MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................... 2
NỘI DUNG CHÍNH ............................................................................................ 4
I. Các định nghĩa liên quan đến cạnh tranh ..................................................... 4
II. Một số kinh nghiệm của các nước bạn trong vấn đề nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. ........................ 5
1. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp: ............................ 5
1.1 .Nhật Bản: .......................................................................................... 5
1.2. Trung Quốc: ...................................................................................... 8
2. Năng lực cạnh trang của các sản phẩm nông nghiệp: .......................... 10
III. Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam: ..................... 11
1. Trước khi gia nhập WTO ...................................................................... 11
1.1. Thành tựu: ....................................................................................... 11
1.2. Hạn chế: .......................................................................................... 13
2. Sau khi gia nhập WTO .......................................................................... 16
2.1. Trước hết xin đề cập đến những nguyên tắc nền tảng của WTO: 16
2.2. Cơ may ............................................................................................ 17
2.3. Thách thức ...................................................................................... 19
IV. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ................. 20
1. Xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược cạnh tranh tích cực: .... 20
2. Phát triển khoa học công nghệ và giáo dục nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế. ................................................................................. 25
3. Tiếp tục hoàn thiện chính sách kinh tế, dịch vụ tài chính ngân hàng: . 26
4. Một số giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả cạnh tranh một số ngành có
sức cạnh tranh của Việt Nam: ................................................................... 27
4.1. Sản phẩm nông nghiệp: .................................................................. 27
4.2. Ngành dệt may: ............................................................................... 29
C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 31
1
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày 7/11/2006- một ngày đặc biệt thành công của Việt Nam khi các
vòng đàm phán gia nhập WTO chính thức kết thúc. Việt Nam đã trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức WTO sau 15 năm đàm phán.
Sau những nỗ lực giờ đây Việt Nam đã “mua” được tấm vé gia nhập câu
lạc bộ WTO và sẽ được hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng với
các thành viên khác. Nhưng, nếu ai coi WTO là một con gà đẻ trứng vàng cho
Việt Nam thì xin khẳng định đó là một quan niệm sai lầm hoàn toàn. Bởi quá
trình đàm phán không đề cập đến việc cải thiện điều kiện gia nhập thị trường
thế giới cho hàng hoá Việt Nam mà ngược lại đó là quá trình thương thuyết
nhằm xác định cái giá mà Việt Nam phải trả cho việc tự do hoá gia nhập thị
trường nội địa cho các sản phẩm dịch vụ nước ngoài, để đổi lấy việc được
tham gia vào quá trình tự do hoá thị trường toàn cầu cũng như khuôn khổ
pháp luật cho thương mại đa phương đã được các nước thành viên WTO liên
tục đàm phán kể từ năm 1948.
Có thể nói gia nhập WTO không phải để Nhà nước và các doanh nghiệp
Việt Nam đẩy gánh nặng phát triển kinh tế cho các nước thành viên mà thực
chất gia nhập WTO là đưa Việt Nam vào quá trình cạnh tranh không mệt mỏi,
cạnh tranh liên tục trên một sân chơi bình đẳng, không còn chính sách bảo hộ
hàng hoá như trước. Chính vì vậy, ông Peter Mandelson đã phát biểu: “Vào
WTO, được rất lớn nhưng mất cũng rất nhiều”.
Dù biết gia nhập WTO Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức
nhưng toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế
giới. Nếu đứng ngoài xu thế chung này, tất yếu Việt Nam sẽ bị đẩy khỏi sân
chơi thương mại quốc tế, và tụt hậu là một điều chắc chắn.
Khó khăn nhiều nhưng thuận lợi cũng không phải ít. Quá trình hội nhập,
toàn cầu hoá kinh tế sẽ mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho chúng ta phát
huy lợi thế so sánh cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Phải khẳng
định rằng quốc gia nào chiếm được vị trí có lợi trong cạnh tranh thị trường thì
quốc gia đó sẽ chiếm được quyền chủ động trong tiến trình toàn cầu hoá kinh
tế. Vì vậy vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam là vấn đề
thực tiễn nóng bỏng, sôi động được các nhà hoạch định chính sách, nhà quản
lý doanh nghiệp và chính phủ quan tâm nghiên cứu.
Trong đề án này, xin được trình bày một số vấn đề liên quan đến năng
lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập WTO.
