Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.doc.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.79 KB, 25 trang )

Phần mở đầu
Bớc sang giai đoạn mới - giai đoạn hội nhập và phát triển, nền kinh tế đất n-
ớc ta đã và đang có sự chuyển đổi lớn - mang diện mạo của một cơ chế mở, tự do
cạnh tranh. Nền kinh tế thị trờng đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động trong
quá trình sản xuất kinh doanh của mình, nâng cao năng lực cạnh tranh ở phạm vi
ngành, phạm vi quốc gia và trên trờng quốc tế. Cạnh tranh là xu thế tất yếu của
nền kinh tế hội nhập, là cơ chế tự đào thải và là động lực cho sự phát triển của lĩnh
vực kinh tế nói riêng. Hơn bao giờ hết, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành đ-
ợc quan tâm và chú trọng từ nhà nớc cũng nh các doanh nghiệp ngành dệt may
Việt Nam gia nhập thị trờng Mỹ là một trong những ngành nh vậy giàu tiềm năng,
và rất có u thế của đất nớc ta. Tuy nhiên so với nhiều quốc gia trong khu vực, năng
lực cạnh tranh của ngành còn cha cao, cần có giải pháp phát triển, cải thiện theo
phơng hớng hiệu quả nhất, đó cũng là lý do tôi chọn đề tài:
" Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may Việt Nam vào thị trờng
Mỹ". Kết cấu của đề tài gồm 3 phần:
- Phần lý luận
I. Khái niệm cạnh tranh
II. Những nhân tố ảnh hởng đến cạnh tranh ngành
- Phần nội dung
I. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam - những thuận lợi và khó khăn
khi sản xuất vào thị trờng Mỹ.
II. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may vào thị tr-
ờng Mỹ.
- Phần kết luận.
1
Phần lý luận
I. Khái niệm cạnh tranh
Khi nói đến cạnh tranh, có rất nhiều quan niệm khác nhau và theo xu thế
phát triển, quan niệm đó cũng đợc nhìn nhận từ nhiều góc độ, mới mẻ hơn rất
nhiều.
1. Nhìn nhận cạnh tranh theo quan điểm kinh tế học


Cạnh tranh theo định nghĩa của kinh tế học là sự tranh giành thị trờng để
tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp và yếu tố đó chỉ tồn tại trong nền kinh tế
thị trờng. Ngời ta chia cạnh tranh theo hai dạng: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh
tranh không hoàn hảo.
* Cạnh tranh hoàn hảo là môi trờng cạnh tranh mà ở đó có nhiều ngời mua
và ngời bán độc lập với nhau. Thị trờng cạnh tranh hoàn hảo đòi hỏi có nhiều ngời
mua và nhiều ngời bán mà mỗi ngời trong số họ hành động độc lập với tất cả với
những ngời khác. Tất cả các đơn vị hàng hoá trao đổi đợc coi là giống nhau, tất cả
ngời mua và ngời bán đều có hiểu đầy đủ về các thông tin liên quan đến việc trao
đổi và không có gì cảm trở đối với việc gia nhập cũng nh rút khỏi thị trờng.
* Cạnh tranh không hoàn hảo: biểu hiện dới dạng cạnh tranh độc quyền và
độc quyền toàn tập đoàn. Đối với cạnh tranh độc quyền: các doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau bằng việc bán sản phẩm phân biệt, các sản phẩm này có thể thay
thế cho nhau ở mức độ cao nhng không phải là thay thế hoàn hảo. Doanh nghiệp
mới gia nhập thị trờng tơng đối rễ ràng và các doanh nghiệp ở trong ngành dời bỏ
cũng tơng đối dễ nếu các sản phẩm của họ trở nên không có lãi. Đối với độc quyền
toàn tập đoàn: thị trờng này chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu
hết tổng sản lợng, sản phẩm có thể giống nhau hoặc khác nhau, hàng rào gia nhập
lớn làm cho các doanh nghiệp mới không thể hoặc khó mà gia nhập đợc vào thị tr-
ờng.
Cạnh tranh là hiện tợng phổ biến trong nền kinh tế thị trờng và để đạt đợc
mục tiêu lợi nhuận, những ngời tham gia thị trờng phải thông qua sự cạnh tranh
2
lẫn nhau nên từ lâu, vấn đề cạnh tranh đã là một trong những nội dung quan trọng
của các môn khoa học về kinh tế và là một đối tợng điều chỉnh của luật pháp theo
quy luật chung cạnh tranh luôn có xu hớng dẫn đến độc quyền do sự tác động của
quy luật hiệu quả kinh tế theo quy mô hoặc độc quyền là trạng thái đem lại cho cá
nhân các nhà cung cấp lợi nhuận siêu ngạch. Cũng bởi lý do đó mà trên bình diện
xã hội, cuộc cạnh tranh quyết liệt để giành lấy vị thế độc quyền, bất chấp mọi thủ
đoạn - một khía cạnh không hoàn hảo, bị lên án về mặt đạo đức.

