Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thuyết kiến tạo màng, cơ chế hình thành biển Đông và các bồn dầu khí trên thềm lục địa miền nam Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.96 KB, 84 trang )

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU
PHẦN I: THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG. Q TRÌNH HÌNH THÀNH
BIỂN ĐƠNG VÀ CÁC BỒN TRẦM TÍCH LIÊN QUAN TRÊN
THỀM LỤC ĐỊA NAM VIỆT NAM. ...................................................... 6
CHƯƠNG 1 : THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG ..................................... 5
I. SỰ HÌNH THÀNH THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG. ....................... 7
II. CƠ CHẾ DỊCH CHUYỂN CỦA CÁC MẢNG. .......................... 12
III. LỊCH SỬ CỦA SỰ DI CHUYỂN CÁC MẢNG : ...................... 21
CHƯƠNG 2: Q TRÌNH HÌNH THÀNH BIỂN ĐƠNG VÀ CÁC
BỒN TRẦM TÍCH LIÊN QUAN TRÊN THỀM LỤC ĐỊA MIỀN
NAM VIỆT NAM............................................................................... 26
I. Q TRÌNH TÁCH GIÃN HÌNH THÀNH BIỂN ĐƠNG. ......... 26
II. CÁC GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN THỀM LỤC
ĐỊA VIỆT NAM VÀ CÁC BỒN TRẦM TÍCH ĐỆ TAM. .............. 29
III. PHÂN CHIA CÁC BỒN TRẦM TÍCH Ở VIỆT NAM THEO
QUAN NIỆM KIẾN TẠO MẢNG. ................................................. 34
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG KIẾN TẠO ĐỐI VỚI
SỰ HÌNH THÀNH VÀ TÍCH TỤ DDẦU KHÍ TRONG CÁC BỒN
TRẦM TÍCH TRÊN THỀM LỤC ĐỊA MIỀN NAM VIỆT NAM ...... 40
CHƯƠNG 3 : BỒN TRŨNG CỬU LONG. ...................................... 37
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ. .......................................................................... 37
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CẤU TRÚC KHU VỰC. ................ 39
III. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HYDROCARBON. .................... 41
IV. CÁC HOẠT ĐỘNG KIẾN TẠO CHÍNH ẢNH HƢỞNG ĐẾN
SỰ HÌNH THÀNH BẪY CHỨA. ................................................... 43


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


V. ĐẶC TÍNH THẤM CHỨA CỦA ĐÁ MÓNG. ........................... 47
VI. ĐẶC ĐIỂM TẦNG CHẮN. ...................................................... 49
VII. MỎ BẠCH HỔ. ...................................................................... 50
VIII. TIỀM NĂNG DẦU KHÍ BỒN TRŨNG CỬU LONG. ........... 57
CHƯƠNG 4 : BỒN TRŨNG NAM CƠN SƠN ................................ 59
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ............................................................................ 59
II. CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT. ............................................................ 60
III. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT. ....................................... 64
IV. HỆ THỐNG DẦU KHÍ BỒN TRŨNG NAM CÔN SƠN.…… …
65
V. MỎ ĐẠI HÙNG. ........................................................................ 80
VI. TIỀM NĂNG DẦU KHÍ BỒN TRŨNG NAM CƠN SƠN.. ...... 78
KẾT LUẬN ..................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 82


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
LỜI NĨI ĐẦU
Ngành cơng nghiệp dầu khí Việt Nam chỉ mới được thành lập nhưng đã
khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân và trong cộng đồng
các nước sản xuất dầu khí trên thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đã khai thác hơn
130 triệu tấn dầu thô và 8.5 tỷ m3 khí đồng hành.
Hiện nay, chúng ta đang đẩy nhanh q trình tìm kiếm – thăm dị dầu khí
trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Tiềm năng dầu khí của Việt Nam được tập trung
nhiều nhất là trên thềm lục địa miền Nam Việt Nam.
Để quá trình tìm kiếm – thăm dị dầu khí được thuận lợi hơn, chúng ta cần
nghiên cứu kỹ về các bối cảnh kiến tạo hình thành nên các tích tụ dầu khí trên
thềm lục địa Việt Nam. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn q trình hình
thành, di chuyển và tích tụ của hydrocarbon, từ đó đề ra những phương án khả
thi để việc tìm kiếm – thăm dị đạt hiệu quả hơn.