2
Đề án tập trung vào 3 nội dung chính sau:
(1) Một số kinh nghiệm của các nước bạn trong vấn đề nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
(2) Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
(3) Các giải pháp chủ yếu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau đây xin đi vào nội dung chi tiết của đề án.
3
NỘI DUNG CHÍNH
I. Các định nghĩa liên quan đến cạnh tranh
Cạnh tranh kinh tế, về mặt lý luận từ lâu đã được các nhà kinh tế học
trước Mác và chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đề
cập đến.
Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực trong nền kinh tế thị
trường. Trong văn kiện đại hội Đảng VIII của Đảng cũng đã ghi rõ “Cơ chế
thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh. hợp
pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích của đất nước chứ không phải làm phá
sản hang loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau.”
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau
tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của
mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như
các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ
thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản
xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và
sự tiện lợi.
Nếu ta xét cạnh tranh theo những tiêu thức khác nhau ta sẽ có những loại
cạnh tranh khác nhau. Chẳng hạn, khi nói đến tính chất cạnh tranh thì có 2
loại là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Nếu xét dưới
góc độ thị trường, cạnh tranh gồm 2 loại là cạnh tranh hoàn hảo thuần tuý và
cạnh tranh không hoàn.Nếu xét dưới góc độ công đoạn sản xuất-kinh doanh,
người ta cho rằng có 3 loại cạnh tranh: cạnh trang trước khi bán hàng, trong
quá trình bán hàng, và sau khi bán hàng.Còn nếu xét theo mục tiêu kinh tế của
các chủ thể trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh
giữa các ngành. Cuối cùng nếu xét theo phạm vi lãnh thổ, người ta nói tới
cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Nhưng cạnh tranh quốc tế có thể
diễn ra ở ngay thị trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước
sản xuất và hàng hoá ngoại nhập nhất là hàng hoá nhập lậu. Đặc biệt khi nước
ta gia nhập WTO cạnh tranh quốc tế trong nội địa ngày càng tăng mạnh vì
chúng ta phải giảm thuế nhập khẩu cho hàng hoá nước ngoài nên giá cả hàng
hoá ngoại sẽ giảm. Do đó nếu sản phẩm của chúng ta không có sức cạnh tranh
mạnh mẽ chắc chắn sẽ bị đánh bật, dẫn tới phá sản.
Sau đây là một số nhân tố chính cấu thành nên sức mạnh cạnh tranh:
4
_Đó là chất lượng hàng hoá tốt. Đây là nhân tố quan trọng nhất quyết
định khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
_Đó là giá cả thấp.
_Và cuối cùng là thời gian và điều kiện dịch vụ. Tức là hàng hoá đưa ra
thị trường đúng thời điểm xã hội cần, bán nhanh, thanh toán nhanh. Sau khi
tiêu thụ thì có các dịch vụ tốt:bảo hành, sửa chữa, hướng dẫn tiêu dùng…
II. Một số kinh nghiệm của các nước bạn trong vấn đề nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp:
1.1 .Nhật Bản:
Để có nền kinh tế siêu cường như ngày nay, Nhật Bản đã phải trải qua
hơn 100 năm phát triển. Trong đó có thể nói thời kì 1955-1973 là thời kì rất
đặc biệt. Thời kì này kinh tế mỗi năm tăng trưởng bình quân 10% và thành
quả này kéo dài trong thời gian khoảng 20 năm. Các nhà nghiên cứu gọi đây
là giai đoạn “thần kì” hoặc “thời đại phát triển cao độ” của Nhật Bản.
Nhưng, trước khi bước vào giai đoạn thần kì này, Nhật Bản đứng trước
một tình huống quốc tế giống như Việt Nam hiện nay là phải có một chiến
lược như thế nào trước trào lưu chung của thế giới là mở cửa, hội nhập vào
nền kinh tế thế giới trong khi nền kinh tế nước mình còn non yếu.
Nhật Bản là nước nghèo tài nguyên vào loại nhất thế giới nên ngoại
thương có vai trò vô cùng quan trọng cho kinh tế phát triển. Rõ ràng việc gia
nhập các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới sẽ mang lại cơ hội tiếp cận thị
trường thế giới rộng lớn. Song việc đó lại đi kèm theo những nghĩa vụ phải
mở cửa thị trường nước mình đối với hàng ngoại và hoạt động đầu tư của các
công ty nước ngoài trong khi trình độ phát triển kinh tế của Nhật Bản còn non
yếu so với cac nước Âu-Mĩ. Nhưng chỉ có con đường chấp nhận hội nhập,
giảm bớt thách thức đồng thời đưa ra các chiến lược phát triển các ngành
công nghiệp mà Nhật Bản có tiềm năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Chiến lược mở cửa, hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
Nhật Bản gồm 3 bộ phân không thể tách rời:
Thứ nhất, việc mở cửa như thế nào để hàng nhập không cản trở sự phát
triển của các ngành công nghiệp trong nước.