2. Nhìn nhận cạnh tranh dựa trên mô hình năm lực lợng của Michael
Porter.
Theo phơng pháp" năm lực lợng", cấu trúc cạnh tranh trong một ngành có
thể đợc mô tả bằng "năm lực lợng chính".
2.1. Khách hàng
Đối với mỗi một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thì sự tín
nhiệm của khách hàng có thể đợc coi là một trong những tài sản vô giá của doanh
nghiệp. Sự tín nhiệm đó có đợc là do doanh nghiệp đã cung cấp những sản phẩm
dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Khi khách hàng có u thế có
thể làm giảm lợi nhuận của ngành bằng cách ép giá, bằng cách đòi hỏi chất lợng
sản phẩm cao hơn hoặc bằng cách đòi hỏi có nhiều dịch vụ đi kèm hơn khi tiêu thụ
sản phẩm. Khách hàng sẽ có u thế. Đối với doanh nghiệp khi mà khách hàng mua
một lợng hàng lớn của doanh nghiệp, khi mà việc chuyển sang ngời bán khác
không có gì khó khăn cả, khi có sự thay đổi chất lợng sản phẩm của doanh nghiệp
không có ảnh hởng gì tới khách hàng. Trong trờng hợp nhà cung cấp giữ vị trí độc
quyền thì khách hàng lệ thuộc hoàn toàn vào nhà cung cấp. Chính vì vậy trong nền
kinh tế thị trờng, chúng ta cần có luật chống độc quyền.
2.2. Các đối thủ cạnh tranh theo ngành
Mức độ căng thẳng của sự cạnh tranh giữa các đối thủ không phải là một
biến số dễ dàng đo đợc. Trong một số ngành cạnh tranh có thể gọi là " bóp nghẹt",
trong khi đó ở một số ngành khác mối quan hệ giữa các doanh nghiệp lại đợc coi
3
là "lịch sử" hay " có trật tự", các yếu tố xác định mức độ cạnh tranh giành: Tăng
trởng của ngành, chi phí cố định hoặc chi phí lu kho, sự vợt công suất không liên
tục, những khác biệt về sản phẩm, sự xác định của nhãn hàng và chi phí chuyển
của khách hàng, số các doanh nghiệp và quy mô tơng đối của chúng, sự đa dạng
của các đối thủ cạnh tranh, lợi ích của Công ty, hàng rào rút khơi cao. Trong thực
tế các nhà đầu t đặc biệt không thích các cuộc chiến cạnh tranh thông qua giá cả vì
nó sẽ làm giảm lợi nhuận cho cả ngành.
2.3. Các nhà cung cấp