Trên tinh thần nghiên cứu, tìm hiểu và tổng hợp các tài liệu về các vấn đề
nêu trên, được sự cho phép của Khoa Địa Chất trường Đại Học Khoa Học Tự
Nhiên cùng sự hướng dẫn trực tiếp của Thạc Sỹ Nguyễn Ngọc Thủy, tơi đã thực
hiện khố luận tốt nghiệp với đề tài : “THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG, CƠ CHẾ
HÌNH THÀNH BIỂN ĐƠNG VÀ CÁC BỒN DẦU KHÍ TRÊN THỀM LỤC
ĐỊA MIỀN NAM VIỆT NAM”.
Mục đích của đề tài này là :


Làm rõ cơ chế hình thành Biển Đông trên cơ sở thuyết kiến tạo



Sự ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo đối với sự hình thành và

mảng.
tích tụ dầu khí trong các bồn trầm tích trên thềm lục địa miền Nam Việt Nam và
cụ thể là trong hai bồn Cửu Long và Nam Côn Sơn.
Nội dung thực hiện :


Thuyết kiến tạo mảng.



Quá trình hình thành Biển Đơng và các bồn trầm tích liên quan.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN



Ảnh hưởng của hoạt động kiến tạo đối với sự hình thành và tích tụ

dầu khí trong bồn trũng Cửu Long và Nam Cơn Sơn.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn :


Góp phần trong việc xem xét mối quan hệ giữa kiến tạo Biển Đông

và các bồn dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam.


Kết quả của đề tài là cơ sở tài liệu cho những nghiên cứu tiếp theo

về kiến tạo Biển Đông và các bồn dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

PHẦN I
THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG
Q TRÌNH HÌNH THÀNH BIỂN ĐƠNG
VÀ CÁC BỒN TRẦM TÍCH LIÊN QUAN
TRÊN THỀM LỤC ĐỊA NAM VIỆT NAM.

CHƯƠNG 1
THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG
I.

SỰ HÌNH THÀNH THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG.


Theo quan niệm của học thuyết kiến tạo mảng, lúc đầu địa cầu chỉ gồm có
một khối lục địa rộng lớn. Sau đó lục địa này vỡ thành từng nhiều mảnh, di
chuyển đi và cuối cùng đạt đến vị trí hiện tại. Thật ra theo thuyết này thì tồn thể
bề mặt địa cầu là những mảng thạch quyển cứng rắn. Một số mảng hoàn toàn là
vỏ đại dƣơng, một số khác lại là vỏ lục địa hoặc vừa có vỏ đại dƣơng vừa có vỏ


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
lục địa. Những mảng đó có thể tách rời xa nhau, va chạm với nhau hay cắm
xuống dƣới mảng kia đã tạo ra nhiều kiến trúc rộng lớn, nhƣ sự thành tạo các dải
núi. Thuyết kiến tạo mảng không phải đƣợc đa số mọi ngƣời tán đồng, nên các
nhà địa cầu học ln ln tìm ra các bằng chứng mới mẻ để chứng minh thuyết
này là đúng. Thuyết dựa trên hai khái niệm là lục địa trôi và đáy biển trƣơng nở.
Mảng di chuyển ở mặt địa cầu là do lực lơi kéo của dịng đối lƣu trong lớp manti.
A. Ý KIẾN BAN ĐẦU XUNG QUANH VẤN ĐỀ LỤC ĐỊA TRÔI:
Ý kiến về lục địa trôi ra đời cách đây khoảng 100 năm. Lúc đầu, ngƣời ta
giải thích hố đại dƣơng, các dải núi và các lục địa đƣợc thành lập từ những cuộc
đại biến xảy ra trong một thời gian ngắn. Ý nghĩ hai lục địa tách ra rồi di chuyển
rất chậm, 100 triệu năm đi đƣợc 500 km, khi ngƣời ta ghi nhận đƣợc trên bản đồ
nhiều vùng bờ biển có thể lồng vào nhau một cách khít khao. Đặc biệt là bờ biển
Phi Châu và Nam Mỹ. Các dấu vết địa chất nhƣ các nhóm đất đá giống nhau, hố
thạch giống nhau của các lục địa là do trƣớc đây chúng dính liền nhau, sau đó
mới bị biển chia cắt.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Các vị trí có hố thạch động thực vật trên các lục địa nằm tách xa nhau được
kết nối lại với nhau.

