Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nghiên cứu mô hình dạy học hợp tác hai chiều ở trường THPT kỳ anh tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.75 KB, 79 trang )

Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
1

Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
2

MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển về mọi mặt, yêu cầu của xã hội về con
ngƣời ngày càng cao, dẫn đến điều tất yếu là nội dung và phƣơng pháp đào tạo của
ngành giáo dục cũng phải thay đổi. Đổi mới PPDH đáp ứng với nhu cầu ngƣời học,
yêu cầu của xu hƣớng phát triển của lý luận dạy học hiện đại. Vì lẽ trong xã hội hiện
nay khối lƣợng kiến thức của con ngƣời không ngừng tăng lên nhƣ vũ bão, các lĩnh
vực hoạt động của con ngƣời theo đó cũng thay đổi không ngừng với tốc độ rất cao
nên việc học tập phải trở thành một nhu cầu thƣờng xuyên của mọi cá nhân và có thể
đƣợc đáp ứng một cách thƣờng xuyên. Vì vậy PPDH có khuynh hƣớng tăng cƣờng dần
vai trò chủ động của ngƣời học, giảm dần thói quen học tập thụ động trong việc chiếm
lĩnh tri thức và kỹ năng cần thiết cho cuộc sống của mỗi cá nhân. Để đáp ứng nhu cầu
đó đòi hỏi trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo xem đổi mới phƣơng pháp giáo dục, dạy
học là khâu then chốt và có tính chất quyết định.
Mặt khác, việc đổi mới PPDH tại các trƣờng phổ thông nhìn chung còn chậm làm
hạn chế phát triển tƣ duy, sáng tạo và bản năng tìm tòi sang chế của học sinh. Rõ ràng
việc đi tìm những PPDH có hiệu quả hơn đã trở thành một trong những nhiệm vụ cấp
bách của nhà trƣờng.
Luật Giáo dục nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quy định:
“Phƣơng pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tƣ duy sáng
tạo của ngƣời học; bồi dƣ ỡ ng tự học, lòng say mê học tập và ý chí vƣơn lên”
(Luật Giáo dục 2005).
Nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt


Nam (khoá VIII, 1997) khẳng định: “Phải đổi mới phƣơng pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tƣ duy sáng tạo của ngƣời
học. Từng bƣớc áp dụng các phƣơng pháp tiên tiến và phƣơng tiện hiện đại vào
quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh,
nhất là sinh viên đại học”.
Hiện nay công cuộc đổi mới, cải tiến PPDH đã và đang thực hiện ở tất cả các
trƣờng học trên đất nƣớc Việt Nam với xu hƣớng chuyển từ mô hình dạy học truyền
thống một chiều sang mô hình dạy học hợp tác hai chiều. Chuyển từ quan điểm PPDH “lấy thầy
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
3

làm trung tâm” sang quan điểm PPDH “lấy trò làm trung tâm”.
Cùng với sự đổi mới của ngành giáo dục, trƣờng THPT Kỳ Anh thuộc Huyện
Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh đang từng bƣớc nâng cao chất lƣợng dạy để tạo ra những
học sinh có nhân cách, đầy đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho sự phát triển
đất nƣớc hiện nay.
Là một cựu học sinh của trƣờng, tôi muốn có cái nhìn khách quan về vấn đề
trên, đánh giá đúng thực trạng mô hình dạy học hợp tác hai chiều của trƣờng
THPT Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh và từ đó đề xuất những giải pháp có thể góp phần
nâng cao chất lƣợng giáo dục đào tạo của trƣờng. Xuất phát từ những lý do khách
quan và chủ quan trên, tôi chọn đề tài “ Nghiên cứu mô hình dạy học hợp tác hai
chiều ở trường THPT Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh” để làm khóa luận tốt nghiệp của
mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này tôi muốn nghiên cứu về mô hình dạy học hợp tác hai
chiều ở trƣờng THPT Kỳ Anh – Hà Tĩnh. Mô hình đó thực chất là gì? Và đang đƣợc
thực hiện ở trƣờng THPT nhƣ thế nào? Kết quả ra sao? Đồng thời phân tích mối liên
hệ chặt chẽ giữa thầy và trò. Bên cạnh đó nghiên cứu đề tài này giúp tôi củng cố và mở
rộng thêm một số kiến thức về phƣơng pháp dạy học phục vụ cho công tác giảng dạy

sau này.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn những vấn đề trong dạy học truyền thống
một chiều, hợp tác hai chiều.
- Tìm hiểu các đặc điểm của mô hình dạy học hợp tác hai chiều và việc vận
dụng mô hình dạy học hợp tác hai chiều để nâng cao tính tích cực trong hoạt động
nhận thức của học sinh.
- Nghiên cứu thực trạng và giải pháp dạy học hợp tác hai chiều ở trƣờng THPT
Kỳ Anh – Hà Tĩnh để nâng cao hiệu quả của bài lên lớp.
IV. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Về lý luận là sự vận dụng mô hình dạy học hợp tác hai
chiều. Về thực tiễn là thực trạng và giải pháp dạy học hợp tác hai chiều ở trƣờng
THPT Kỳ Anh – Hà Tĩnh.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
4

- Phạm vi nghiên cứu: Thầy cô, học sinh trƣờng THPT Kỳ Anh – Hà Tĩnh.
V. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này tôi đã vận dụng một số phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp tìm đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Phƣơng pháp tìm hiểu lý thuyết, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, thu thập xử lý
thông tin của trƣờng THPT Kỳ Anh về vấn đề dạy học hợp tác hai chiều.
- Phƣơng pháp sơ đồ hóa.
- Phƣơng pháp quan sát, trò chuyện, lấy ý kiến.
- Phƣơng pháp điều tra bằng Anket: Điều tra HS một số lớp để tìm hiểu vấn đề tự
học của học sinh trƣờng THPT Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh. Đối tƣợng điều tra là 150 học
sinh của ba lớp là 10A
5
, lớp 11A

1
và lớp 12C
3
của trƣờng THPT Kỳ Anh.
VI. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng phƣơng pháp dạy học hợp tác hai chiều: Dạy – tự học, là PPDH tích
cực lấy HS làm trung tâm trong giảng dạy của chƣơng trình THPT thì sẽ phát huy
đƣợc vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của HS, hoạt động hóa, tích cực hoá hoạt
động nhận thức của ngƣời học và phát triển tƣ duy hệ thống, đồng thời đề cao hơn
vai trò của ngƣời thầy. Nếu giải quyết tốt vấn đề dạy học lấy HS làm trung tâm
sẽ nâng cao đƣợc chất lƣợng và hiệu quả giáo dục, thúc đẩy quá trình học tập của HS
dẫn tới giải quyết tốt vấn đề đầu ra, đáp ứng đƣợc nhu cầu cần thiết của xã hội.
VII. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
đƣợc triển khai 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chƣơng 2: Sử dụng mô hình dạy học hợp tác hai chiều để nâng cao tính tích cực
trong hoạt động nhận thức của học sinh.
Chƣơng 3: Một số thực trạng và giải pháp dạy học hợp tác hai chiều ở trƣờng
THPT Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh để nâng cao hiệu quả bài lên lớp.

Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
5

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những vấn đề trong giảng dạy và học tập truyền thống
1.1.1. Khái niệm hoạt động dạy học truyền thống
Truyền thống là một khái niệm đa nghĩa, rộng và đƣợc sử dụng trong nhiều lĩnh

vực, trƣờng hợp khác nhau. Theo nghĩa tổng quát nhất, truyền thống đó là những yếu
tố của di tồn văn hoá, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tƣ tƣởng, phong tục tập
quán, thói quen lối sống và cách ứng xử của cộng đồng ngƣời đƣợc hình thành trong
lịch sử và đã trở nên ổn định, đƣợc truyền từ đời này sang đời khác và đƣợc lƣu giữ
lâu dài.
Lịch sử cho thấy rằng truyền thống mang trong bản thân nó tính hai mặt rõ rệt:
Một là: Truyền thống góp phần suy tôn, giữ gìn những gì là quý giá, là cốt cách,
là nền tảng cho sự phát triển, cho sự vận động đi lên của cộng đồng dân tộc. Xét từ
mặt này thì truyền thống mang ý nghĩa giá trị tích cực, là cái góp phần tạo nên sức
mạnh, là chổ dựa không thể thiếu của dân tộc trên đƣờng đi tới tƣơng lai.
Hai là: Truyền thống đồng thời cũng còn là mảnh đất hết sức thuận lợi cho sự
dung dƣỡng, duy trì và làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời khi mà điều kiện và
hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi. Mặt thứ hai này có ảnh hƣởng không nhỏ trong việc kìm
hãm, níu kéo, làm chậm sự phát triển của một quốc gia, dân tộc nào đó.
Tóm lại, chúng ta chỉ chấp nhận những gì chúng ta nâng niu. Từ đây, cái đƣợc
coi là truyền thống chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận thiết yếu của cuộc sống
chúng ta; chỉ khi nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó có khả năng
phát triển cuộc sống của chúng ta.
Theo Từ điển Tiếng Việt truyền thống nghĩa là những cái gì đã có từ lâu đời,
đƣợc truyền từ đời này sang đời khác. Về mặt phƣơng pháp dạy học truyền thống cũng
phải là những phƣơng pháp, phƣơng tiện, cách thức giảng dạy đã có từ lâu đời mà các
thế hệ đi trƣớc sử dụng trong ngành giáo dục đào tạo và đƣợc lƣu truyền cho đến nay.
Dạy học không chỉ là hoạt động của ngƣời thầy giúp HS tiếp thu kiến thức mà
trên cơ sở kiến thức đƣợc trang bị giúp ngƣời học giải quyết đƣợc các bài toán thực tế
đặt ra trong cuộc sống. Có nhiều cách “định nghĩa” khác nhau về dạy học, song có thể
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
6

hiểu:“Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hƣớng

giúp ngƣời học từng bƣớc có năng lực tƣ duy và năng lực hành động với mục đích
chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà
nhân loại đã đạt đƣợc để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết đƣợc các bài toán thực
tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi ngƣời học”.
Trong quá trình dạy học, ngƣời GV thƣờng tập trung sự cố gắng của mình vào
việc biên soạn nội dung và PPDH.
Trong lý luận dạy học ngƣời ta phân làm hai nhóm phƣơng pháp: PPDH đại
cƣơng và PPDH bộ môn.
Phƣơng pháp dạy học truyền thống: PPDH này lấy hoạt động của ngƣời thầy là
trung tâm. Theo Frire - nhà xã hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng ngƣời Braxin đã gọi
PPDH này là "Hệ thống ban phát kiến thức", là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu
thầy sang đầu trò. Đó cũng là “dạy học thụ động, lấy việc dạy (thầy) làm trung tâm”.
Giáo án dạy theo phƣơng pháp này đƣợc thiết kế kiểu đƣờng thẳng theo hƣớng từ trên
xuống. Nên nội dung bài dạy theo phƣơng pháp truyền thống có tính hệ thống, tính
logic cao.
* Đặc điểm của PPDH truyền thống
Đây là phƣơng pháp dạy học lấy giáo viên làm trung tâm. Đó là mô hình dạy
học truyền thụ một chiều: Dạy – ghi nhớ, chủ yếu nghiêng về lý thuyết.
Với quan niệm này PPDH truyền thống có một số đặc điểm sau:
Về nội dung:
- Nội dung đƣợc quy định bởi một chƣơng trình giảng dạy và tất cả HS học
cùng nội dung ở cùng một thời điểm.
- HS sẽ đƣợc quyền sử dụng thông tin trong giới hạn, do GV lựa chọn hoặc thƣ
viện trƣờng.
- Các chủ đề đƣợc học thƣờng không liên quan đến nhau, đến các lĩnh vực chủ
đề và đến thế giới thực.
- HS học thuộc lòng các sự kiện và đôi khi phân tích thông tin một cách độc lập.
- HS làm việc để tìm ra một câu trả lời đúng.
- GV chọn các hoạt động và cung cấp tài liệu ở cấp độ thích hợp.
Về cách dạy học:

Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
7

- GV là ngƣời cung cấp thông tin - là vị thánh trên bục giảng - giúp HS đạt
đƣợc kĩ năng và kiến thức.
- HS hoàn thành những hoạt động và bài học ngắn, tách rời nhau dựa trên
những mảng nội dung và kỹ năng cụ thể.
- GV là chuyên gia, chỉ ra những điểm yếu của HS.
- Dạy học là một quá trình truyền đạt thông tin.
Về môi trƣờng học tập:
- HS học một cách thụ động trong một lớp học thƣờng là yên lặng.
- HS thƣờng làm việc riêng lẻ, một cách độc lập, không có sự trao đổi hay hoạt
động theo nhóm nhiều để phát huy hết vai trò trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn
nhau
Cách đánh giá:
- HS thi bài thi dùng bút và giấy, một cách yên lặng và riêng lẻ. Câu hỏi đƣợc
giữ bí mật cho đến giờ thi, để HS sẽ phải học tất cả tài liệu mặc dù chỉ kiểm tra một
phần trong đó.
- GV chịu trách nhiệm chủ yếu cho việc học của HS.
- HS bị kích thích một cách không thực chất bởi mong muốn đạt đƣợc điểm tốt,
làm hài lòng GV và giành đƣợc phần thƣởng.
Công nghệ:
- GV sử dụng nhiều loại công nghệ khác nhau để giải thích, chứng minh và
minh hoạ các chủ đề khác nhau.
Qua bao nhiêu lần cải tiến từ thế kỷ này đến thế kỷ khác trong lịch sử giáo dục
thế giới, mô hình đó bao hàm một số lợi thế hiển nhiên nhƣ: Hình nhƣ đó là mô hình
PP tiết kiệm nhất, nhanh nhất, có năng suất lí thuyết cao nhất vì truyền đạt đƣợc một
khối lƣợng kiến thức tối đa trong một thời gian tối thiểu. Đó cũng là phƣơng pháp an
toàn nhất và dễ dàng nhất (trong một chừng mực nào đó) đối với nhà giáo, vì có thể

chuẩn bị sẵn sàng trƣớc bài giảng và chủ động thực hiện theo kế hoạch. Song mô hình
dạy học truyền thống một chiều cũng bao hàm nhiều nhƣợc điểm, nhiều nguy cơ: Về
cơ bản, nếu thầy là trung gian cần thiết giữa trò và tri thức, thì thầy có thể xuất hiện
nhƣ màn ảnh mà cũng có thể là màn che hay là vật cản giữa tri thức và trò. Vì mô hình
dạy học này lấy năng lực, bản lĩnh của thầy làm cơ sở, những gì thầy làm tƣơng ứng
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
8

mật thiết với những gì trò làm, bài giảng của thầy trở thành tri thức tổng thể HS.
“Ngƣời ta quan tâm đến thầy dạy gì, thầy dạy nhƣ thế nào? Mà ít khi tự hỏi: trò học
nhƣ thế nào? Trò có học không? Ngƣời ta xác định đầy đủ các điều kiện dạy mà ít chú
ý đến điều kiện học”.7
Mặc dù mô hình dạy học truyền thống này đã bị phê phán hoặc lên án vì trái với
quy luật phát triển xã hội, đi ngƣợc với mục tiêu giáo dục và đào tạo. Song nó vẫn tồn
tại và chiếm ƣu thế trong nhà trƣờng Việt Nam ngày nay, trong thói quen thầy truyền
cho trò nối từ thế hệ này đến thế hệ khác lâu đời nhất thế gian này.
1.1.2. Các phƣơng pháp dạy học truyền thống
Phƣơng pháp dạy học truyền thống lấy hoạt động dạy của thầy làm trung tâm,
chủ yếu nghiêng về lí thuyết, quan tâm tới nguồn thông tin mà GV cung cấp cho HS và
đƣợc chia thành các nhóm các phƣơng pháp:
- Nhóm PP dùng lời (Trình bày tài liệu bằng lời) có 3 hình thức thƣờng dùng:
Thuyết trình, đàm thoại, kể chuyện.
- Nhóm PP trực quan (Sử dụng các phƣơng tiện trực quan): Bảng đen; tranh ảnh
và các bản vẽ; phim ảnh, đèn chiếu và máy tính điện tử…
- Nhóm PP thực hành (Sử dụng thí nghiệm): Trong PPDH truyền thống các PP
thực hành ít đƣợc chú trọng.
1.1.2.1. Nhóm PP dùng lời
Trong dạy học, GV dùng lời nói là “nguồn” cung cấp, chuyển tải, diễn đạt
những nội dung, kiến thức, thông tin cho HS. Lời nói có tác dụng đến việc hình thành