Những nhà cung cấp vật t thiết bị nguyên vật liệu cho doanh nghiệp có thể
làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp bằng việc tăng giá, giảm chất lợng vật t
cung cấp hoặc giảm các dịch vụ đi kèm sẽ có thể gây áp lực đối với doanh nghiệp
khi số lợng các nhà cung cấp ít, không có loại thay thế khi chi phí cho việc chuyển
sang các nhà cung cấp khác rất tốn kém.
2.4. Các doanh nghiệp sẽ tham gia thị trờng ( đối thủ tiềm ẩn).
Các đối thủ tiềm ẩn thờng xuất hiện ở những khu vực mới hình thành bởi vì
ở những khu vực này lợng cầu thờng lớn, lợi nhuận còn cao thì khách hàng cha kịp
làm quen với những sản phẩm có uy tín. Mối đe doạ suất hiện các đối thủ tiềm ẩn
này phụ thuộc vào 3 nhân tố: độ hẫp dẫn của khu vực, độ lớn của các các rào chắn
vào khu vực, phản ứng từ phía các nhà sản xuất trong khu vực đối với những đối
thủ mới.
Quy mô rào cản ở các khu vực bao gồm quy mô sản xuất trong khu vực và
quy mô sản xuất của một doanh nghiệp ảnh hởng đến gia thành một sản phẩm,
quy mô càng lớn thì giá thành càng thấp. Chính vì vậy một doanh nghiệp mới nhẩy
vào một khu vực thì quy mô doanh nghiệp mới cần vợt qua ngỡng: giá thành sản
phẩm thấp hơn giá mà thị trờng chấp nhận. Doanh nghiệp mới tham gia khu vực
phải có quy mô bằng hoặc lớn hơn quy mô của các doanh nghiệp đang hoạt động
trong khu vực.
Nhân tố quyết định quy mô rào cản đầu vào cũng chính là khả năng liên kết
của doanh nghiệp đối với hệ thống kênh tiêu thụ. Một doanh nghiệp mới tham gia
khu vực để cho hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm cho mình phải dùng biện pháp
4
giảm giá hoặc là u đãi khác. Quyết định quy mô rào cản đầu vào bao gồm cả hệ
thống chính sách: thủ tục cấp giấy phép, thủ tục đăng ký chất lợng sản phẩm nhãn
mác và đó là một rào cản: chính sách thuế xuất nhập khẩu.
2.5. Các sản phẩm thay thế
Nếu các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm của ngành là sẵn có thì khách
hàng có thể chuyển sang các sản phẩm thay thế đó nếu các doanh nghiệp đang tồn
tại đặt giá cao. Vì thế mối đe doạ của các sản phẩm thay thế là một lực lợng thị tr-

ờng quan trọng tạo ra giới hạn đối với các mức giá mà các doanh nghiệp đã đặt ra.
Tầm quan trọng của mối đe doạ này phụ thuộc vào 3 yếu tố: Giá và công dụng của
các sản phẩm thay thế, chi phí chuyển đổi với khách hàng, khuynh hớng thay thế
của ngời mua, khả năng sản phẩm thay thế tăng lên cùng sự già cõi, sự lạc hậu của
sản phẩm trong khu vực (khu vực đang trong giai đoạn suy thoái) bên cạnh đó do
tiến bộ của khoa học công nghệ, suất hiện sản phẩm mới đáp ứng tốt hơn nhu cầu
và thị hiếu của khách hàng.
3. Thực tế cạnh tranh và tính hai mặt của cạnh tranh
3.1. Thực tế cạnh tranh
Môi trờng thờng xuyên biến động của thực tiễn hoạt động sản xuất kinh
doanh đã cho thấy không có một môi trờng nào ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo
hoặc hoàn toàn độc quyền, nó chỉ có ý nghĩa tơng đối vì năng lực thực tế, điều
kiện chủ quan và kể cả " cơ may" của các doanh nghiệp không thể đồng nhất. Mọi
nền kinh tế thị trờng đều có trạng thái cạnh tranh không hoàn hảo, ở đâu đó giữa
hai cực này. Cả hai loại lực lợng độc quyền và cạnh tranh kết hợp với nhau trong
việc xác định phần lớn giá cả.Vì thế càng khẳng định rõ hơn: Xác định một nền
kinh tế là có tính cạnh tranh hay độc quyền trở nên có ý nghĩa tơng đối. Tuy
nhiên cũng không phải là vì tính tơng đối và sự phức tạp của vấn đề mà không thể
phân biệt rạch ròi giữa tình trạng độc quyền và tính cạnh tranh về nguyên tắc, ngời
ta có thể coi một nền kinh tế có nhiều yếu tố cản trở sự cạnh tranh là một nền kinh
tế thiếu tính cạnh tranh và ngợc lại.
Cạnh tranh là hiện tợng gắn liền với kinh tế thị trờng, do đó cạnh tranh chỉ
xuất hiện dới những tiền đề kinh tế và pháp lý cụ thể. Ngày nay, nền kinh tế thị tr-
5
ờng đợc khẳng định là một sự phát triển tất yếu là động lực phát triển nội tại của
nền kinh tế thị trờng. Cạnh tranh cũng chỉ thực sự diễn ra khi pháp luật thừa nhận
và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi tự do thơng mại và theo đó là
tự do kinh doanh. Cạnh tranh cũng chỉ diễn ra khi không có bất kỳ một quy định
hay hành vi nào ngăn cản sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng - những
doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập thị trờng.

