cho nhau.
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.
Hỏi : Em hãy phát biểu cảm nghĩ của mình khi đọc các câu trên và hãy nêu biểu
hiện trái với truyền thống đó cần được lên án, phê phán trong xã hội ta hiện nay.
3. Đối chiếu, so sánh phương pháp dạy học mới với phương pháp dạy học cũ.

Phương pháp dạy học cũ
- Mục đích: Trang bị cho học sinh
những kiến thức cơ bản có hệ thống
trong SGK.

- Ưu điểm của phương pháp cũ. Học
sinh chỉ cần nắm vững kiến thức trong
SGK là đủ, các lĩnh vực khác như hiểu
biết xã hội, tài liệu tham khảo, các
thông tin về thời sự, chính trị khơng
cần phải quan tâm nhiều, không mất
quá nhiều thời gian cho môn học.
- Hạn chế: Học sinh hầu như chỉ tiếp
thu một cách thụ động, áp đặt, khơng
phát huy được tính tích cực, chủ động,
sáng tạo cho người học.

Phương pháp dạy học mới
- Mục đích: Ngồi việc trang bị đầy đủ
cho học sinh những kiến thức có hệ
thống của phương pháp cũ, giáo viên
hướng dẫn học sinh làm quen với
chuyên đề "sử dụng" ca dao, tục ngữ,
thành ngữ. Thông qua chuyên đề này
học sinh sẽ giải quyết tốt những kiến
thức khó của bài.
- Ưu điểm: Hình thành cho học sinh
khả năng tự học học tập, tự tìm tịi, chủ
động tự giác trong q trình học tập.
Phát triển tri thức toàn diện, vận dụng

linh hoạt những kiến thức hiểu biết
ngoài cuộc sống vào bài học. Học sinh
cảm thấy hứng thú, u thích mơn học
hơn so với cách tiếp nhận kiến thức
một chiều của phương pháp cũ.
- Để thực hiện được chuyên đề này có
hiệu quả, trong q trình dạy học cho
học sinh, ngồi việc phải nắm vững
kiến thức cơ bản trong chương trình
học, các em cịn đầu tư nhiều thời gian
để đọc, tìm hiểu các tài liệu tham khảo,
14


thu thập các thơng tin và phải có sự
hiểu biết nhất định về kiến thức xã hội.
- Kết quả: Giảng dạy theo phương
- Kết quả: Hầu hết học sinh nắm vững
pháp cũ hầu hết học sinh đều nắm
kiến thức bộ môn một cách sâu sắc và
được những kiến thức cơ bản nhưng để tồn diện. Học sinh rất tích cực, chủ
giáo dục truyền thống đạo đức cho học động trong quá trình học tập, đồng thời
sinh thì gặp rất nhiều khó khăn.
các em biết trân trọng, biết kết thừa
những giá trị thuyền thống đạo đưc tốt
đẹp của cha ông ta.
C. KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
1. Kết quả : Qua 13 năm giảng dạy tôi đã sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau và đã mang lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên dạy học là một ngành

ln địi hỏi sự sáng tạo ? Mỗi khoá học đi qua người thầy lại tìm thêm được
những phương pháp dạy mới hay hơn, sáng tạo hơn dựa trên kinh nghiệm từ
thực tiễn. Chính bởi vậy được nhà trường, nhóm chun mơn phân công dạy các
lớp 10B1 đến 10B6 năm nay, bên cạnh những phương pháp dạy học truyền
thống tôi đã vận dung thêm chuyên đề "Sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ" và
đã đạt được những kết quả khả quan.
Thông qua phương pháp dạy - học mới này giúp học sinh hứng thú hơn
trong học tập, tạo cho các em một phương pháp học mới hiện nay là tự học, tự
tìm tịi, tự sáng tạo và đưa ra quan điểm chính kiến của mình. Đây cũng là một
xu thế học mới của thời đại. Thông qua chuyên đề dạy học mới này giúp các em
từng bước tránh bỏ lối học thụ động, quá lệ thuộc vào sách giáo khoa và ý kiến
áp đặt của giáo viên. Vận dụng phương pháp mới vào giảng dạy năm nay tơi đã
có 3/3 học sinh đạt giải trong kì thi học sinh giỏi văn hố cấp tỉnh (trong đó có
một giải ba và hai giải khuyến khích).
Phương pháp dạy - học mới sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ đã tác
động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức của các em. Thông qua
kiến thức bài học, học sinh đã biết trân trọng, biết kế thừa và phát huy những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Các em biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn
cuộc sống của mình.
2. Kiểm chứng
a. Khi chưa sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào dạy - học GDCD.
15


Số học sinh
không hứng
Sĩ số
Lớp
thú với môn
học

10B1
49
4,4%
26,7%
68,9%
10B3
47
5%
22,5%
72,5%
10B6
45
7%
34,8%
58,2%
b. Khi sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào dạy - học GDCD.
Số học sinh
hứng thú với
mơn học

Số học sinh
có thái độ
bình thường

Số học sinh
có thái độ
bình thường
44,8%
35%
46,5%


Lớp

Sĩ số

Số học sinh
hứng thú với
môn học

10B1
10B3
10B6

49
47
45

37,8%
45%
30,2%

Số học sinh
không hứng
thú với môn
học
13,4%
20%
23,3%

II. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT

1. Đối với Bộ và Sở Giáo dục - Đào tạo:
Nghiên cứu xem xét để đưa môn GDCD vào các kỳ thi do Bộ và Sở tổ
chức như: Thi vào 10, thi tốt nghiệp THPT, thi Đại học, Cao đẳng, Trung học
chuyên nghiệp để học sinh chú trọng, để mọi người trong xã hội, đặc biệt là phụ
huynh học sinh thấy được tầm quan trọng của môn GDCD từ đó để đơn đốc con
em mình học tập một cách tích cực.
Hàng năm Sở Giáo dục - đào tạo Thanh Hoá nên mở nhiều hơn những
chuyên đề về cải tiến phương pháp dạy - học môn GDCD để tất cả các giáo viên
chuyên ngành đi tiếp thu. Sở GD&ĐT nên lựa chọn một số giáo viên có năng
lực chun mơn cao, lại có kinh nghiệm giảng dạy ở các trường chất lượng cao
trong tỉnh truyền đạt những kinh nghiêm, những sáng kiến mới để giáo viên
được học tập.
2 Đối với nhà trường và tổ chuyên môn:
Nên xây dựng hệ thống tư liệu tham khảo đầy đủ, phong phú hơn để giáo
viên có tài liệu tham khảo. Mỗi giáo viên phải xây dựng cho mình thói quen đọc

16


- nghe, tự nghiên cứu. Các giáo viên trong nhóm phải thương xuyên trao đổi
kinh nghiệm giảng dạy cho nhau.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯƠNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 14 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.

Trần Thị Vân

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK GDCD lớp 10.
2. Sách GV GDCD lớp 10
3. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên chương trình lớp 10.
4. Phương pháp giảng dạy GDCD - Trường ĐHSP Hà Nội năm 1999.
5. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam văn học dân gian - Nhà xuất bản văn học

18


MỤC LỤC

19



×