Thứ hai,việc mở cửa phải kết hợp với chiến lược, chính sách làm sao cho
các ngành công nghiệp ngày càng có sức cạnh tranh trong thị trường trong
nước và thế giới.
5
Thứ ba, để hội nhập có hiệu quả, tranh thủ được nhiều cơ hội của thị
trường thế giới phải có chiến lược và tổ chức đẩy mạnh xuất khẩu.
Sự phát triển thần kì và sự tăng cường sức cạnh tranh quốc tế của một số
ngành công nghiệp chủ yếu của Nhật Bản trong thời kì này đã chứng minh sự
đúng đắn của chiến lược mở cửa, hội nhập nêu trên.
Sau đây là cụ thể chiến lược kinh tế nói trên của Nhật Bản:
a. Nhật Bản từng bước thực hiện tự do hoá mậu dịch và bảo hộ sản xuất để
tăng dần sức cạnh tranh của các mặt hàng công nghiệp:
Vào tháng 2/1955, Nhật Bản gia nhập GATT. Theo quy định của GATT,
các nước thành viên phải tiến hành tự do hoá mậu dịch (trade liberalization)
nghĩa là không được dung quản lý hạn ngạch hoặc các biện pháp hành chính
khác để bảo hộ thị trường trong nước nhưng được dùng thuế quan để bảo hộ.
Tuy vậy, Nhật Bản đã xin hoãn thực hiện điều thứ 11 của tổ chức này là
các nước thành viên không được hạn chế nhập khẩu vì lí do cán cân thanh
toán bị nhập siêu. Phải đến năm 1963, Nhật Bản mới tham gia điều thứ 11 của
GATT. Trong khoảng thời gian 8 năm đó, Nhật Bản đã đưa ra một chương
trình tự do hoá nhập khẩu rất tỉ mỉ và cẩn thận, bắt đầu từ những ngành đang
có lợi thế so sánh hoặc ít bị áp lực xã hội, từng bước đưa thêm các ngành khác
vào chương trình tự do hoá. Và chương trình này đã thực sự thành công.
Đồng thời, Nhật Bản còn cải cách luật thuế quan vào năm 1961, và tích
cực dung thuế quan làm công cụ bảo hộ các ngành công nghiệp còn non trẻ.
Ngoài ra, chính phủ Nhật Bản còn áp dụng các chính sách thuế đặc biệt như
giảm thuế đối với 1 số công ty đặc biệt, hoàn trả thuế… Bằng những biện
pháp trên, Chính phủ Nhật đã khuyến khích các công ty phát triển các ngành
công nghiệp mới hoặc hạn chế các ngành công nghiệp không cần thiết. Điều
đáng quan tâm là mức thuế quan được tính tuỳ theo khả năng cạnh tranh của
từng ngành. Tuy vậy trong từng ngành, biện pháp này chỉ được áp dụng trong
thời gian ngắn và chính phủ công bố thời khoá biểu giảm dần mức thuế quan
để làm áp lực cho các xí nghiệp trong nước cố gắng vươn lên để có thể cạnh
tranh mà không cần bảo hộ.
Nhận Bản rất sợ các công ty xuyên quốc gia của phương Tây sẽ chi phối
nền kinh tế của mình nếu tự do hoá đầu tư của các xí nghiệp nước ngoài vì
vậy Nhật Bản rất dè dặt trong việc tự do hoá tư bản. Trong thời gian từ 1967-
1975, Nhật Bản có 5 lần tự do hoá tư bản và bắt đầu từ những ngành trong
nước có sức cạnh tranh hoặc những ngành truyền thống mà các công ty nước
ngoài hầu như không quan tâm.