Điều đó có nghĩa là cạnh tranh chỉ xuất hiện đợc khi không có độc quyền d-
ới bất cứ hình thức nào. Ngày nay nhu cầu nâng cao hơn nữa hiệu quả và sức cạnh
tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế đang đòi hỏi phải tạo ra
những cơ sở pháp lý cho tự do kinh tế. Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau về
cạnh tranh, song nhìn chung, cạnh tranh đợc hiểu là sự chậy đua hay ganh đua của
các thành viên của một thị trờng hàng hoá, sản phẩm cụ thể nhằm mục đích lôi
kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị trờng và thị phần của một thị
trờng. Nh vậy về phơng diện kinh tế, cạnh tranh đợc hình thành trên cơ sở của tiền
đề là: có sự hiện diện của các thành viên thơng trờng có cuộc chạy đua vì mục tiêu
kinh tế giữa các thành viên và chúng đều diễn ra trên một thị trờng hàng hoá cụ
thể. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền và đời sống kinh tế,
ngời ta phân thị trờng thành hai hình thái: cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự
điều tiết. Cạnh tranh tự do là hiện tợng không thể có trong thế giới hiện đại vì kinh
tế thị trờng hiện đại luôn có nhu cầu đợc điều tiết và nhà nớc nào cũng có chính
sách kinh tế riêng và vì thế luôn tìm cách hớng các hoạt động kinh tế vào mục tiêu
kinh tế (vĩ mô) của mình. Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phơng thức cạnh
tranh ngời ta phân nhóm các hành vi cạnh tranh trên các hình thái thị trờng gồm
hai loại: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, vì đợc
bảo hộ bởi các nguyên tắc về quyền tự do kinh doanh, tự do thế ớc và tự do lập hội
và sự giục dã của lợi nhuân nên thực trạng của thơng trờng luôn diễn ra theo hớng
không lành mạnh.
3.2. Tính hai mặt của cạnh tranh
Cạnh tranh luôn biểu hiện ở hai mặt: mặt tích cực và tiêu cực
6
* Cạnh tranh có xu hớng thúc đẩy nền kinh tế tăng trởng mạnh mẽ, điều
chỉnh các nguồn lực phát triển của đất nớc. Thông qua quy luật cung cầu, cạnh
tranh có khả năng nhanh nhạy trong việc phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị
hiếu của ngời tiêu dùng. Vì cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình
ngày càng nhiều khách hàng nên nó buộc các nhà sản xuất công nghiệp và dịch vụ
phải tạo ra những sản phẩm có chất lợng ngày càng cao với giá thành ngày càng

