Tải bản đầy đủ (.ppt) (80 trang)

Giả thuyết kiến tạo mảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 80 trang )





Trường Đại Học Sư Phạm TP.HCM
Trường Đại Học Sư Phạm TP.HCM
Khoa Địa Lý
Khoa Địa Lý
Lớp 1A_K34
Lớp 1A_K34






BÀI TẬP
BÀI TẬP
ĐỊA CHẤT ĐẠI CƯƠNG
ĐỊA CHẤT ĐẠI CƯƠNG




Chủ đề 6
Chủ đề 6
GIẢ THUYẾT

GIẢ THUYẾT


KIẾN TẠO MẢNG
KIẾN TẠO MẢNG




GVHD:
GVHD:
Thạc sĩ

Thạc sĩ
Châu Hồng Thắng
Châu Hồng Thắng
NHÓM SVTH:
NHÓM SVTH:
1.Trần Ngọc Anh
1.Trần Ngọc Anh
2.Trần Thế Hiển
2.Trần Thế Hiển
3.Dương Minh Hoàng
3.Dương Minh Hoàng
4.Trần Thức

4.Trần Thức




CÁC NỘI DUNG CHÍNH:
CÁC NỘI DUNG CHÍNH:
A_KHÁI QUÁT VỀ THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG
A_KHÁI QUÁT VỀ THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG
B_MỘT SỐ HỌC THUYẾT RA ĐỜI TRƯỚC THUYẾT
B_MỘT SỐ HỌC THUYẾT RA ĐỜI TRƯỚC THUYẾT
KIẾN TẠO MẢNG

KIẾN TẠO MẢNG


I.THUYẾT TRÔI DẠT LỤC ĐỊA
I.THUYẾT TRÔI DẠT LỤC ĐỊA


II.THUYẾT TÁCH GIÃN ĐÁY ĐẠI DƯƠNG
II.THUYẾT TÁCH GIÃN ĐÁY ĐẠI DƯƠNG


C_THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG

C_THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG

A_KHÁI QUÁT VỀ THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG.
Khái niệm.

Thuyết kiến tạo mảng là một học thuyết giải thích các
chuyển động kiến tạo và các quá trình diễn biến địa
chất của Trái Đất theo cơ chế động.
Nguồn gốc.

Nguồn gốc của các quá trình địa chất nội sinh:
sự dịch chuyển của thạch quyển trên quyển mềm 

các lực tiếp tuyến (lực ngang) tác động vào vật chất
của thạch quyển  các hiện tượng: uốn nếp, đứt gãy,
tạo núi, động đất, núi lửa…

Học thuyết kiến tạo mảng bắt nguồn từ một số dữ kiện
và giả thuyết kiến tạo động đã có trước (thuyết “Trôi
dạt lục địa”, thuyết “Tách giãn đáy đại dương”).

B_MỘT SỐ HỌC THUYẾT RA ĐỜI
TRƯỚC THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG.
I.THUYẾT TRÔI DẠT LỤC ĐỊA.
1) Nguồn gốc.


Từ trước thế kỷ XX, người ta
đã tin rằng các lục địa là
không ổn định.

Năm 1912, Alfred Wegener-
nhà khí tượng học người
Đức- đã hình thành nên
thuyết “Trôi dạt lục địa” từ
một số bài báo viết về vấn đề
này.


Đến năm 1913, A.Wegener
cho xuất bản cuốn “Nguồn
gốc của các lục địa và đại
dương” chính thức đánh dấu
sự ra đời của thuyết “Trôi dạt
lục địa”.

2) Nguyên nhân hình thành.

A.Ortelius cho rằng Châu Mỹ bị tách khỏi Châu Âu và
Châu Phi… bởi những trận động đất và lũ lụt.


A.Wegener cũng nhận thấy sự ăn khớp về mặt hình thái
giữa đường bờ biển phía tây Châu Phi và đường bờ phía
đông Nam Mỹ.

A.Wegener còn phát hiện tính liên tục về mặt cấu trúc uốn
nếp của các đá thuộc hệ Cacbon (ở Anh và Greenland).

A.Wegener cũng chứng minh được tính đồng nhất của
giới sinh vật ở giai đoạn Paleogen và Neogen cách đây
chừng 70 triệu năm ở Nam Mỹ và ở Châu Phi, ở Bắc Mỹ
và ở Châu Âu, ở Châu Úc và ở Châu Phi…Đây cũng là 1
trong những cơ sở khoa học để chứng minh tính liên tục

của các lục địa này trong quá khứ.

3) Luận điểm cơ bản.

Các lục địa có thể “trôi” được trong không gian dưới
tác dụng của các lực nằm ngang.