6
Song song với việc trì hoãn tự do hoá tư bản, chính phủ Nhật tích cực
khuyến khích, sắp xếp các công ty trong nước tạo thành các công ty lớn, đủ
sức cạnh tranh với các công ty xuyên quốc gia sau khi mở cửa thị trường đầu
tư ra nước ngoài.
b. Xây dựng chiến lược phát triển và tăng sức cạnh tranh của các ngành công
nghiệp
_Thứ nhất,Nhật Bản đã chon các ngành có lợi thế so sánh động-lợi thế so
sánh có được trong tương lai- và đưa ra cơ cấu công nghiệp trung và dài hạn.
Đó phải là các ngành có khả năng tăng năng suất lao động nhanh, những
ngành mà Nhật Bản có khả năng hấp thu công nghệ nhập khẩu một cách có
hiệu quả và là những ngành mà nhu cầu sẽ tăng nhanh khi lợi nhuận tăng. Với
lực lượng lao động có kĩ năng cao cùng với nhiều yếu tố khác, Nhật đã chọn
hầu hết các ngành công nghiệp nặng và ngành có công nghệ cao.
_Thứ hai, Nhật Bản đã đưa ra các chính sách nuôi dưỡng ngành công
nghiệp chẳng hạn như ban hành các luật hoặc pháp lệnh cho từng ngành đồng
thời có biên pháp trợ giúp về giá và về tín dụng…
_Thứ ba, các chính sách, chiến lược công nghiệp được chuẩn bị với sự
tham gia rộng rãi của nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là sự liên kết, hợp tác
giữa chính phủ với lãnh đạo các doanh nghiệp và học giả kinh tế.
c. Xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp gồm 2 phần:
Một là, khả năng tổ chức của các công ty tư nhân. Đó là sự hình thành
của các tổng công ty thương mại. Các tổng công ty này có các tính chất cơ
bản sau:
_Tính tổng hợp: kinh doanh nhiều mặt hàng.
_Tính đa dạng: kinh danh xuất nhập khẩu, bán buôn trong nước, bán
buôn giữa các nước bên ngoài Nhật Bản.
_Tính tổ chức: đóng vai trò tích cực trong việc cung cấp vốn, tín dụng
cho các doanh nghiệp nhỏ, giới thiệu công nghệ mới, tìm đối tác và đầu tư
trực tiếp trong các liên doanh ở nước ngoài.
Hai là, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu của chính phủ: Trong quá trình
phát triển các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu, vai trò của Chính phủ
Nhật rất to lớn. Chính phủ Nhật đã áp dụng :
_Chính sách ưu đãi cho các xí nghiệp xuất khẩu, chính sách miễn giảm
thuế cho các công ty xuất khẩu.
_Thiết lập cơ quan, tổ chức hỗ trợ xuất khẩu. Trong lĩnh vực này, Chính
phủ Nhật Bản lập ra chế độ thừa nhận xí nghiệp cống hiến xuất khẩu , lập ra
7
ngân hàng xuất khẩu để hỗ trợ tín dụng cho các dự án xuất khẩu có kim
nghạch lớn, lập hội nghị tối cao bàn về xuất khẩu gồm đại diện chính phủ và
giới kinh doanh,lập chế độ kiểm tra hàng xuất khẩu và cuối cùng lập tổ chức
chấn hưng mậu dịch để hỗ trợ về mặt thông tin và tiếp thị.
Khả năng tổ chức và nỗ lực của các công ty tư nhân kết hợp với các
chính sách hỗ trợ của chính phủ đã làm cho xuất khẩu của Nhật Bản tăng
nhanh và chiếm thị phần lớn trên thị trường quốc tế.
Như vậy, sự thành công trong phát triển kinh tế và nâng cao sức cạnh
tranh của các ngành công nghiệp Nhật Bản do các yếu tố sau đây tạo nên :
*Chiến lược mở cửa hội nhập đã kết hợp được với chiến lược, chính
sách làm cho các ngnàh công nghiệp ngày càng có sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới và chiến lược tranh thủ nhiều nhất cơ hội của thị trường thế
giới thông qua việc tổ chức, đẩy mạnh sản xuất.
*Các chiến lược này đưa ra được thực thi cao và có hiệu quả nhờ huy
động được sức mạnh tổng hợp thể hiện ở năng lực phẩm chất của công chức
nhà nước, của lãnh đạo doanh nghiệp, ở sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ
với doanh nghiệp và trí thức trong việc định ra chiến lược, ở sức mạnh của
các tập đoàn kinh tế.
1.2. Trung Quốc:
Trung Quốc vốn là một nước xã hội chủ nghĩa, trước kia nền kinh tế
cũng theo chế độ kế hoạch hoá tập trung. Kể từ sau Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá XI(1978), Trung Quốc bước vào giai đoạn
thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từng bước sang cơ chế thị trường với tiêu
chí xây dựng 1 nước xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc.