* Alfred Wegener và thuyết lục địa trôi :
Thuyết kiến tạo mảng đƣợc khởi xƣớng cách đây hơn 40 năm, nó kế thừa
thuyết lục địa trơi, chính thuyết này là tiền đề của thuyết kiến tạo mảng. Thuyết
lục địa trôi đã đƣợc Alfred Wegener cơng bố vào năm 1910 – 1930. Ơng đƣa vào
đó nhiều bằng chứng khoa học rất đặc sắc, kể cả thiên văn học.
Theo ông lúc đầu Trái Đất chỉ gồm một lục địa duy nhất, đƣợc gọi là
SIÊU LỤC ĐỊA PANGEA. Sau đó nó bắt đầu tách làm đơi, phần ở phía Nam
đƣợc gọi là Gondwana gồm có Nam Mỹ, Phi Châu, Nam Cực, Úc Châu và Ấn
Độ và phần ở phía Bắc đƣợc gọi là Laurasia gồm có lục địa Bắc Mỹ, Châu Âu và
Châu Á. Laurasia là lục địa nằm phía Bắc xích đạo, cịn Gondwana thì nằm
chếch về phía Nam. Ngăn cách hai lục địa là biển Tethys. Pangea bắt đầu di
chuyển cách đây khoảng 150 triệu năm vào kỷ Jurassic. Nam Cực và Úc Châu,


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Ấn Độ và Phi Châu vỡ ra từ lục địa ban đầu. Nam Mỹ bị vỡ ra từ Phi Châu trong
kỷ Cretaceous cách đây khoảng 100 triệu năm, và Greenland từ Bắc Âu cách đây
một vài triệu năm (một ghi nhận sai lầm của Wegener).
Để bảo vệ thuyết lục địa trôi Wegener đƣa ra nhiều bằng chứng nhƣ :
-

Đƣờng bờ biển phía Tây Châu Phi dƣờng nhƣ khớp với đƣờng bờ biển

phía Đơng Nam Mỹ.
-

Về mặt hố thạch, có nhiều sinh vật giống nhau đều đƣợc tìm thấy ở hai

bờ lục địa hai bên Đại Tây Dƣơng. Ví dụ : một lồi ốc sên sống ở Đức và Anh
đƣợc phát hiện ở Bắc Mỹ, mà chúng chỉ sống gần bờ Đại Tây Dƣơng. Loài ốc

sên này chỉ di chuyển đƣợc 5,4m/giờ nên chúng không thể nào vƣợt qua Đại Tây
Dƣơng để đến Bắc Mỹ đƣợc.
-

Ngoài ra, Wegener cịn tìm đƣợc nhiều bằng chứng về mặt cấu trúc địa

chất, khoáng sản, cổ địa lý… để chứng minh rằng trƣớc đây các lục địa chỉ là
một.

Sự khớp nhau giữa bờ biển và vùng nền cổ của Nam Mỹ và Châu Phi.
Điểm yếu của thuyết lục địa trôi của Wegener là trình bày cơ chế của sự di
chuyển của các lục địa ở bề mặt địa cầu. Ông đƣa ra ý kiến sự di chuyển là do
nguyên nhân của lực Pohiflucht và lực kéo của thuỷ triều. Pohiflucht đƣợc dịch


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
từ tiếng Đức “sự di chuyển từ cực”, Wegener muốn trình bày rằng lục địa di
chuyển từ cực đến xích đạo là do lực ly tâm và gia tốc trọng lực, ở xích đạo gia
tốc trọng lực nhỏ hơn ở cực. Sự di chuyển của Nam và Bắc Mỹ từ hƣớng Đông
sang Tây là do lực quay quanh trục của địa cầu và lực thuỷ triều. Lực thuỷ triều
không đủ sức để mang các lục địa đi. Ngồi ra, vật liệu trong manti khơng chảy
lỏng để lục địa nổi trên đó, nhƣ khối băng sơn nổi trong nƣớc nhƣ ý của
Wegener.
B. ĐÁY BIỂN TRƯƠNG NỞ :
Từ năm 1950, những nghiên cứu địa chất – địa vật lý các đại dƣơng phát
triển mạnh. Và những nhà khoa học đã phát hiện những hệ thống các dãy sống
núi giữa đại dƣơng.
Vỏ đại dƣơng đặc trƣng bởi những dị thƣờng từ dạng tuyến, chúng phân
bố gần nhƣ đối xứng ở hai bên sống núi giữa đại dƣơng, chúng là các dải song
song xen kẽ dị thƣờng từ âm và dƣơng. Các dải ở càng xa sống núi thì tuổi càng

già, ở ngay tại sống núi thì tuổi trẻ hơn cả.