hạ. Vì vậy, cạnh tranh là cơ hội bắt buộc các doanh nghiệp phải áp dụng công
nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật, cạnh tranh là nguồn gốc động lực để phát
triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao. Các doanh nghiệp phải thờng xuyên cải
tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những thành
tựu khoa học kỹ thuật vào quản lý hiện đại vào trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Mặt khác vì cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình ngày
càng nhiều khách hàng nền nó buộc các doanh nghiệp phải sản xuất sản phẩm chất
lợng giá thành hạ. Trong kinh doanh để cạnh tranh về giá, một số doanh nghiệp
chấp nhận lời ít, bán giá thấp nhng dùng số nhiều để thu lại. Phơng thức phục vụ
và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tính độc đáo của sản
phẩm giữ lòng tin với khách hàng giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh
chóng, tiện lợi. Trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhà nớc với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh thờng linh hoạt hơn
so với doanh nghiệp nhà nớc.
* Trong điều kiện của cơ chế thị trờng khi mức độ cạnh tranh đã trở nên gay
gắt thì các doanh nghiệp vì sự tồn tại của mình luôn phải toán tính để vợt lên trên
các đối thủ của mình vì cạnh tranh là một quy luật trong nền kinh tế thị trờng mà
ở đó các chủ thể kinh tế tìm mọi biện pháp - cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục
tiêu kinh tế của mình. Với nghĩa đó, cạnh tranh bao hàm cả những thủ đoạn trong
hoạt động kinh doanh nh dùng tài chính để thao túng đối với doanh nghiệp có
tiềm năng tài chính lớn: bằng cách bán phá giá loại đối phơng ra khỏi cuộc chơi.
Mặt khác dù doanh nghiệp còn dùng thủ đoạn: sử dụng sự liên kết để thao túng thị
trờng, khống chế thị trờng, thu lợi nhuận độc quyền cao nh liên kết về giá nhằm
bóp chẹt ngời tiêu dùng, liên kết về vùng tiêu thụ, cùng nhau phân chia thị trờng,
7
cùng nhau giảm chất lợng hàng hoá, không cung cấp hàng hoá cho một số tổ chức
thơng mại nào đó nhằm gây áp lực về giá bán. Ngoài ra hiện tợng mắc ngoặc với
quan chức nhà nớc để lũng đoạn thị trờng, tìm kiếm những cơ hội đầu t tạo những
điều kiện "đặc biệt" thuận lợi trong sản xuất kinh doanh thông qua mua chuộc,
hối lộ các quan chức nhà nớc, lợi dụng kẽ hở luật pháp đã đợc nhiều doanh nghiệp

tiến hành. Một số thủ đoạn nữa đó là sử dụng các thủ đoạn phi kinh tế khác: đa
thông tin sai lệch về sản phẩm làm giả sản phẩm, sử dụng gián điệp kinh tế để ăn
cắp một công nghệ, chiến lợc đầu t phát triển của đối phơng, dùng bạo lực để loại
trừ đối thủ cạnh tranh dẫn đến hiện tợng " cá lớn nuốt cá bé".
II. Những nhân tố ảnh hởng đến cạnh tranh ngành
1. Tác động của môi trờng quốc tế:
Môi trờng quốc tế có ảnh hởng rất lớn đến cạnh tranh của ngành. Ngày nay
xu thế khu vực hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là xu hớng có tính khách
quan. Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trờng theo hớng mở cửa và hội
nhập. Nền kinh tế quốc dân nớc ta trở thành một phân hệ mở cửa của hệ thống lớn
là khu vực và thế giới. Hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc
vào sự thay đổi chính trị trên thị trờng quốc tế, các quy định pháp luật của các
quốc gia, luật pháp và các thông lệ quốc tế, ảnh hởng của các yếu tố kinh tế quốc
tế. Mức độ thịnh vợng, khủng hoảng, những thay đổi trong quan hệ buôn bán quốc
tế, các yếu tố kỹ thuật công nghệ văn hoá xã hội...tất cả đều ảnh hởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, có thể tạo cơ hội cũng nh thách
thức đối với sự tồn tại phát triển của ngành.
2. Tác động của môi trờng kinh tế quốc dân
Môi trờng kinh tế quốc dân bao gồm mọi nhân tố của nền kinh tế quốc dân
nằm ngoài môi trờng cạnh tranh nội bộ ngành tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế có vai trò quan trọng
hàng đầu và ảnh hởng có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh
nghiệp. Các nhân tố kinh tế ảnh hởng mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của
8
các doanh nghiệp thờng là trạng thái phát triển của nền kinh tế. Tăng trởng, ổn
định hay sinh thái. Việc tạo ra môi trờng kinh doanh lành mạnh hay không lành
mạnh hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố luật pháp và quản lý nhà nớc về kinh tế.
Việc ban hành hệ thống luật pháp có chất lợng và đa vào đời sống là điều kiện đầu
tiên đảm bảo môi trờng kinh doanh bình đẳng, tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp
có cơ hội cạnh tranh lành mạnh cùng với hệ thống luật pháp, quản lý nhà nớc về