Theo A.Wegener, Trái Đất lúc đầu chỉ có 1 lục địa
khổng lồ là Pangaea được bao bọc bởi 1 đại dương
cổ-Thái Bình Dương (Pantalat).
Siêu lục địa Pangaea



Vào giai đoạn cuối Pecmi-đầu Triat, Pangaea tách
thành những mảng khác nhau. Những mảng này trôi
theo nhiều hướng và tạo nên các lục địa hiện tại,
khoảng giữa các mảng ấy trở thành các đại dương lớn
ngày nay như Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương…


Nguyên nhân dẫn tới sự trôi dạt lục địa và
tách vỡ Pangaea, A.Wegener cho rằng chủ
yếu là do lực hấp dẫn của vũ trụ và sự tự
quay của Trái Đất.


Theo A. du Toit, lúc đầu Trái Đất gồm 2 lục
địa lớn là Gondwanaland và Laurasia.

Gondwanaland: toàn bộ lục địa Châu Phi,
Nam Mỹ, Châu Úc, Châu Nam Cực và một
phần Châu Á.

Laurasia: Châu Âu, phần lớn Châu Á, Bắc
Mỹ và Greenland.

4) Một số minh chứng cho tính đúng đắn của

học thuyết.
a) Kết quả đo đạc.

Kết quả đo đạc chính xác cho thấy lục địa trôi là
có thật và trôi với tốc độ khác nhau.

A.E.M. Nairm (1967) sau khi tính toán chi tiết
cho thấy trong khoảng thời gian 200 triệu năm từ
Cacbon muộn-đầu Paleogen, Châu Âu và Bắc
Mỹ đã rời xa nhau khoảng 4500km  tốc độ trôi
của các lục địa này trong khoảng thời gian đó
khoảng 2cm/năm.


b) Hình dạng các lục địa.

Hình dạng đường
bờ của lục địa
Nam Mỹ và Châu
Phi khá khớp
nhau.

Khi xem xét cấu
trúc chính của các
lục địa, ta thấy

những vùng này
cũng có khả năng
ráp lại với nhau để
trở thành một lục
địa duy nhất.

c) Cấu trúc địa chất và tuổi của đá.

Những dãy núi cổ hiện
nay chấm dứt một
cách đột ngột tại ranh
giới lục địa. Nếu ráp

các lục địa với nhau thì
cấu trúc địa chất của
chúng lại trùng khớp
nhau.

Đá phun trào và đá
biến chất tiền Cambri ở
Tây Phi và phần lồi
phía Đông của Nam
Mỹ có tuổi gần giống
nhau.
Sự trùng khớp về mặt cấu trúc uốn

nếp của các dãy núi ở rìa các lục địa

d) Evapôrit.

Evapôrit là đá trầm tích được hình thành từ hiện
tượng kết tủa của các hợp chất hòa tan trong môi
trường nước do hiện tượng bốc hơi. Các tích tụ
evapôrit cổ cho thấy có một vành đai khí hậu khô
trong quá khứ địa chất.

Ở Bắc bán cầu, trong khoảng thời gian từ kỷ
Ocdovit - Silua, vành đai evapôrit đã dịch chuyển từ

vị trí gần cực đến vị trí sa mạc hiện nay.

Trước kỷ Mezozoi, các rạn san hô cổ phân bố
nghiêng so với đường xích đạo chứ không trùng
với vị trí phân bố hiện nay.
Điều này cho thấy vùng cực và các vùng đất khác
có sự chuyển động tương đối với nhau.

e) Hóa thạch.

Các nhà khoa học đã tìm thấy một loại thực
vật tên là Glossopteris trên tất cả các lục địa

thuộc Gondwanaland.

Ở Châu Phi, Ấn Độ, Châu Nam Cực đều tìm
thấy hóa thạch của loài bò sát khổng lồ
Lystrosaurus chỉ sống ở miền nhiệt đới và á
nhiệt đới, không thể bơi qua những khoảng
rộng lớn như đại dương.
 Vào cuối Paleozoi-đầu Mezozoi, các thành
phần của Gondwanaland chưa bị tách ra và
Châu Nam Cực không ở vào vị trí hiện nay.

Sự đồng nhất về mặt hóa thạch ở các lục địa

khác nhau

f) Cổ từ.

Khi hình thành đá, các mảnh vụn hoặc khoáng vật
trong vật liệu trầm tích có thể nhiễm từ. Do tác động
của từ trường Trái Đất chúng sẽ sắp xếp lại theo
hướng song song với từ trường của Trái Đất lúc bấy
giờ.

Thông qua các khoáng vật nhiễm từ hình thành ở một
thời kỳ nhất định chúng ta khôi phục lại trường từ, cực

từ cũng như các vĩ độ lúc bấy giờ.

Nghiên cứu cổ từ cho thấy các đá cổ nằm ở những vĩ
độ khác xa với vĩ độ mà hiện nay nó đang phân bố.

Kết quả xác định cổ từ của các mẫu lấy quanh Đại
Tây Dương trên các lục địa khác nhau cho phép tìm ra
được hướng dịch chuyển của các lục địa ấy.