Sự phân bố tuổi của các dải từ ở sống núi giữa Đại Tây Dương.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Sự phân bố các dải dị thƣờng từ nhƣ trên đƣợc F.J.Vine và D.H.Matthews,
1963 giải thích bằng hiện tƣợng tách giãn của đáy đại dƣơng. Vật chất của manti
mà thành phần chủ yếu là basalt, theo đới tách giãn xuyên lên và tràn sang hai
bên. Chúng chịu ảnh hƣởng của trƣờng địa từ lúc bấy giờ nên sẽ bị từ hoá theo
hƣớng nhất định. Số vật chất tràn lên sau sẽ đẩy số vật chất có trƣớc ra hai bên
nên các dải dị thƣờng ở càng xa trục tách giãn (trục rift) càng có tuổi cổ hơn. Do
Trái Đất có những lần đổi hƣớng từ trƣờng làm cho các dải xen kẽ thay đổi dấu.
Hiện tƣợng đổi hƣớng từ của Trái Đất là một thực tế đã đƣợc chứng minh : dự
tính từ 76 triệu năm trở lại đây đã chuyển đổi 171 lần.
Căn cứ vào thời gian thành tạo mỗi dải dị thƣờng từ, khoảng cách của nó
đối với sống núi giữa đại dƣơng ngƣời ta tính ra đƣợc tốc độ tách giãn. Tốc độ
tách giãn của dãy Thái Bình Dƣơng là 3 – 6 cm/năm, Đại Tây Dƣơng và Ấn Độ
Dƣơng là 1 – 2 cm/năm.
Những dữ kiện từ ghi nhận đƣợc ở đáy đại dƣơng đã làm vững chắc thêm
cho thuyết đáy biển trƣơng nở. Ngoài ra, những lỗ khoan của tàu Glomar
Challenger thực hiện cũng đóng góp thêm bằng chứng tốt khi phát hiện đá trầm
tích có tuổi càng già khi càng ra xa sống núi giữa đại dƣơng.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Thuyết đáy biển trương nở.

C.


MẢNG THẠCH QUYỂN :

Về số lƣợng các mảng, cịn có những ý kiến chƣa thống nhất. Đa số cho
rằng có bảy mảng chính : mảng Bắc Mỹ, mảng Nam Mỹ, mảng Thái Bình
Dƣơng, mảng Ấn Độ, mảng Châu Phi, mảng Nam Cực, mảng Âu Á.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Các nhà kiến tạo học cho rằng 7 mảng vẫn chƣa đủ, ngƣời ta chia các
mảng lớn ra thành các mảng phụ.
V.E.Khain có nêu ra 13 mảng nhỏ hơn : Ả Rập, Philippin, Cocos, Caribê,
Nazca, Scottia, Đông Dƣơng, Egci, Anatoli, Joan de Fuca, Rivera, Trung Quốc,
Okhot.

Các mảng kiến tạo chính trên thế giới.

II . CƠ CHẾ DỊCH CHUYỂN CỦA CÁC MẢNG.
Nguyên nhân của sự dịch chuyển giữa các mảng là quá trình đối lƣu ở
manti trên. Nơi hai dòng đối lƣu gặp nhau và chuyển động đi lên thì xảy ra quá
trình tách giãn và ngƣợc lại, nơi hai dòng đối lƣu gặp nhau và đi xuống thì xảy ra
quá trình hút chìm và va mảng.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Ngun nhân sự dịch chuyển giữa các mảng.
1. Kiến tạo ở ranh giới mảng phân kỳ của các mảng thạch quyển:
Ranh giới phân kỳ xuất hiện dọc theo trung tâm tách giãn – nơi hai mảng
dịch chuyển tách xa nhau, phần vỏ Trái Đất mới đƣợc hình thành bởi magma đi

lên từ manti. Nơi tách giãn là ranh giới giữa hai mảng. Có hai kiểu tách giãn :
-

Tách giãn vỏ đại dƣơng.

-

Tách giãn vỏ lục địa.

a) Tách giãn vỏ đại dƣơng : (rift đại dƣơng)
Tách giãn vỏ đại dƣơng đƣợc thể hiện bằng dãy núi giữa đại dƣơng và
thƣờng kèm theo thung lũng rift ở giữa. Rift đại dƣơng gắn liền với quá trình
mở rộng đáy đại dƣơng.
Các đới rift đại dƣơng nằm ở phạm vi căng giãn của đại dƣơng, dọc
theo nó có các dung nham nóng chảy phun ra ngồi, tạo ra lớp vỏ đại dƣơng.
Các đới căng giãn hiện tại trùng với sống núi giữa đại dƣơng.
Dọc theo các đới rift đại dƣơng thƣờng xuất hiện các chấn tâm động
đất nằm ở độ sâu 20 – 30 km.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
b) Tách giãn vỏ lục địa : (rift lục địa)
Rift lục địa là những kiến trúc căng giãn có quy mơ lớn trong phạm vi lục
địa. Về mặt hình thái, rift lục địa có thể xem nhƣ những địa hào lớn và phức tạp.
Dọc theo rift lục địa thƣờng có động đất, núi lửa và dòng địa nhiệt cao.
Rift phát triển ở lục địa trải qua các giai đoạn sau :
-

Lục địa đƣợc nâng lên tạo vịm và sau đó tách ra.