kinh tế là nhân tố tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của từng doanh
nghiệp. Các chính sách đầu t, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu... sẽ
tạo ra sự u tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, tác động trực tiếp đến
kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thuộc ngành kinh tế nhất định.
Trình độ kỹ thuật công nghệ, nhân tố văn hoá xã hội, nhân tố tự nhiên ảnh hởng
rất lớn, đòi hỏi phải nghiên cứu, ứng dụng phù hợp nhất.
3. Tác động của môi trờng bên trong doanh nghiệp
* Thứ nhất phải đề cập đến chất lợng của hoạt động Marketing nhằm xác
định cầu của khách hàng, thị hiếu của khách hàng để trên cơ sở đó hoạch định các
chính sách về sản phẩm, giá cả, các chính sách phân phối cũng nh các chính sách
kích thích tiêu thụ. Chất lợng hoạt động Marketing của doanh nghiệp càng cao,
phạm vi càng rộng thì càng góp phần giúp cho doanh nghiệp có lợi thế hơn trong
cạnh tranh.
* Thứ hai đó là khả năng sản xuất nghiên cứu và phát triển khả năng này
thể hiện ở việc doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm chất lợng cao hơn, giá
thành thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Khả năng nghiên cứu và phát triển
của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng, nó có thể giúp cho doanh nghiệp vẫn
giữ đợc vị trí hàng đầu trong khu vực cạnh tranh hoặc có thể làm cho doanh
nghiệp tụt hậu trong khu vực.
* Thứ ba đó là nguồn nhân lực: là năng lực trình độ cán bộ quản lý, trình độ
tay nghề đạo đức của ngời lao động, giá trị của các mối quan hệ lao động trong
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
* Thứ t là tình hình tài chính: điều kiện tài chính thờng đợc xem là phơng
pháp đánh giá vị trí cạnh tranh tốt nhất của doanh nghiệp so với các đối thủ và
9
điều kiện tài chính của doanh nghiệp thờng đợc đánh giá thông qua các chỉ tiêu
nh khả năng thanh toán của doanh nghiệp, cán nợ, vốn luân chuyển, lợng tiền mặt,
tỷ suất lợi nhuận...
* Thứ năm là cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp : quản trị doanh nghiệp tác
động mạnh mẽ đến hoạt động lao động sáng tạo của đội ngũ lao động, đến sự đảm

bảo cân bằng giữa doanh nghiệp với môi trờng bên ngoài cũng nh cân đối có hiệu
quả các bộ phận bên trong doanh nghiệp, quan hệ nhân quả giữa hai hoạt động này
ảnh hởng đến hiệu quả cơ cấu tổ chức thông qua các chỉ tiêu tốc độ giao thiết bị,
tính kịp thời, độ chính xác của các quyết định.
10

×