Bằng việc áp dụng nhiều chính sách mới phù hợp, Trung Quốc đã đưa
nền kinh tế phát triển vượt bậc.Dưới đây là những kinh nghiệm của Trung
Quốc trong lĩnh vực công nghiệp và ngoại thương được coi là những nguyên
nhân trực tiếp tạo nên sức cạnh tranh của hàng công nghiệp Trung Quốc trên
thị trương thế giới.
Thành công lớn nhất của Trung Quốc trong lĩnh vực hàng công nghiệp
xuất khẩu là trong một thời gian không lâu đã đẩy nhanh xuất khẩu khiến cho
cán cân thanh toán theo chiều hướng có lợi.
Để đạt được nhữnh thành công to lớn như vậy chinh là nhờ Trung Quốc
đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa đẩy mạnh sản xuất, đổi mới kĩ thuật trong
công nghiệp với những chính sách ngoại thương đúng đắn.
8
_ Trung Quốc đã có rất nhiều biện pháp để hạ giá thành sản phẩm. Đây
là những giải pháp “gốc” vì sản phẩm sản xuất ra có giá thành thấp sẽ dễ tiêu
thụ trên cả thị trường trong nước và ngoài nước. Kinh nghiệm của Trung
Quốc cho thấy có thể hạ giá thành sản phẩm cần có các biện pháp:
Một là, về mặt sản xuất:
+Trung Quốc đã tìm nhiều biện pháp đổi mới công nghệ làm cho năng
suất của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước tăng lên, giá
thành sản phẩm hạ.Một trong những việc làm tích cực là tìm cách thu hút vốn
đầu tư nước ngoài bằng những c hính sách thông thoáng.
+Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng rất chú trọng học tập kinh nghiệm tổ
chức và quản lý xí nghiệp của nước ngoài bằng cách hang năm cử rất nhiều
người ra nước ngoài tham quan học tập đông thời thông qua việc nhận thầu
các công trình và cử người đi lao động ở nước ngoài để học tập
+Lựa chọn những mặt hàng là thế mạnh của Trung Quốc như hàng công
nghiệp nhẹ (đồ chơi, dệt may, hang ngũ kim, hang mây tre…), hàng sử dụng
nhiều lao động… là những hàng hoá có tính truyền thống của Trung Quốc,
không cần vốn lớn lại dễ đổi mới công nghệ.
+Hơn nữa Trung Quốc cũng rất chú trọng khoa học-kĩ thuật, coi trọng
chất xám.
+Trung Quốc còn đưa ra các biện pháp về đổi mới quan hệ sản xuất. Đó
là tách rời chức năng chính quyền và xí nghiệp làm tăng tính tự chủ của
doanh nghiệp và hạn chế những tiêu cực, trì trệ nảy sinh từ quan hệ này. Đó là
tách quyền sở hữu với những quyền sử dụng càng làm tăng thêm một bước
quyền tự chủ, chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp.
Thứ hai, về các chính sách tài chính và tiền tệ: để giảm giá hàng công
nghệ phẩm, bên cạnh những biện pháp tác động vào sản xuất, nhà nước Trung
Quốc rất chú trọng vào những giải pháp ngoài sản xuất mà tài chính tiền tệ là
một công cụ quan trọng.Việc cho phéphình thành giá cả hàng hoá dựa trên cơ
sở giá trị, việc từng bước hình thành thị trường vốn, việc tận dụng quan hệ với
người Hoa ở nước ngoài để thu hút vốn đầu tư và công nghệ, việc trợ giá hoặc
miễn giảm thuế cho hàng xuất khẩu cũng như việc nhà nước Trung Quốc rút
được nhiều kinh nghiệm thành công và thất bại trong việc xử lý các vấn đề
lạm phát, giá cả trên thị trường…đã đóng góp nhiều vào việc phát triển sản
xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghệ phẩm trung Quốc trên thị
trường khu vực và thế giới.
9
_Hơn nữa để nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp, bên cạnh những
biện pháp tác động vào sản xuất, Nhà nước Trung Quốc rất chú trọng xử lý
hài hoà các mối quan hệ giữa sản xuất với mậu dịch mà trước hết là ngoại
thương.