-

Sau đó, lục địa tiếp tục tách ra thành tạo các cấu trúc sụt địa hào và ở

trung tâm thƣờng có hoạt động núi lửa.
-

Sau khi các mảng lục địa tách ra, chúng bắt đầu trơi về hai phía của trung

tâm tách giãn. Q trình tách giãn tạo rift thƣờng đi kèm với hoạt động phun trào,
đặc biệt là phun trào basalt.
Rift lục địa và rift đại dƣơng có chung một bản chất : Chúng là những đới
tách giãn. Có những rift lục địa phát triển dần, mở rộng ra và trở thành rift đại
dƣơng.

Mảng vỏ lục địa là nơi bắt đầu xảy ra sự tách giãn để hình thành một ranh
giới mảng tách giãn.

Khi sự tách giãn xuất hiện trong lục địa, nó hình thành rift lục địa. Magma
từ lớp manti đẩy lớp vỏ lục địa và gây ra áp lực làm cho vỏ lục địa bị nứt nẻ và
tách ra. Trong giai đoạn này xảy ra các hiện tƣợng magma phun trào và động đất.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Rift lục địa tiếp tục phát triển hình thành nên lớp vỏ đại dƣơng mới và trở
thành rift đại dƣơng.
Đại Tây Dƣơng là một ví dụ điển hình. Đại Tây Dƣơng đƣợc hình thành
khi hai mảng Bắc Mỹ và mảng Âu Á di chuyển theo hai hƣớng nghịch nhau. Do
hai mảng di chuyển phân kỳ dẫn đến là đáy biển trƣơng nở và đại dƣơng ngày

càng lớn hơn. Tốc độ trƣơng nở trung bình khoảng 2,5cm/năm hoặc 25km/triệu
năm. Sống núi giữa Đại Tây Dƣơng đƣợc hình thành bởi sự đi lên của magma,
cao khoảng 2000m. Ở hai bên sống núi giữa Đại Tây Dƣơng tồn tại những vùng
núi lửa xuất hiện dọc theo những phần chìm dƣới nƣớc của đỉnh tách giãn.

Sự phân kỳ giữa hai mảng Bắc Mỹ và mảng Âu Á.
2.

Kiến tạo ở ranh giới mảng hội tụ của các mảng thạch quyển:


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Khi vỏ đại dƣơng mới đƣợc hình thành thì ở nơi khác vỏ đất sẽ bị phá huỷ
để đảm bảo rằng diện tích của trái đất không bị thay đổi. Sự phá huỷ vỏ đất này
xảy ra dọc theo ranh giới hội tụ nơi các mảng di chuyển nghịch nhau và đôi khi
một mảng sẽ chìm xuống dƣới mảng kia. Những ranh giới mảng hội tụ có thể tạo
ra đới cuốn hút hoặc đới va chạm lục địa. Những ranh giới mảng cuốn hút đƣợc
đặc trƣng bởi các rãnh sâu, dòng hạ nhiệt, các đới Benioff, núi lửa andesite và
những cung đảo hoặc những vành đai núi lửa trẻ. Các ranh giới va chạm lục địa
có những trận động đất tâm nơng và tạo thành những vành đai núi trẻ ở phía
trong lục địa.


Các đới Benioff :

Biểu hiện rõ nhất của đới hút chìm hiện nay là đới Benioff.
Độ sâu của các đới Benioff phụ thuộc chủ yếu vào độ trƣởng thành của
mảng thạch quyển đại dƣơng. Những nơi đới hút chìm Benioff sâu 600 – 700km
là những nơi vỏ đại dƣơng bị hút chìm có tuổi 120 – 150 triệu năm (vành Tây
Thái Bình Dƣơng); ngƣợc lại, những nơi vỏ đại dƣơng có tuổi trẻ hơn