các khái niệm, tác động đến tƣ duy của HS.
a. Phƣơng pháp thuyết trình
Phƣơng pháp thuyết trình có lẽ là PP giảng dạy phổ biến nhất và quen thuộc
nhất đối với hầu hết các giáo viên, giảng viên. Nhƣng đến nay, PP này còn phát huy
tác dụng hay không? Thuyết trình là một PP giảng dạy truyền thống đƣợc ví bằng
hình ảnh “rót nƣớc vào bình”: giáo viên là ngƣời “rót” những kiến thức cần thiết vào
“chiếc bình” chính là các học sinh, sinh viên. PP truyền đạt này tồn tại từ rất lâu và đã
có nhiều ngƣời đặt ra câu hỏi có nên áp dụng phƣơng pháp thuyết trình ở các trƣờng
THPT, cao đẳng, đại học nữa hay không?
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
9

Phƣơng pháp thuyết trình là một PPDH trong đó GV dùng lời nói, chữ viết để trình
bày, giảng giải nội dung bài học, còn HS chủ yếu thụ động nghe, nhìn, ghi chép, tái
hiện và ghi nhớ nội dung bài học.
Đặc điểm cơ bản nổi bật của phƣơng pháp thuyết trình là: Thầy thông báo, trò
tái hiện sau khi đã lĩnh hội. Gồm các dạng: trần thuật, diễn giảng, giảng giải.
Có những đánh giá tích cực về phƣơng pháp thuyết trình đã làm cho PP này
đƣợc áp dụng rộng rãi trong một thời gian khá dài và cho đến tận ngày nay. Chẳng hạn
nhƣ đây là PP tối ƣu giúp giáo viên có thể truyền đạt một khối lƣợng kiến thức lớn
trong một khoảng thời gian ngắn; cho phép GV truyền đạt những nội dung khó, phức
tạp mà HS không thể tự tìm hiểu lấy đƣợc hoặc có thể bổ sung một số tƣ liệu không có
trong SGK nhƣng quan trọng…
Ví dụ: Khi dạy những môn mang tính khoa học xã hội nhân văn nhƣ văn học,
lịch sử, giáo dục công dân…GV thƣờng sử dụng PP thuyết trình là chủ yếu.
b. Phƣơng pháp đàm thoại
PP này còn đƣợc gọi là PP vấn đáp. Phƣơng pháp đàm thoại là phƣơng pháp
trong đó GV đặt ra một hệ thống câu hỏi, HS sẽ trả lời hay trao đổi với GV hoặc tranh
luận giữa các thành viên trong lớp với nhau, qua đó HS sẽ củng cố, ôn tập kiến thức cũ

và tiếp thu đƣợc kiến thức mới. Trong hệ thống câu hỏi, ngoài các câu hỏi chính còn
có những câu hỏi phụ để gợi ý khi HS gặp khó khăn.
Ngƣời ta thƣờng chia ra hai dạng đàm thoại chính là:
+ Đàm thoại tái hiện (vấn đáp tái hiện): Các câu hỏi, vấn đề do GV đặt ra đòi
hỏi HS nhớ, tái hiện lại kiến thức, kinh nghiệm đã có thì có thể giải quyết đƣợc. Loại
này chủ yếu dùng để ôn tập, củng cố kiến thức.
Ví dụ: GV hỏi HS: Hãy so sánh đặc điểm cấu tạo của anken, ankađien. Khi dạy
bài: Luyện tập anken và ankađien (Hóa học lớp 11 cơ bản).
+ Đàm thoại gợi mở hay vấn đáp tìm tòi: Trong vấn đáp tìm tòi GV luôn đóng
vai trò chỉ đạo, điều khiển hoạt động của HS. Hệ thống câu hỏi của GV giữ vai trò chỉ
đạo, định hƣớng hoạt động nhận thức của HS.
Trong PPDH truyền thống GV thƣờng sử dụng PP vấn đáp tái hiện: GV đặt ra
những câu hỏi chỉ đòi hỏi trò nhớ lại và trả lời trực tiếp, không cần suy luận mà chỉ cần
trí nhớ đơn giản.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
10

Ví dụ: Hãy tóm tắt ngắn gọn (15 dòng) tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.
c. Phƣơng pháp kể chuyện
Giáo viên có thể thông qua những sự kiện kinh tế - xã hội, những câu chuyện
hoặc tác phẩm văn học, phim ảnh… làm tƣ liệu để phân tích, minh họa, khái quát và
rút ra nhận xét, kết luận nhằm xây dựng biểu tƣợng, khắc sâu nội dung kiến thức của
bài học.
Ví dụ: Khi dạy tác phẩm “Nhật kí trong tù” (Hồ Chí Minh – văn học 12). GV
nên kể những câu chuyện về Bác Hồ thời gian ở trong nhà tù Tƣởng Giới Thạch, nếu
có điều kiện thì chiếu các phim ảnh tƣ liệu về chặng đƣờng hoạt động cách mạng của
Bác Hồ ở Quảng Châu - Trung Quốc.
1.1.2.2. Nhóm phương pháp trực quan
Đối với bài giảng của chƣơng trình THPT phƣơng pháp trực quan đƣợc coi là

PP truyền thống. Nhóm PPDH trực quan bao gồm: PP trình bày trực quan; PP làm
mẫu; PP quan sát.
a. Phƣơng pháp trình bày trực quan
Là phƣơng pháp sử dụng các phƣơng tiện dạy học trực quan, các số liệu, tài liệu
khoa học hay thực tế…
Phƣơng tiện dạy học trực quan gồm: Các vật thật, mẫu các chất; Các vật tạo
hình (mô hình, bàn cát, tranh vẽ, dụng cụ ). Các vật tƣợng trƣng (Bản đồ, sơ đồ, đồ
thị, ), Các phƣơng tiện nghe nhìn (máy vi tính, máy chiếu, thiết bị tạo giả âm
thanh ).
Ví dụ: Khi dạy những bài khái quát về vị trí địa lí, đặc điểm địa hình, khí hậu,
sông ngòi…GV sử dụng quả địa cầu, bản đồ…để chuyển tải kiến thức cho HS.
b. Phƣơng pháp làm mẫu
Phƣơng pháp làm mẫu hay là PP minh họa, dùng động tác mẫu, biểu diễn để tạo
ra hình ảnh trực quan và biểu tƣợng cụ thể về đối tƣợng học tập. GV là ngƣời vừa biểu
diễn vừa dùng lời nói hƣớng dẫn HS quan sát.
Ví dụ: Khi dạy các bài thực hành nhƣ dạy HS tháo lắp súng AK, ngắm
bắn…hay điều chế khí Oxi trong phòng thí nghiệm…, GV thƣờng làm mẫu trƣớc và
hƣớng dẫn HS quan sát rồi HS thực hiện theo cách thức đó và lĩnh hội kiến thức.
c. Phƣơng pháp quan sát
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
11