5) Kết luận.
Các lục địa đã
từng di chuyển

và đang di
chuyển với tốc
độ khác nhau
và thay đổi
theo thời gian.
Quá trình tách giãn siêu lục địa
Pangaea và sự dịch chuyển của các
lục địa từ kỷ Triat đến nay

6) Nhược điểm của thuyết “Trôi dạt lục địa”.

Giả thuyết của A.Wegener không giải thích được câu

hỏi quan trọng nhất: “Lực nào đủ mạnh để có thể di
chuyển những khối đá cứng khổng lồ này trong một
khoảng cách lớn đến như vậy? ”.

A.Wegener giải thích rằng các lục địa đơn giản đã
“cày” trên nền đáy biển. Nhưng Harold Jeffreys- một
nhà địa vật lý nổi tiếng người Anh- đã lập luận một
cách đúng đắn về mặt tự nhiên: một khối đá lớn cứng
không thể “cày” trên đáy biển mà không bị gãy ra.
7) Vai trò của thuyết “Trôi dạt lục địa”.
Sau khi A.Wegener mất đi, những bằng chứng mới tìm
được từ các cuộc thăm dò đáy đại dương và các

nghiên cứu khác đã làm sống lại mối quan tâm đối với
giả thuyết của ông, và cuối cùng đã đưa đến việc phát
triển thuyết “Kiến tạo mảng”.

II.THUYẾT TÁCH GIÃN ĐÁY ĐẠI DƯƠNG.
1) Nguồn gốc.
Từ những kết quả nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực,
Harry H.Hess- nhà địa chất học tại ĐH Princeton
và là một thiếu tướng hải quân dự bị cùng với
Robert S.Dietz- nhà khoa học khảo sát bờ biển
của Mỹ đã đề xướng thuyết “Tách giãn đáy đại
dương”.

2) Nguyên nhân hình thành thuyết “Tách giãn đáy
đại dương”.

Đầu thế kỷ XVI, các nhà hàng hải bằng cách dùng
dây dò độ sâu theo lối thủ công đã nhận thấy rằng:
độ sâu đáy biển khác nhau đáng kể và đáy biển
không bằng phẳng như người ta vẫn nghĩ.


Năm 1855, áp dụng
phương pháp định vị
sóng âm, trung úy hải

quân Mỹ Matthew Maury
đã xuất bản một bản đồ
cho thấy bằng chứng về
những ngọn núi dưới đáy
biển tại vùng giữa Đại
Tây Dương.

Qua đo đạc bằng thiết bị
định vị sóng âm, người ta
đã chứng minh rằng dãy
núi ngầm ở vùng giữa
Đại Tây Dương thì liên

tục và rất gồ ghề.

Dãy núi ngầm giữa Đại Tây Dương


Năm 1947, các nhà địa chấn học trên tàu
nghiên cứu Atlantis của Mỹ đã phát hiện
rằng: lớp trầm tích trên đáy Đại Tây Dương
mỏng hơn nhiều so với những gì người ta
nghĩ trước đó.

Trong thập niên 50 của thế kỷ XIX, các nhà

khoa học đã nhận ra các dải dị thường từ
phân bố gần như đối xứng và song song
nhau ở hai bên sống núi giữa đại dương.
Các vấn đề này đã kích thích Harry H.Hess
cùng với Robert S.Dietz, từ đó hai ông đã
đề xướng thuyết “Tách giãn đáy đại
dương”.

3) Luận điểm cơ bản.

H.Hess và R.Dietz
cho rằng, các vật

chất của manti đùn
lên từ các thung
lũng rift giữa đại
dương.

Các vật liệu không
ngừng được đưa
lên và đẩy sang
hai bên một cách
đối xứng, tạo ra
lớp vỏ đại dương
mới.


4) Một số minh chứng cho sự tách giãn của
đáy đại dương.
a) Sự hình thành và tồn tại dải dị thường từ.

Ở đại dương biểu hiện dị thường từ rất rõ: các dải dị thường từ
dương và âm phân bố gần như đối xứng ở hai bên sống núi
giữa đại dương. Các dải ở ngay tại sống núi có tuổi trẻ hơn cả,
càng ra xa sống núi thì tuổi càng già hơn.

Sự phân bố các dải dị thường từ như trên được F.J.Vine và
D.H.Matthews (1963) giải thích bằng hiện tượng tách giãn của

đáy đại dương. Vật chất của manti theo đới tách giãn xuyên lên
và tràn sang hai bên. Chúng chịu ảnh hưởng của trường địa từ
lúc bấy giờ nên sẽ bị từ hóa theo hướng nhất định.

Số vật chất tràn lên sau sẽ đẩy số vật chất có trước ra hai bên
nên các dải dị thường ở càng xa trục tách giãn càng có tuổi cổ
hơn.

Quá trình tách giãn của đáy đại dương và sự
hình thành dải dị thường từ

×