Cretaceous, Palaeogen thì đới Benioff chỉ sâu 200 – 300 km, thậm chí cịn nơng
hơn nữa (vành Đơng Thái Bình Dƣơng).
Tốc độ hút chìm cũng ảnh hƣởng tới độ sâu của đới Benioff. Nếu tốc độ
hút chìm 9 – 10.5 cm/năm, vỏ đại dƣơng có tuổi 80 – 40 triệu năm thì độ sâu đới
Benioff vẫn đạt tới 600 km. Ngƣợc lại, nếu tốc độ hút chìm 2 -3.5 cm/năm thì
dẫu vỏ đại dƣơng có tuổi cổ 150 – 120 triệu năm thì độ sâu đới Benioff chỉ đạt
250 – 300 km.
Hầu nhƣ tất cả đới Benioff cắm về phía lục địa, hoặc cắm vào mảng đại
dƣơng có tuổi trẻ hơn.
Sự hội tụ có thể xảy ra giữa mảng đại dƣơng và mảng lục địa, hoặc giữa
hai mảng đại dƣơng, hoặc giữa hai mảng lục địa.
a)

Mảng đại dương – lục địa.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Mảng lục địa tạo nên vùng va chạm với mảng đại dƣơng và chờm lên đó,
trong khi đó do mảng vỏ đại dƣơng có tỷ trọng lớn hơn mảng vỏ lục địa nên vỏ
đại dƣơng có khuynh hƣớng chìm xuống dƣới mảng vỏ lục địa, tạo nên đới hút
chìm Benioff. Đá granite nhẹ của lục địa bị vỡ vụn tạo nên dải núi uốn nếp và đứt
gãy. Một phần bị nóng chảy ở dọc theo đới hút chìm tạo ra magma trồi lên trên
mặt đất tạo nên núi lửa, thành lập các dải núi và cung núi lửa.

Sự hội tụ giữa hai mảng vỏ đại dương và mảng vỏ lục địa.
Bờ biển Nam Mỹ dọc theo hố Peru – Chile, mảng đại dƣơng Nazca đang
đẩy vào và đang bị hút chìm dƣới một phần mảng lục địa Nam Mỹ. Mảng Nam
Mỹ đang đƣợc nâng lên tạo thành dãy Andes.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Sự hội tụ giữa hai mảng Nazca và mảng Nam Mỹ.

b)

Mảng đại dương – đại dương.

Khi hai mảng đại dƣơng hội tụ, thƣờng thì một trong hai mảng sẽ bị hút
chìm xuống bên dƣới mảng cịn lại. Và hố đại dƣơng sẽ đƣợc hình thành trong
q trình này. Hố đại dƣơng có độ sâu từ 7000 – 11000m, đây là những thung
lũng hẹp, chạy dài theo cung núi lửa. Ở đây thƣờng xảy ra hiện tƣợng động đất.
Sự hội tụ của hai mảng vỏ đại dƣơng cũng sẽ tạo nên cung đảo núi lửa với
magma có thành phần là basalt.

Sự hội tụ giữa hai mảng vỏ đại dương.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

c)

Mảng lục địa – lục địa.

Khi hai mảng lục địa hội tụ, do có cùng tỷ trọng nên giữa hai mảng không
xảy ra hiện tƣợng hút chìm, thì vỏ Trái Đất có khuynh hƣớng bị nhàu nát và bị
đẩy lên trên hoặc bị đẩy về một phía. Q trình nén ép mạnh mẽ sinh ra kiến trúc
biến dạng vô cùng phức tạp kèm theo tạo núi, xâm nhập, phun trào đồng tạo núi
và động đất.

Sự hội tụ giữa hai mảng vỏ lục địa.

Dãy Himalayan là một minh chứng tuyệt vời về sự hội tụ của hai mảng lục
địa. Cách đây 50 triệu năm, do sự va chạm giữa mảng Ấn Độ và mảng Âu Á làm
cho mảng Âu Á bị ép thành nhiều nếp và gối lên mảng Ấn Độ. Hậu quả là hình
thành dãy Himalayan và cao nguyên Tibetan. Himalayan cao 8854m so với mực
nƣớc biển, là ngọn núi cao nhất thế giới. Còn cao ngun Tibetan có độ cao trung
bình khoảng 4600m.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Vị trí dãy Himalayan và cao nguyên Tibetan.
3.

Mảng xê dịch trượt bằng : (transforming slide plate)

Khi hai mảng nằm cạnh nhau không va chạm vào nhau mà trƣợt dọc với
nhau, vỏ đất ở vùng cạnh nhau khơng có sự phá huỷ. Sự biến dạng đã tạo ra
những đứt gãy biến dạng nằm giữa hai mảng.
Đứt gãy San Andreas (California) là loại đứt gãy này. Đứt gãy San
Andreas xuất hiện do hai mảng Thái Bình Dƣơng và mảng Bắc Mỹ di chuyển
trƣợt dọc với nhau. Đới đứt gãy San Andreas dài khoảng 1,300 km. Hai mảng lục
địa ở hai bên đứt gãy đều di chuyển về Tây Bắc, nhƣng sƣờn Tây Nam di chuyển
nhanh hơn. Nhƣ vậy, trong vài triệu năm nữa thành phố Los Angeles thuộc mảng
Thái Bình Dƣơng sẽ đến vị trí của thành phố San Francisco hiện nay và sau đó sẽ
đến vùng Alaska.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Hai mảng Thái Bình Dương và Bắc Mỹ di chuyển, đứt gãy San Andreas.