Phƣơng pháp quan sát là cách thức tổ chức cho HS dùng các giác quan hay các
phƣơng tiện để tri giác các sự vật hiện tƣợng, các tài liệu học tập trong những điều
kiện tự nhiên của chúng. (ví dụ: quan sát hiện tƣợng phản ứng hóa học thông qua thí
nghiệm )
Nhận xét:
- Ƣu điểm của nhóm PP trực quan: Huy động đƣợc nhiều giác quan cùng tri
giác thông qua vật thật và tranh vẽ; kích thích và duy trì đƣợc sự chú ý của HS, dễ

hiểu, dễ nhớ, dễ liên hệ thực tiễn. Nên kết hợp PPDH trực quan với các PP khác và
trình bày các phƣơng tiện trực quan đúng lúc, đúng chỗ, đúng nội dung sẽ tạo ấn tƣợng
và tập trung chú ý của HS. Đồ dùng trực quan phải đảm bảo tính giáo dục, thẩm mỹ,
vệ sinh, an toàn.
- Nhƣợc điểm của nhóm PP trực quan: Dễ phân tán chú ý, dễ sa vào những chi
tiết không quan trọng. Khó phát triển tƣ duy trừu tƣợng, khó thấy đƣợc mối liên hệ bản
chất của sự vật hiện tƣợng.
1.1.3. Vai trò tích cực hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình học tập
theo phƣơng pháp truyền thống
Theo PPDH truyền thống thì việc dạy đƣợc xem có ý nghĩa quyết định, thầy là
ngƣời quyết định sự phát triển của trò. Thầy giáo là chủ thể, trung tâm, ngƣời thầy độc
tôn tri thức, học trò chỉ đƣợc quyền nghe chứ không dám thắc mắc, thảo luận, hỏi lại,
“Thầy truyền thụ, trò tiếp thu”, không có giao lƣu, đối thoại, quan hệ thầy trò mất dân
chủ, thiếu khả năng đào tạo một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo.
Với cách dạy học lấy thầy làm trung tâm có thể rất hiệu quả, đặc biệt với:
- Việc chia sẻ thông tin không dễ dàng tìm thấy ở PP khác.
- Việc trình bày thông tin một cách nhanh chóng.
- Việc tạo ra sự quan tâm vào thông tin.
- Việc dạy những HS học tốt nhất bằng cách nghe.
Tuy vậy phƣơng pháp dạy học này cũng có một số hạn chế nhƣ:
- Không phải HS nào cũng học tốt bằng cách nghe.
- Thƣờng khó duy trì lâu sự chú ý của HS.
- PP này có khuynh hƣớng ít hoặc không đòi hỏi tƣ duy phê phán.
- PP này dựa trên giả định là tất cả HS đều có một phong cách học giống nhau.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
12

- Hạn hẹp trong sự tiếp thu thông tin, chƣa phát huy hết năng lực vốn có của
HS.

Theo mô hình dạy học lấy việc dạy (thầy) làm trung tâm, ngƣời thầy tạo ra nội
dung sản phẩm dƣới hình thức bài giảng đƣợc chuẩn bị trƣớc theo đúng chƣơng trình,
SGK, trình độ HS, và một trình tự nhất định nhƣ năm bƣớc lên lớp. Đông thời thầy là
ngƣời tổ chức, quản lý, vận hành, điều chỉnh hoạt động của HS trong lớp. Còn HS phải
có khả năng nghe, nhìn, ghi chép, lặp lại lời thầy Việc lạm dụng cách dạy một chiều,
chỉ có đọc - chép đúng là một tiêu cực nhất định phải loại trừ. Song bản thân việc đọc -
chép vẫn chƣa đƣợc một cái nhìn sòng phẳng. Đọc - chép là một thao tác dạy học tất
yếu trong quá trình tác nghiệp sự phạm. Bản thân PP này không có gì tiêu cực nếu biết
dùng nó đúng lúc. Chúng ta chỉ bài trừ tình trạng lạm dụng thái quá chứ không thể đối
lập nó với nguyên lý giáo dục mới, không nên xem nó là cách dạy truyền thống sai lầm
mà cực đoan không dùng đến nữa.
1.2. Những vấn đề trong giảng dạy và học tập hợp tác hai chiều
1.2.1. Khái niệm hoạt động dạy học hợp tác hai chiều
Giảng dạy là một nghệ thuật hợp tác thì tiến trình học sẽ chắc chắn hơn, bớt
nhọc nhằn hơn nếu đƣợc ngƣời thầy giúp đỡ. Sự hƣớng dẫn có PP của thầy cô giúp
cho việc học của ta - nhấn mạnh là của ta và do ta, dễ dàng và có hiệu quả hơn.
Nhƣ vậy mô hình dạy học hợp tác hai chiều: Dạy – tự học là một hệ thống toàn
vẹn gồm ba thành tố cơ bản: Thầy (dạy), trò (tự học), tri thức. Ba thành tố này luôn
luôn tƣơng tác với nhau thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau theo những quy luật
riêng và nhằm kết hợp chu trình dạy với chu trình tự học làm cho dạy và tự học cộng
hƣởng với nhau tạo ra chất lƣợng, hiệu quả cao. Thực chất là thầy – trò cùng nhau làm
việc, cùng nhau tìm kiếm tri thức trong mối quan hệ thống nhất, hỗ trợ, bổ sung nhau
để cùng phát triển và cùng đạt mục đích dạy học. Một nhiệm vụ mang tính cộng tác là
nhiệm vụ mà ngƣời học không thể giải quyết một mình mà cần thiết phải có sự cộng
tác thực sự giữa thầy cô và các thành viên trong nhóm tuy nhiên vẫn phải đảm bảo
tính độc lập giữa các thành viên. Hơn nữa, ngƣời dạy cần phải có yêu cầu rõ ràng và
tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác giữa ngƣời học. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ
“hợp tác” nhằm nhấn mạnh đến công việc mà ngƣời học tiến hành trong suốt quá trình
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH

13

thực thi nhiệm vụ. Trong quá trình hợp tác, công việc thƣờng đƣợc phân công ngay từ
đầu cho mỗi thành viên.
Thầy - tác nhân Trò - chủ thể Tri thức
(1) Hƣớng dẫn  Tự nghiên cứu  Tri thức cá nhân
(2) Tổ chức  Tự thể hiện  Tri thức xã hội
(3) Trọng tài, cố vấn  Tự kiểm tra  Tri thức khoa học
Kết luận, kiểm tra  Tự điều chỉnh  Tri thức khoa học
Trong các giờ học nghiên cứu bài mới, luyện tập, ôn tập củng cố kiến thức GV là
ngƣời nêu yêu cầu của tiết học, vạch rõ nội dung của bài học cần đạt đƣợc, GV hƣớng
dẫn HS tự nghiên cứu, suy nghĩ và trả lời, tổ chức cho HS trong lớp cùng trao đổi kiến
thức, đánh giá lẫn nhau; sau đó GV là ngƣời trọng tài, cố vấn cho quá trình trao đổi đó,
GV kiểm tra và kết luận kết quả cuối cùng cho HS lĩnh hội kiến thức. (Ví dụ: GV hỏi
HS: Có hiện tƣợng gì xảy ra khi cho Ca vào dung dịch NaOH. Từng HS sẽ tự động tìm
câu trả lời, sau đó tự thể hiện kết quả trƣớc GV và cả lớp. HS trong lớp nhận xét kết
quả đó, nếu thiếu sót thì HS khác bổ sung. Sau đó GV chốt lại kết quả cuối cùng, HS
tự kiểm tra, tự điều chỉnh và lĩnh hội kiến thức bài học.)
1.2.2. Quan điểm phƣơng pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”
Trong lí luận dạy học có hai quan điểm về vai trò của GV và HS. Quan điểm
thứ nhất tập trung vào vai trò của GV (dạy học lấy GV làm trung tâm) và quan điểm
thứ hai tập trung vào vai trò của HS (dạy học lấy HS làm trung tâm). Ngày nay, quan
điểm hƣớng đến biện pháp giải phóng ngƣời học, cải thiện mối quan hệ thầy trò đƣợc
nhiều ngƣời quan tâm, đó là vấn đề dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”. Nội dung
của tƣ tƣởng này gồm các vấn đề sau:
- Chú ý đến ngƣời học về các mặt trình độ kiến thức, đặc điểm và khả năng
nhận thức.
- Kích thích hứng thú học tập của HS.
- Phát huy tối đa năng lực độc lập suy nghĩ, tìm tòi, khả năng nhận thức độc lập
của HS.