+Luôn gắn sản xuất với thị trường, thể hiện dưới hình thức cho xí nghiệp
góp vốn với bên ngoài, hoặc cho xí nghiệp được tìm thị trường xuất khẩu
trực tiếp để xí nghiệp có thể mở rộng xuất khẩu.
+Thực hiện chiến lược mở cửa, xây dựng các đặc khu kinh tế. Các đặc
khu này đóng vai trò “cửa sổ”, “phòng thí nghiệm” để quan sát học tập tiến
tới hoà nhập với bên ngoài, thu hút vốn, kĩ thuật, thu thập và cung cấp thông
tin, mở ra các kênh xuất khẩu.
+Trung Quốc rất coi trọng mở rộng thị trường và sử dụng nhiều biện
pháp đồng bộ cho việc mở rộng thị trường.Bên cạnh các điểm nêu trên, nhà
nước trung Quốc còn sử dụng nhiều giải pháp khác như: tăng quyền hạn cho
các doanh nghiệp chuyên là kinh tế đối ngoại đồng thời với việc xoá bỏ độc
quyền ngoại thương của các công ty ngoại thương, để cho các công ty này
được xuất nhạp khẩu trực tiếp và làm đại lý cho các xí nghiệp, tăng cường mở
rộng.
+Nhà nước trung Quốc mở rộng quan hệ đối ngoại để tạo ra môi trường
nhằm mở rộng thị trường.Kinh nghiệm sử dụng sự gắn kết giữa chính trị với
kinh tế hơn ở đâu hết được Trung Quốc sử dụng một cách nhạy bén từ khi
triển khai công cuộc đổi mới và thực tế đã mang lại hiệu quả to lớn.
Có thể nói xét từng trường hợp cụ thể, các kinh nghiệm trên không mới,
nhưng vấn đề là ở chỗ toàn bộ các kinh nghiệm đó đã được sử dụng đồng bộ,
hài hoà với liều lượng vừa đủ nên đã tạo ra thành công vượt bậc cho trung
Quốc như vậy.
2. Năng lực cạnh trang của các sản phẩm nông nghiệp:
Qua nghiên cứu sản xuất và xuất khẩu nông nghiệp ở một số nước như
Mĩ, Trung Quốc, Malaixia, Thái Lan…cho thấy, chính phủ các nước này rất
quan tâm tới việc phát triển các ngành nông sản xuất khẩu. Đặc biệt nhiều
nước xây dựng những chiến lược riêng đối với từng ngành có lợi thế so sánh
để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả.
Các nước này trong quá trình phát triển nông nghiệp nói chung và xây
dựng các ngành nông sản xuất khẩu nói riêng đều xuất phát từ các lợi thế vốn
có và biết tạo ra các lợi thế mới trên cơ sở đổi mới chính sách, khoa học-công
10
nghệ, vốn đầu tư và thị trường. Từ thực tiễn của một số nước chúng ta có thể
rút ra một số nhận xét có tính chất kinh nghiệm như sau:
Thành công của các nước trước hết là ở chỗ đã xác định đúng vị trí đặc
biệt quan trọng của nông nghiệp và tập trung nỗ lực cho phát triển nông
nghiệp để tạo đà và đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền nông nghiệp hướng ra xuất khẩu là chủ yếu.
Đặc biệt các nước chú trọng phát huy các lợi thế so sánh thực hiện chiến
lược sản phẩm, tạo vùng và quy hoạch đầu tư đồng bộ cho các vùng sản xuất
chuyên canh tập trung sản xuất hàng hoá. Đổi mới công nghệ nâng cao chất
lượng sản phẩm và hạ giá thành, phản ứng nhanh nhẹn trước yêu cầu và thị
hiếu của thị trường về hình thức, chất lượng của hàng hoá nhằm nâng cao lợi
thế trong cạnh tranh.Tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị, phát triển các kênh
sản xuất-tiêu thụ-xuất khẩu, coi trọng chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường
mới. Đồng thời rất chú ý công tác đào tạo. Đây là một trong những nhân tố
quyết định thành công và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh
kinh tế tri thức đang ảnh hưởng sâu rộng tới mọi hoạt động của nền kinh tế xã
hội.
Còn nhà nước sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián
tiếp và điều tiết sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, tuỳ thuộc từng giai đoạn sẽ
có những chính sách và giải pháp đồng bộ để đạt mục tiêu đã đề ra.
III. Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam:
1. Trước khi gia nhập WTO
1.1. Thành tựu:
Sau 20 năm tích cực đổi mới một cách toàn diện, triệt để (1986-2006),
kinh tế Việt Nam đã đạt được những thay đổi đáng kể. Từ một nước nghèo
đói, bị chiến tranh tàn phá, giờ đây Việt Nam đã lột xác trở thành một bạn
hàng đầy tiềm năng và đáng tin cậy với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Trong những năm qua chúng ta đã đạt được các điểm sáng ấn tượng.
Xin lấy một ví dụ năm 2005:
Một trong những điểm sáng ấn tượng mang tính nhạy cảm trong trào lưu
hội nhập, có thể đơn cử từ thực tế công tác xuất khẩu năm 2005. Kim ngạch
cả năm ước đạt 32,233 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 2004. Kim ngạch của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 57% kim ngạch xuất khẩu của cả
nước, trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy xuất khẩu của cả nước.
Tổng kim ngạch năm 2005 bằng l04,9% chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ đặt
ra từ đầu năm (30,7 tỷ USD).
11
Lượng xuất khẩu và giá xuất khẩu của hàng hóa xuất khẩu đều tăng ở
mức trên dưới 9 và l l%, lần lượt đóng góp 42% và 58% vào giá trị gần 5,5 tỷ
USD tăng trong năm nay so với năm 2004. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu
đều đạt tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao. Đặc biệt, một số mặt hàng đạt
tốc độ tăng kim ngạch ấn tượng như gạo (+49%) (l), rau quả (+36,1%), cao su
(+25,2%), dầu thô (+35%), than đá (+80,6%), hàng điện tử, linh kiện máy tính
(+36,4%), sản phẩm gỗ (+43, 1%), dây cáp điện (+33, l%).
Thị trường xuất khẩu tăng trên tất cả các khu vực trên thế giới trong năm
2005. Trong đó, thị trường Châu Phi có tốc độ tăng cao nhất (+84%), Châu
Đại Dương có tốc độ tăng cao thứ hai (+53%), thị trường Châu Mỹ tăng gần
22%, Châu á tăng 2l ,6% (riêng khu vực ASEAN tăng 39,3%), Châu Âu tăng
6,7% (EU tăng 8,1%). Xuất khẩu dịch vụ tiếp tục có những thành công: năm
2005 ước đạt 4 tỷ USD, tăng l4,7% so với năm 2004. Doanh thu từ hoạt động
du 1ịch ngày càng tăng (Năm 2005, cả nước đón 3,5 triệu lượt khách quốc tế,
tăng khoảng 20% so với năm 2004). Nhiều loài hình dịch vụ khác mang lại
ngoại tệ, bổ sung tích cực vào hoạt động xuất khẩu dịch vụ của cả nước như
vận tải hàng hoá tăng, viễn thông quốc tế tăng mạnh so với năm 2004. Xuất
khẩu dịch vụ năm 2005 đạt 4 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu cả thời kỳ 5 năm
dự kiến đạt trên 21 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân l5,7%/năm, bằng khoảng
l9% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, xấp xỉ mức bình quân của thế giới (thế
giới là 20%).
Kết quả xuất khẩu năm 2005 đã góp phần nâng tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 110,6 tỷ USD, tốc độ tăng
trưởng bình quân 5 năm đạt 17,4%, cao hơn so với mục tiêu đặt ra trong
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2010 là 1,3%. Kim ngạch
xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 dự kiến đạt 390 USD/người. Quy
mô xuất khẩu 5 năm 2001-2005 gấp hơn hai lần so với 5 năm 1996-2000 (đạt
51,824 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao là nhân tố quan trọng góp
phần vào kết quả tăng trưởng GDP 8,7% của cả nước. Một số mặt hàng đã
vượt qua những thách thức trong và ngoài nước cũng như biến động bất lợi
trên thị trường thế giới tiếp tục tốc độ tăng cao (giày dép tăng trên 7%, thủy
sản tăng trên 14%). Riêng mặt hàng may mặc, mặc dù phải chịu sức ép cạnh
tranh rất lớn trên thị trường thế giới do việc bãi bỏ hạn ngạch dệt may đối với
các thành viên WTO nhưng xuất khẩu mặt hàng này đã vượt qua những tháng
đầu năm khó khăn, về đích với tốc độ tăng khoảng 10% so với năm 2004.
Nếu so với các đối thủ cạnh tranh thì đây là một thành tích đáng nể vì xuất
12