III.

LỊCH SỬ CỦA SỰ DI CHUYỂN CÁC MẢNG :

Lịch sử của mảng di chuyển biểu hiện rõ ràng đã có từ cách đây 200 triệu
năm. Tuy nhiên, cách đây nửa tỉ năm hay thời gian trƣớc đó nữa, sự di chuyển


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
của mảng khơng đƣợc xác định. Các dữ kiện thu lƣợm đƣợc rất mơ hồ. Hiện
tƣợng biến chất và sự chôn vùi của đá dƣới vật liệu trầm tích đã làm phức tạp
hơn và xố mờ các dấu vết địa chất.
Sự hiểu biết về chu kỳ di chuyển của mảng chỉ mới đƣợc bắt đầu từ khi
siêu lục địa Pangea bắt đầu vỡ ra cách đây 200 triệu năm, cịn từ đó trở về trƣớc
thì rất mù mờ. Các nhà khoa học dựa vào những dữ kiện địa vật lý, sự tiến hoá
của lớp manti và nhân của địa cầu đã gợi ra ý kiến dịng đối lƣu hoạt động mạnh
trong manti. Đó là ngun nhân để mảng dịch chuyển, nhƣng nó khơng có trong
giai đoạn đầu của địa cầu. Nó bắt đầu hiện ra nhƣng rất ít vào thời kỳ cách đây
1,5 tỉ năm. Vậy kiến tạo mảng cũng đƣợc hình thành từ đây. Mảng di chuyển gần
1 tỉ năm cách đây có thể đƣợc xác định rõ ràng , những ranh giới giữa hai lục địa
va chạm nhau nhƣ nền cổ Canada và nền cổ Châu Phi. Một loại ranh giới khác
nhƣ hố đại dƣơng nơi vỏ đại dƣơng cắm xuống mảng lục địa cũng thấy xuất hiện
trong khoảng thời gian này. Nhƣng những sự kiến tạo núi sau đó đã phá hủy hay
làm mờ đi những ranh giới này.
Nghiên cứu đá có tuổi cách đây 600 – 500 triệu năm ở lục địa Bắc Mỹ và
Châu Âu cho thấy trƣớc đây chúng bị ngăn cách bởi một biển hẹp cạn. Khoảng
500 triệu năm cách đây, biển bị thu hẹp hơn nữa và hai lục địa dính vào nhau.
Hoạt động này kết thúc sau 100 triệu năm. Kết quả sự va chạm đã tạo nên dãy núi
mà bây giờ nằm ở phía Bắc vùng Appalachian (Mỹ), cũng nhƣ ở Anh và Na Uy.

Cách đây 250 – 300 triệu năm siêu lục địa Pangea mới hợp lại, phần Tây
Bắc Gondwana gồm có : bây giờ là Phi Châu, Trung Mỹ và phần Đông Nam
nƣớc Mỹ va chạm với khối lục địa đã đƣợc thành tạo do sự dính vào nhau của
Bắc Mỹ cổ và lục địa Âu Châu cổ. Kết quả là hình thành dãy núi phía Nam
Appalachian và Ouachita, kéo dài từ phía Nam Arkansas và Oklahoma đến tận
trung tâm Texas. Trong khi đó khối cổ Siberia va chạm vào khối cổ Châu Âu tạo
ra lục địa Laurasia, với sự xuất hiện của dãy Ural ở vùng va chạm.
Trừ một số chi tiết Pangea vỡ ra các mảnh tƣơng tự nhƣ Wegener đã phác
họa trƣớc đây. Cuối Permian, Pangea là một siêu lục địa nằm ở Nam bán cầu. Nó