- Tăng cƣờng các biện pháp cá nhân hóa hoạt động học tập của ngƣời học.
- Tìm mọi biện pháp nhằm phát huy sức mạnh ý chí của HS trong học tập.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
14

- Chú trọng công tác kiểm tra đánh giá, thƣờng xuyên kiểm tra đánh giá đối với
từng cá nhân ngƣời học.
Ta có thể so sánh hai quan điểm đã trình bày ở trên theo bảng sau:
Bảng 1.1

DH lấy GV làm trung tâm
DH lấy HS làm trung tâm

Mục tiêu
Truyền đạt hết kiến thức qui
định trong chƣơng trình –
SGK. Ít chú ý đến nhu cầu và
khả năng HS.
Chú trọng chuẩn bị cho HS sớm
thích ứng với xã hội, góp phần phát
triển cộng đồng, chú ý đến nhu cầu
và khả năng HS.

Nội dung
Thiết kế chủ yếu theo logic
môn học, chú trọng hệ thống
kiến thức, phát triển lí thuyết
tuần tự.
Chú trọng năng lực phát hiện và giải

quyết vấn đề, kĩ năng thực hành và
vận dụng kiến thức lí thuyết.




Phương pháp
Thuyết trình, giảng giải.
Thầy nói, trò ghi chép.
HS tiếp thu thụ động.
Làm việc theo lớp.
Giáo án đƣợc thiết kế theo
đƣờng thẳng.
Ít sử dụng phƣơng pháp nêu
vấn đề.
GV là ngƣời chỉ đạo hƣớng dẫn HS
xây dựng bài học.
Chú trọng PP tự học của HS.
Phát huy tính tìm tòi độc lập.
Học tập theo nhóm, thảo luận nhóm,
thực hành, thí nghiệm, thâm nhập
thực tế.
Giáo án đƣợc thiết kế phân nhánh.
Chú trọng phƣơng pháp nêu vấn đề.

PPDH tích cực lấy ngƣời học làm trung tâm còn gọi là hệ PP dạy - tự học, đƣợc
xem nhƣ là một hệ thống PPDH có thể đáp ứng đƣợc các yêu cầu cơ bản của mục tiêu
giáo dục trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Nhƣ vậy quan niệm về dạy học phát triển dần từ chỗ “lấy ngƣời dạy” làm trung
tâm của các hoạt động dạy và học sang “lấy ngƣời học làm trung tâm”. Trong ý nghĩa

mới nhất của quan niệm dạy học đó thì:
“Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể
hiện và tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị con ngƣời mình bằng cách thu nhận
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
15

và xử lí thông tin lấy từ môi trƣờng sống chung quanh mình”.Và dạy chính là: “Dạy
cách học”.5
1/ Về mục tiêu dạy học
Xem việc học, năng lực tự học là nhân tố quyết định sự phát triển bản thân
ngƣời học. Trò là chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lí, bằng hành
động của chính mình, tự phát triển từ bên trong. Thầy là tác nhân, hƣớng dẫn, tổ chức,
đạo diễn cho trò tự học. Đó chính là “mô hình dạy học tích cực lấy ngƣời học làm
trung tâm”, gọi tắt theo đúng thực chất của nó là: Mô hình dạy – tự học. Thực hiện mô
hình dạy học này với các mục tiêu dạy học giáo dục cho HS nhƣ sau:
- Mục tiêu nhận thức: Giúp ngƣời học nắm vững kiến thức hơn (vì đƣợc tự
khám phá và trao đổi với nhiều ngƣời).
- Mục tiêu kỹ năng: Giúp ngƣời học rèn luyện các kỹ năng tƣ duy (phân tích,
suy luận, tổng hợp, đánh giá, giải quyết vấn đề…) và kỹ năng xã hội (giao tiếp, trình
bày, tranh luận, lắng nghe, hợp tác, lãnh đạo…)
- Mục tiêu thái độ: Giúp ngƣời học yêu thích môn học hơn, gắn bó với bạn bè
hơn, có ý thức với tập thể hơn, biết dân chủ hơn.
2/ Về nội dung dạy học
- HS học các chủ đề dựa trên chƣơng trình giảng dạy và chuẩn hoá kiến thức,
kỹ năng nhƣng đƣợc phép có nhiều lựa chọn trong một chủ đề học.
- HS đƣợc quyền sử dụng không hạn chế thông tin có các cấp độ chất lƣợng đa
dạng.
- HS học nội dung có liên quan đến tất cả các chủ đề và đến thế giới thật.
- HS thƣờng xuyên tham gia vào việc phân tích, đánh giá và tổng hợp ở mức độ

cao đủ loại tài liệu khác nhau.
- HS làm việc để xây dựng bất cứ câu trả lời nào trong số những câu trả lời có
thể.
- HS lựa chọn từ các hoạt động khác nhau do giáo viên cung cấp và thƣờng
quyết định cấp độ thử thách cho riêng họ làm việc.
3/ Về phương pháp dạy học
Ngƣời ta coi trọng việc tổ chức cho HS hoạt động độc lập hoặc theo nhóm (thảo
luận, làm thí nghiệm, quan sát vật mẫu, phân tích bảng số liệu…), thông qua đó HS
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
16

vừa tự lực nắm các tri thức, kĩ năng mới, đồng thời đƣợc rèn luyện về phƣơng pháp tự
học, đƣợc tập dƣợt phƣơng pháp nghiên cứu. GV quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và
kinh nghiệm của từng cá nhân và của tập thể HS để xây dựng bài học, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự bộc lộ và phát triển tiềm năng của mỗi em.
- GV là ngƣời hƣớng dẫn bên cạnh cung cấp cơ hội cho HS áp dụng các kỹ
năng và xây dựng kiến thức cho riêng mình.
- HS là chủ thể và GV dựa vào những điểm mạnh của HS.
- Dạy học là một quá trình tự kiến tạo.
- HS thực hiện các hoạt động và các dự án liên quan đến những mục tiêu lâu dài
nhằm xây dựng sự hiểu biết khái niệm sâu sắc và việc sử dụng phƣơng pháp thành
thạo.
4/ Về hình thức tổ chức dạy học
Thƣờng dùng bàn ghế cá nhân, có thể bố trí thay đổi linh hoạt cho phù hợp với
hoạt động học tập trong tiết học, thậm chí theo yêu cầu sƣ phạm của từng phần trong
tiết học. Nhiều bài học đƣợc tiến hành trong phòng thí nghiệm, ngoài trời, tại Viện bảo
tàng hay cơ sở sản xuất…
 Môi trƣờng lớp học:
- Môi trƣờng lớp học giống một nơi làm việc năng động với nhiều loại hoạt

động và mức độ ồn ào khác nhau.
- HS thƣờng cộng tác với bạn học, chuyên gia, các thành viên cộng đồng và
GV.
 Công nghệ:
- HS sử dụng các loại công nghệ khác nhau để làm nghiên cứu, trao đổi thông
tin và tạo ra kiến thức.
5/ Về kiểm tra – đánh giá
Khâu kiểm tra - đánh giá chất lƣợng, hiệu quả dạy học có tác dụng quan trọng
đến việc điều chỉnh cách dạy, cách học, đảm bảo thực hiện nội dung và mục tiêu đã
quy định. HS tự giác chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình, đƣợc tham gia tự
đánh giá và tự đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt các mục tiêu của từng phần trong
chƣơng trình học tập, chú trọng bổ khuyết những mặt chƣa đạt đƣợc so với mục tiêu
trƣớc khi bƣớc vào một phần mới của chƣơng trình. GV phải hƣớng dẫn cho HS phát
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
17

triển kĩ năng tự đánh giá, không thể chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện kiến thức, lặp lại kĩ
năng đã học mà phải khuyến khích óc sáng tạo, phát hiện sự chuyển biến thái độ và xu
hƣớng hành vi của HS trƣớc những vấn đề của đời sống gia đình và cộng đồng, rèn
luyện khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong tình huống thực
tế. Việc sử dụng các phƣơng tiện kĩ thuật sẽ tạo điều kiện tăng nhịp độ kiểm tra, giúp
HS có thể thƣờng xuyên tự kiểm tra, làm giảm nhẹ lao động chấm bài của GV.
- HS biết rõ họ sẽ đƣợc đánh giá nhƣ thế nào, hiểu đƣợc các tiêu chí theo đó họ
sẽ đƣợc đánh giá, nhận ý kiến phản hồi từ GV và bạn học của họ trong suốt bài học và
có nhiều cơ hội để đánh giá cách học của riêng mình. Khuyến khích HS tự đánh giá,
đánh giá lẫn nhau.
- GV và HS chia sẻ trách nhiệm đối với thành tích học tập đạt đƣợc.
- Sự quan tâm và đam mê của HS thúc đẩy sự kích thích và nỗ lực có giá trị bản
chất.