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
bắt đầu vỡ ra trong thời Triassic (cách nay khoảng 200 triệu năm). Nam Mỹ và
Phi Châu tách rời nhau sau khi tách khỏi khối Nam Cực. Nam Mỹ di chuyển về
hƣớng Tây của Phi Châu và Nam Đại Tây Dƣơng bắt đầu đƣợc thành lập. Phi
Châu di chuyển về phía Bắc và lúc bấy giờ nằm giữa xích đạo. Ấn Độ và Úc
Châu tách khỏi Nam Cực và di chuyển về hƣớng Bắc, hƣớng về vị trí hiện nay.
Ấn Độ là một mảng lục địa rộng lớn bao phủ cả Ấn Độ Dƣơng, thời bấy giờ có
biển Tethys cắt qua. Nó va chạm với lục địa Á Châu. Sự va chạm này xảy ra
chậm chạp và hiện vẫn còn tồn tại. Cuối cùng lên đến đỉnh cao trong sự nhàu nát
và gãy đổ, dồn ép tạo nên dãy núi Himalayan. Á Châu xoay chậm quanh trục,
Châu Phi thì di chuyển hƣớng về khối Trung Á. Kết quả là nó ép vào Địa Trung
Hải. Nhƣ vậy Đông Thổ Nhĩ Kỳ trở thành bản lề, vị trí bất ổn, nên hoạt động địa
chấn xảy ra thƣờng xuyên.
Nam Mỹ tách rời khỏi Phi Châu, nƣớc biển tràn vào tạo ra Nam Đại Tây
Dƣơng. Nhƣ vậy rift rộng lớn mở rộng dần phía Bắc của biển này. Trong thời
Cretaceous, dòng đối lƣu hoạt động rất mạnh ở dƣới thạch quyển, nguyên nhân
đã tạo ra sống núi giữa Đại Tây Dƣơng nổi cao lên. Sự nổi lên và mở rộng của
dãy núi này đã chiếm một thể tích to lớn của đáy biển, nên dời đi một khối lƣợng
nƣớc biển khổng lồ lấn chiếm các vùng đất thấp, tạo ra các biển cạn. Ví dụ biển

cạn từ vịnh Mexico và Texas đến miền Tây Canada. Trầm tích tuổi Cretaceous
cũng đƣợc tìm thấy ở nhiều vùng thuộc Bắc Mỹ. Nhƣ vậy vào Mesozoic thì Bắc
Đại Tây Dƣơng đƣợc thành lập và liên tục đƣợc mở rộng. Bắc Mỹ trôi về hƣớng
Tây Bắc xa dần Châu Âu và miền Tây Bắc Châu Phi, mà trƣớc đó New York
nằm cạnh bờ biển Maroc (Châu Phi).
Lục địa cổ là phần cịn sót lại sau khi ấn vào lớp manti, cũng nhƣ phần
nâng lên cao do phần chìm bên dƣới nó. Trái với lục địa có tuổi cổ, các vỏ đại
dƣơng có tuổi trẻ hơn nhiều. Đáy Đại Tây Dƣơng và đáy của các đại dƣơng khác,
tất cả đƣợc sinh ra trƣớc khi siêu lục địa bắt đầu vỡ ra từng phần. Đáy biển xung
quanh siêu lục địa Pangea cắm vào trong manti ở đới cắm. Khảo sát các hoạt
động của mảng hiện tại, Đại Tây Dƣơng có thể mở rộng 2cm/năm, Thái Bình


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Dƣơng thì khép lại. Miền Tây Nam California có thể trƣợt lên trên lục địa, Đơng
Phi Châu có thể tách ra và di chuyển về phía Đơng Bắc và Địa Trung Hải sẽ bị
thu hẹp lại. Hồng Hải và rift Châu Phi sẽ trở thành đại dƣơng nhƣ Đại Tây
Dƣơng trong thời quá khứ.
Chúng ta chƣa biết chắc lực nào đã làm vỡ siêu lục địa Pangea. Dịng đối
lƣu trong lớp manti có lẽ là cơ chế di chuyển, nhƣng có một điểm khó giải thích
là yếu tố nào đã khởi động dịng đối lƣu. Theo ý kiến của một số nhà khoa học,
sự di chuyển của mảng có liên hệ ít nhiều với ngun nhân đi lên của dịng nóng
tỏa tia (plume). Nếu có sự cơ đọng của ngun tố phóng xạ ở nơi nào đó trong
manti, sẽ cung cấp nhiệt, vật liệu nóng di chuyển lên tạo thành dịng đá nóng đi
lên. Vật liệu nguội sẽ chìm xuống thay thế chỗ vật liệu nóng đi lên. Nhƣ vậy
dịng đối lƣu đƣợc hình thành. Tuy nhiên, hiện tại thì chúng ta cũng chƣa hiểu rõ
ràng về dịng đá nóng đi lên này cũng nhƣ sự tồn tại của nó và dịng đối lƣu.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


Theo thuyết trơi dạt lục địa, siêu lục địa Pangea tách vỡ ra cách nay từ 200
đến 250 triệu năm thành những mảnh lục địa như ta biết hiện nay.


×