Ví dụ: Trong các giờ học, giờ sinh hoạt lớp, giờ ngoại khóa cho HS kiểm tra,
nhận xét, đánh giá lẫn nhau về cách thức trình bày, lập luận, lí lẽ giải thích, kết quả của
các bài tập nhóm hay bài tập cá nhân…mà GV đã giao nhiệm vụ. Sau đó GV chốt lại
kết quả, đánh giá đúng thực chất.
1.2.3. Các phƣơng pháp dạy học hợp tác hai chiều
1.2.3.1. Dạy cách học
“Trong nhà trƣờng điều chủ yếu không phải là nhồi nhét cho học trò một mớ kiến
thức hỗn độn… mà là giáo dục cho học trò phƣơng pháp suy nghĩ, phƣơng pháp
nghiên cứu, phƣơng pháp học tập, phƣơng pháp giải quyết vấn đề” (Phạm Văn Đồng,
1969); “Giáo dục của dân, vì dân và do dân”, “Biến quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục”, “Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học”3. Vì vậy thầy
giáo phải là thầy dạy việc học, là chuyên gia của việc học, dạy cho HS cách học.
Ngày nay (Thế kỷ 21) dạy cách học đã trở thành một trong những mục tiêu đào
tạo chứ không còn là một trong những giải pháp nâng cao chất lƣợng và hiệu quả đào
tạo. Việc đổi mới PPDH là dạy HS cách tự học, tự nghiên cứu, cụ thể là:
- Dạy cách lập kế hoạch học tập
+ Dạy cách lập kế hoạch phấn đấu: kế hoạch phải thể hiện đƣợc mục tiêu phấn
đấu; phân biệt đƣợc việc chính với việc phụ, việc làm ngay với việc sẽ phải làm.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
18

+ Dạy cách lập kế hoạch sử dụng thời gian: Có kế hoạch phân bổ thời gian cụ
thể từng tuần, ngày dựa trên kế hoạch học tập của kỳ, năm học để làm chủ đƣợc quỹ
thời gian và không quên các việc sẽ phải làm…
- Dạy cách nghe giảng và ghi bài trên lớp
+ Dạy nguyên tắc chính của nghe – ghi: Nghe ghi đầy đủ, tỷ mĩ; kết hợp đồng
thời thính giác, thị giác và tri giác, nhờ đó hiểu và tái hiện thông tin – tri thức một cách
dễ dàng và sâu sắc nhất.
+ Dạy thủ thuật nghe – ghi: Tùy theo đặc điểm của từng môn học, dạy cách viết

tắt, viết ghạch chân, viết công thức… để nhấn mạnh và dễ nhớ.
- Dạy cách học bài
+ Dạy cách tự học: Học theo các bậc nhận thức cao của Blom (học: vận dụng,
phân tích, tổng hợp, bình luận đánh giá); học tƣ duy logic, tƣ duy trừu tƣợng, tƣ duy
sáng tạo trong mối quan hệ hệ thống của các kiến thức. Khi nghiên cứu một vấn đề cần
đặt ra những câu hỏi xoay quanh chủ đề: Các khái niệm cơ bản, các hệ quả của khái
niệm…
+ Dạy cách học nhóm: Học cách giao tiếp, học cách trình bày diễn giải bằng
lời, học cách thuyết phục ngƣời khác, học cách quản lí và tổ chức tự học một nhóm
nhỏ học tập đến một hội thảo, học cách tham khảo trí tuệ của bạn học…
- Dạy cách đọc sách
+ Dạy cách chọn sách đọc: Chọn sách phù hợp với mục tiêu môn học, chọn
sách phù hợp với trình độ ngƣời học, chọn sách để đào sâu, học rộng…
+ Dạy cách đọc sách và ghi chép: Khi đọc sách cần biết chọn lọc và lƣu giữ
thông tin liên quan đến bài giảng để bổ sung bài giảng và để tự học nâng cao tri thức,
năng lực…
- Dạy cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề: Chọn vấn đề, nghiên cứu vấn đề
(thu thập tƣ liệu, phân tích, tổng hợp, bình luận đánh giá…), giải quyết vấn đề (PP giải
quyết, các bƣớc triển khai, kiểm tra đánh giá kết quả giải quyết vấn đề).
Khi dạy cách học cũng nhƣ cách tự học ngƣời dạy cần chú ý các điểm sau:

Học: Cốt lõi là tự học. Ngƣời học tự nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức, tự tìm ra
ý nghĩa, tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lƣợm và xử lí thông
tin từ môi trƣờng sống xung quanh mình. Ngƣời học giỏi là ngƣời biết tự học sáng tạo
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
19

suốt đời. Song tự học, không có nghĩa là học một mình, đơn thân độc mã, mà học
trong sự hợp tác với các bạn, trong môi trƣờng xã hội, dƣới sự hƣớng dẫn của thầy để

tự mình chiếm lĩnh tri thức bằng hành động của chính mình.
Bác Hồ - tấm gƣơng sáng về tự học – đã dạy: “Về cách học, phải lấy tự học làm
cốt”.

Hỏi: Học phải hỏi thì mới hiểu, hỏi để học. Hỏi có thể là tự hỏi hoặc hỏi
ngƣời khác. Những vấn đề quan trọng mà bạn cần phải học thƣờng chính là câu trả lời
cho những câu hỏi. Câu hỏi nên tập trung vào nội dung học (Cái gì, tại sao, bằng cách
nào, ngƣời nào, khi nào và ở đâu). Trong quá trình đọc hay học, bạn nên tự đặt cho
mình nhiều câu hỏi và sau đó tự trả lời. Làm nhƣ vậy bạn sẽ tiếp thu tài liệu hơn và
nhớ các chi tiết dễ dàng hơn, vì quá trình này sẽ để lại một dấu ân sâu sắc hơn trong ký
ức của bạn. Đừng ngại ghi lại những câu hỏi lên lề sách, tập chép hay bất cứ nơi nào
bạn cảm thấy thuận tiện.

Hiểu: Là có thể hồi ức hay tái xây dựng đa dạng một thông tin. Hiểu là phải
diễn tả, giải thích (cắt nghĩa, làm sáng tỏ hay chứng minh), suy luận, trừu tƣợng hóa
nội dung, kiến thức bằng “ngôn ngữ” khác của chính ngƣời học. Đã học thì phải hiểu.
Không hiểu thì coi là chƣa học.

Hành: Tức là vận dụng kiến thức, nguyên lí hay lí thuyết mà ngƣời học thu
nhận đƣợc vào thực tiễn. Mức độ vận dụng cũng từ thấp tới cao, từ ứng dụng một cách
máy móc đến sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn, từ giải quyết những vấn đề, bài
toán tƣơng tự gần gũi tới việc giải quyết những vấn đề phức tạp và những bài toán hóc
búa, từ vận dụng để giải quyết những vấn đề mang tính kiến thức đơn lẽ sang giải
quyết các vấn đề phức hợp liên quan.
Đã hiểu thì phải hành. Hành là mục đích của học. Ngƣời ta thƣờng nói “học
hành” nghĩa là học đi đôi với hành, học để hành và hành để học. Ví dụ: Muốn giỏi toán
thì phải làm nhiều bài tập, cùng một công thức hay một định lí có thể áp dụng để giải
nhiều dạng toán khác nhau… Đối với các môn khoa học xã hội, muốn thành công cũng
phải thƣờng xuyên vận dụng thì kiến thức mới nhuần nhuyễn đƣợc. Đòi hỏi ngƣời tự
học cần luôn đặt ra những câu hỏi và làm đề cƣơng trả lời các câu hỏi khó, kể cả câu

hỏi trong sách, câu hỏi do mình hay bạn mình đặt ra. Luôn có ý thức tìm thêm các ví
dụ minh họa, sƣu tầm các tài liệu liên quan, chịu khó đọc và tóm tắt các tác phẩm, bài
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
20

báo, tiểu luận có liên quan; Tập diễn đạt, trình bày (viết, nói) về các chủ điểm… Đối
với các môn khoa học thực nghiệm không những học lí thuyết suông mà cần coi trọng
các thí nghiệm thực hành; Làm hay thao tác quan sát một thí nghiệm cũng đã quan
trọng, song điều quan trọng hơn là thấy đƣợc ý nghĩa của ứng dụng đó, nó soi sáng
đƣợc điều gì trong lí thuyết và nó có gợi mở cho ta thêm những ứng dụng vào môn học
khác hay vào trong thực tiễn đời sống và nghiệp vụ của mình hay không.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhƣng ngƣợc lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hƣởng tới cách dạy của thầy.
Chẳng hạn, có trƣờng hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhƣng GV
chƣa đáp ứng đƣợc, hoặc có trƣờng hợp GV hăng hái áp dụng PPDH tích cực nhƣng
không thành công vì HS chƣa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy,
GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho HS phƣơng pháp
học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới PPDH phải có sự
hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học
thì mới thành công. Nhƣ vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt
với "Dạy và học thụ động".
1.2.3.2. Các phương pháp tích cực
a. Tính tích cực
Tính tích cực (TTC) là phẩm chất quan trọng của nhân cách, thể hiện ở sự nổ
lực cố gắng của cá nhân, đƣợc kích thích bởi động cơ và nhu cầu nhất định trong quá
trình tác động đến đối tƣợng nhằm đạt đƣợc những kết quả cao trong hoạt động. TTC
là một phẩm chất vốn có của con ngƣời, bởi vì để tồn tại và phát triển con ngƣời luôn
phải chủ động, tìm tòi, khám phá, tích cực cải biến môi trƣờng tự nhiên, cải tạo xã hội.
Tuy vậy TTC có mặt tự phát và tự giác. Theo Thái Duy Tuyên, mặt tự phát của TTC là

những yếu tố tiềm ẩn bên trong, bẩm sinh, thể hiện ở tính tò mò, hiếu kì, linh hoạt
trong đời sống hàng ngày. Mặt tự giác của TTC là trạng thái tâm lí TTC có mục đích
và đối tƣợng rõ rệt, do đó có hoạt động để chiếm lĩnh đối tƣợng đó. TTC tự giác thể
hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tƣ duy, trí tò mò khoa học… Nhờ TTC tự giác,
có ý thức, con ngƣời có thể đạt đƣợc nhiều tiến bộ trong đời sống và phát triển nhanh
hơn so với TTC tự phát. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC xã hội là một trong
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
21

những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con ngƣời năng động,
thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng.
Khi bàn về TTC có nhiều quan điểm khác nhau, dƣới nhiều góc độ khác nhau
nhƣ triết học, ngôn ngữ học, tâm lý học… với nhiều tác gia từ thời cận đại đến nay
xem xét…
Dƣới góc độ các nhà triết học nhƣ Mac - Anghen, V.I.Lê Nin thì TTC chính là
thái độ cải tạo và biến đổi chủ thể đối với khách thể vì thế nó có vai trò quan trọng
trong việc tạo ra và biến đổi, cải tạo thế giới hiện thực khách quan.
Trong các công trình nghiên cứu của một số nhà tâm lý học thì xem TTC nhƣ
một phẩm chất của cá nhân gắn liền với hoạt động. Theo họ, một con ngƣời tích cực là
con ngƣời đó đang ở trạng thái hoạt động. TTC làm xuất hiện động lực và dẫn đến
hành động cụ thể, là biểu hiện trạng thái bên trong của chủ thể đối với môi trƣờng.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học, 1999), tích cực nghĩa là có ý
nghĩa, có tác dụng khẳng định, thúc đẩy sự phát triển. Ngƣời tích cực là ngƣời tỏ ra
chủ động, hăng hái, nhiệt tình với nhiệm vụ đƣợc giao, có những hành động nhằm tạo
ra sự biến đổi theo hƣớng phát triển.
b. Tích cực học tập
Tính tích cực học tập - về thực chất là TTC nhận thức, đặc trƣng ở khát vọng
hiểu biết, cố gắng trí tuệ và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. TTC
nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trƣớc hết với động cơ học tập. Động cơ

đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác 1. Hứng thú và tự giác là hai
yếu tố tạo nên TTC. TTC sản sinh nếp tƣ duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống
của sáng tạo. Ngƣợc lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự
giác, hứng thú, bồi dƣỡng động cơ học tập. TTC học tập biểu hiện ở những dấu hiệu
nhƣ: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích
phát biểu ý kiến của mình trƣớc vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn
kẽ những vấn đề chƣa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận
thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập,
không nản trƣớc những tình huống khó khăn… Đến một trình độ nhất định thì sự học
tập tích cực sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và ngƣời học có thể khám phá ra những
tri thức mới cho khoa học.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
22

TTC học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao nhƣ:
- Bắt chƣớc: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau
về một số vấn đề…
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Trong thực tế dạy học hiện nay, nhiều GV đã cố gắng tạo điều kiện để HS tích
cực học tập, đƣợc nói nhiều hơn, đƣợc làm việc nhiều hơn. HS phải khám phá ra
những hiểu biết mới dƣới sự tổ chức và hƣớng dẫn của GV. HS đã tích cực thực hiện
nhiệm vụ theo sự điều khiển của GV, nhƣng chƣa chủ động và thiếu sự sáng tạo, còn
mang tính rập khuôn, máy móc. Học tập nhƣ vậy là học tập tích cực mang tính hình
thức. Học tập tích cực thực sự thể hiện ở mức độ tham gia, tích cực chủ động và sáng
tạo của ngƣời học trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập.
Bảng 1.2 1
Biểu hiện của học tập tích cực hình thức
Biểu hiện của học tậptích cực thực sự

1. HS giơ tay phát biểu, nhƣng theo phong
trào. Khi yêu cầu trả lời thì im lặng hoặc
tìm sự giúp đỡ, hoặc trả lời không đúng nội
dung câu hỏi.
1. HS hăng hái trả lời câu hỏi của GV và
bổ sung câu trả lời của bạn, chỉ ra những
chổ đƣợc, chƣa đƣợc và nêu lí do,
nguyên nhân chƣa đƣợc. Có thể câu trả
lời chƣa hoàn toàn đúng nhƣng thể hiện
sự tích cực tham gia vào hoạt động.
2. Tham gia các hoạt động, nhƣng ít tƣ duy,
động não.
2. HS thích thú tham gia vào các hoạt
động: suy nghĩ, trao đổi, thảo luận, thực
hành, thao tác với đồ dùng học tập để
lĩnh hội kiến thức.
3. Thiếu tập trung vào các nội dung trong
giờ học, ít hứng thú với nhiệm vụ đƣợc
giao.
3. Tập trung chú ý vào vấn đề đang học,
kiên trì hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.
4. Ít đặt câu hỏi với GV và với bạn về nội
dung bài học.
4. Hay hỏi bạn và GV về nội dung bài
học.
5. Chỉ một số thành viên (nhóm trƣởng )
làm việc, các thành viên khác không làm
5. Trao đổi cùng nhau, có sự phân công
cự thể cho mọi thành viên tham gia thực
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
23

việc, thƣờng ngồi chơi, xem, quan sát bạn
làm.
sự vào các hoạt động. Ý kiến cá nhân
đƣợc tôn trọng và đi đến thống nhất ý
kiến.
6. Kết quả học tập chƣa cao, thiếu tính chủ
động, phụ thuộc nhiều vào GV.
6. Học sâu, học thoải mái, tính độc lập
cao, không chờ đợi, lệ thuộc vào sự giúp
đỡ của GV.
c. Dấu hiệu đặc trƣng của các phƣơng pháp dạy học tích cực
Mục đích của dạy và học tích cực là nhằm phát triển ở ngƣời học năng lực sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề, do đó đề cao vai trò của ngƣời học: học bằng hoạt
động, thông qua hoạt động của chính ngƣời học, để chiếm lĩnh kiến thức, hình thành
năng lực và những phẩm chất của ngƣời lao động. GV giữ vai trò là ngƣời tổ chức,
hƣớng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt cho HS có thể thực hiện các hoạt động học tập
một cách có hiệu quả.
Trƣớc hết ta hãy bàn về những dấu hiệu đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học
tích cực mà ngƣời thầy giáo sử dụng trong các giờ học.
Thứ nhất: Dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của HS.
Nét đặc thù của hoạt động dạy học là: HS vừa là đối tƣợng vừa là chủ thể của
quá trình dạy học. HS không chỉ tiếp thu những kiến thức từ ngƣời dạy, mà phải thông
qua hoạt động tự lực để chiếm lĩnh nó và làm biến đổi bản thân. Tâm lí học sƣ phạm
cũng khẳng định rằng: nhân cách của trẻ đƣợc hình thành và phát triển thông qua các
hoạt động có ý thức của chủ thể. Vì vậy có thể nói, hoạt động học là cách tốt nhất để
làm biến đổi chính ngƣời học. Dạy học không còn là sự truyền thông tin từ thầy sang
trò, thầy không còn là ngƣời truyền thông tin mà phải là ngƣời tổ chức, hƣớng dẫn,

điều khiển các hoạt động học tập của HS.
Thứ hai: Chú trọng rèn luyện phƣơng pháp tự học hơn là việc truyền thụ kiến
thức.
Rèn luyện cho HS phƣơng pháp tự học không chỉ là biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu của dạy học. Con ngƣời đƣợc đào tạo trƣớc hết
phải là con ngƣời năng động, có tính tích cực, có khả năng tự học, tự nghiên cứu để tự
hoàn thiện mình. Trong các PP học thì cốt lõi là PP tự học. Nếu rèn luyện cho ngƣời
học có đƣợc phƣơng pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
24

học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con ngƣời, kết quả học tập sẽ đƣợc nhân lên
gấp bội. Vì vậy, ngày nay ngƣời ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy
học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề
phát triển tự học ngay trong trƣờng phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp
mà tự học cả trong tiết học có sự hƣớng dẫn của GV.
Mặt khác, trong một thời gian ngắn nhà trƣờng phổ thông không thể kịp trang
bị cho HS những kiến thức cần thiết trong kho tàng kiến thức của nhân loại đang ngày
một phong phú thêm. Do vậy, ngƣời thầy phải tìm cách hình thành ở HS phƣơng pháp
và năng lực tự học, tự nghiên cứu để có thể tự chiếm lĩnh kiến thức và hoàn thiện bản
thân sau này.
Thứ ba: Tăng cƣờng tính tự lực của cá nhân HS đồng thời chú trọng phối hợp
tƣơng tác thầy – trò và tƣơng tác nhóm.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tƣ duy của HS không thể đồng đều
tuyệt đối thì khi áp dụng PP tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cƣờng độ,
tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học đƣợc thiết kế thành một chuỗi
công tác độc lập.
PPDH tích cực đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực của mỗi HS trong quá trình tự
chiếm lĩnh kiến thức mới. Vì vậy, phải chú ý đến vai trò của từng cá nhân trong hoạt

động dạy học. Tuy nhiên, vai trò cá nhân chỉ có thể phát huy tốt thông qua sự tƣơng
tác giữa GV - HS, giữa HS - HS và tƣơng tác giữa các nhóm với nhau, đó chính là PP
học tập hợp tác. Trong PP này, ngƣời ta đề cao vai trò giao tiếp giữa HS và HS. Thông
qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân đƣợc bộc lộ, khẳng định
hay bác bỏ, qua đó ngƣời học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng đƣợc
vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của ngƣời thầy giáo. Để phát huy vai trò của HS
ngƣời ta thƣờng tổ chức việc học tập hợp tác theo kiểu nhóm, tổ từ 4 đến 6 ngƣời. Học
tập nhóm, tổ tạo cho HS có nhiều cơ hội bộc lộ suy nghĩ, hiểu biết và thái độ của mình,
cũng nhƣ biết cách bảo vệ ý kiến của mình. Đó là cách tốt nhất để hình thành cho HS
tính tích cực, độc lập và sáng tạo trong suy nghĩ, cũng nhƣ hành động.
Thứ tƣ: Kết hợp đánh giá của GV và tự đánh giá của HS
Trong dạy học, việc đánh giá HS không chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định
Khóa luận tốt nghiệp GVHD:ThS. Phan Văn An
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh Lớp: 08SHH
25

thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trƣớc đây GV giữ độc quyền đánh
giá HS. Trong PPDH tích cực, GV phải hƣớng dẫn HS phát triển kĩ năng tự đánh giá
để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, GV cần tạo điều kiện thuận lợi để
HS đƣợc tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp
thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trƣờng phải trang bị
cho HS.
Theo hƣớng phát triển các PPDH tích cực để đào tạo những con ngƣời năng
động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng
lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí
thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.
Quá trình dạy học bao gồm hai hoạt động dạy và học, với hai chủ thể là GV và
HS. Trong quá trình này luôn có sự điều chỉnh và tự điều chỉnh. Vì vậy, ngoài sự đánh
giá của GV, phải có sự tự đánh giá của HS. Qua tự đánh giá, HS sẽ đƣa ra những nhận

định về bản thân và tự điều chỉnh cách học của mình cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu
quả học tập. Trong PPDH tích cực, ngƣời ta chú trọng đến việc dạy cho HS cách tự
học đi kèm theo là năng lực tự đánh giá của HS. Thiếu năng lực này HS không thể tự
điều chỉnh cách học của mình và không hoàn chỉnh đƣợc PP tự học. Nhƣ vậy, năng lực
tự học luôn gắn liền với năng lực tự đánh giá, tự điều chỉnh, mà tự học là dấu hiệu của
tính tích cực. Do vậy, khả năng rèn luyện năng lực tự đánh giá của HS cũng là một dấu
hiệu của PPDH tích cực.
Ngoài những dấu hiệu trên thì PPDH tích cực còn có thêm một số dấu hiệu sau:
- Dạy và học chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của HS, nhu cầu và lợi ích
của xã hội.
Dƣới sự hƣớng dẫn của GV, HS đƣợc chủ động lựa chọn vấn đề mà mình quan
tâm ham thích, tự lực tiến hành nghiên cứu giải quyết vấn đề và trình bày kết quả. Đó
là đặc trƣng lấy HS làm trung tâm. Việc nghiên cứu có thể tiến hành theo cá nhân hoặc
theo nhóm nhỏ. Các chủ đề, nội dung tìm hiểu, nghiên cứu có thể do HS tự đề xuất
hoặc lựa chọn trong số các chủ đề, nội dung do GV giới thiệu, định hƣớng. Các chủ
đề, nội dung gắn với nhu cầu, lợi ích của ngƣời học cũng nhƣ thực tiễn của xã hội.
Điều này làm cho kiến thức có tính ứng dụng cao và ngƣời học hiểu đƣợc giá trị, tác
dụng, sự cần thiết của những kiến thức đó trong cuộc sống thực tiễn, xã hội.

×