Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn áp dụng phương pháp thực hành để rút ra lý thuyết trong tiết làm văn lớp 10 tiết - đề văn nghị luận thpt triệu sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.19 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN I
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH ĐỂ RÚT RA
LÝ THUYẾT TRONG TIẾT LÀM VĂN 10
TIẾT – ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN
Người thực hiện : Nguyễn Thị Thủy
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2013
1
MỤC LỤC
Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
1. Cơ sở lí luận 2
2. Thực trạng 3
3. Giải pháp áp dụng thực hành rút ra lý thuyết trong tiết
Đề văn nghị luận 4
3.1.Nhận thức về nhan đề tiết học 5
3.2.Phần I – Yêu cầu chung của đề văn nghị luận 6
3.3.Phần II- Tìm hiểu đề văn nghị luận 9
3.4.Phần III- Luyện tập 13
3.5.Kiểm nghiệm 15
4.Kết quả đạt được 15
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 17
1. Kết luận 17
2. Đề xuất 17
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
2


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bộ môn ngữ văn, phân môn làm văn nói chung có vai trò rất quan
trọng - Dù trong tiết đọc hiểu các em có học tốt, cảm thụ một tác phẩm thật sâu
sắc thì kết quả cuối cùng của các em cũng thể hiện trên bài làm văn. Và muốn
bài làm văn có kết quả cao tất yếu các em phải năm vững kiến thức lí thuyết
trong các tiết làm văn. Tuy nhiên trong thực tế, ý thức học tập của học sinh đối
với các tiết học làm văn chưa thật cao, nếu để trả lời cho câu hỏi vì sao lại có
hiện tượng đó thì có rất nhiều lý do khác nhau: nguyên nhân khách quan có, chủ
quan có… Thứ nhất, vì đặc thù các tiết học này bao giờ cũng khô khan hơn so
với tiết đọc hiểu văn bản; thứ hai, hầu hết kiến thức của tiết học đều đã thể hiện
cụ thể, chi tiết trong sách giáo khoa, vì vậy không chỉ học sinh mà đôi khi ngay
cả giáo viên dễ rơi vào tâm lí nhàm chán, chủ quan, tiếp cận tiết học một cách
qua loa dẫn đến kết quả là các em sẽ không thật sự hiểu, nắm vững về kiến thức
phân môn, và như vậy, khi làm bài thực hành các em sẽ không chủ động với một
công thức có sẵn mà rất mày mò… Nhưng điều mà tôi quan tâm ở đây là không
phải đi sâu vào phân tích, tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân của nó như một nhà
xã hội học mà chỉ nhìn nhận nó ở trên góc độ là một giáo viên giảng dạy bộ môn
Ngữ Văn Trung học Phổ thông với những suy tư, trăn trở, lo lắng và tâm huyết
với bộ môn để khắc phục phần nào tình trạng trên.
Mặt khác, trong phân môn làm văn thì tiết Đề văn nghị luận thuộc chương
trình ngữ văn 10 giữ vị trí đặc biệt, nó giúp học sinh nắm được những kiến thức
cơ bản nhất về đề văn nghị luận, một dạng đề sẽ theo các em cho đến tận kỳ thi
đại học. Đặc biệt, từ đề văn nghị luận đến bài văn là cả một quá trình, khi các
em không nắm vững vàng kiến thức về đề văn nghị luận thì kết quả bài làm của
các em không cao. Thực tế có rất nhiều em, trong đó có cả những em học sinh
giỏi nhưng khi làm bài kết quả bài làm không cao do nhận thức đề văn chưa
đúng.
Từ những lí do trên, tôi đã suy nghĩ và cố gắng tìm ra cho mình một
phương pháp tối ưu nhất để dạy các tiết học làm văn nói chung và tiết Đề văn
3

nghị luận nói riêng thực sự hiệu quả, học sinh vẫn hứng thú và làm việc tích cực
trong mỗi tiết học giống như khi các em được tiếp cận một tiết khám phá tác
phẩm văn học, tránh tình trạng mỗi khi đến tiết làm văn các em lại mặc định
ngay một suy nghĩ là đọc sách giáo khoa. Qua rất nhiều các tiết dạy ở những
năm học khác nhau tôi đã lựa chọn cho mình phương pháp “Áp dụng thực hành
để rút ra lý thuyết”- học sinh tự rút ra, chiếm lĩnh kiến thức chứ không tiếp
nhận kiến thức một cách máy móc, hay tái hiện lại theo sách giáo khoa, giúp các
em thật sự hào hứng và sôi nổi trong mỗi tiết học. Và, điều quan trọng hơn cả là
nó sẽ giúp cho mỗi tiết học làm văn thực sự có hiệu quả, có chất lượng cao.
II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng: trong quá trình học tập, người học sinh
không ngừng lĩnh hội những kiến thức do giáo viên cung cấp, mà quan trọng
hơn các em còn phải tự tìm ra tri thức mới, kỹ năng mới từ những nguồn tài liệu
khác nhau. Tuy nhiên, sự tìm kiếm cái mới của học sinh không giống như hoạt
động hoàn toàn độc lập, sáng tạo của các nhà khoa học khi thực hiện một đề tài
nghiên cứu khoa học. Vì hoạt động của học sinh được thực hiện với vai trò cố
vấn, tổ chức, điều khiển thường xuyên của người giáo viên. Do vậy, trong nhiều
năm trở lại đây việc cố gắng tìm ra một số giải pháp hữu hiệu để nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục nói chung và tạo sự hứng thú cho các em học sinh nói riêng
là một vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên cũng như toàn ngành giáo dục. Đến nay
có rất nhiều giải pháp hữu hiệu mà tôi cho rằng nó mang lại hiệu quả cao như
việc cải cách sách giáo khoa đến việc thay đổi phương pháp giáo dục theo
hướng tích cực, chủ động của học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong
xu thế mới hiện nay.
Đối với môn ngữ văn nói chung và phân môn làm văn nói riêng, để dạy và
học có hiệu quả theo chương trình sách giáo khoa mới cũng cần phải đổi mới
phương pháp dạy học. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được
xác định trong Nghị quyết Trung Ương khóa VII và được cụ thể hóa ở luật giáo
4

dục “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp học, môn học,
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tư tưởng. tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học tập
cho học sinh” .
Trong xu thế chung đó phương pháp áp dụng thực hành để rút ra kiến
thức cho tiết học làm văn Đề văn nghị luận mà tôi đã lựa chọn cũng là một hình
thức phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh. Đồng thời với phương pháp
này tôi sẽ giúp học sinh có thể loại bỏ hoàn toàn thói quen học một cách tái
hiện, qua loa đối với phân môn. Các em sẽ được thực hành rất nhiều trong
những tiết học này, đó cũng là yêu cầu quan trọng của tiết học vì trên thực tế tiết
học làm văn chính là một hình thức rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh.
Như vậy, phương pháp áp dụng thực hành tìm ra lí thuyết trong tiết học làm
văn Đề văn nghị luận một mặt vừa chú trọng phát huy tính tích cực cao, tính chủ
thể của người học; mặt khác lại chú trọng đến kĩ năng thực hành của học sinh.
Để sử dụng có hiệu quả phương pháp này, giáo viên cần phải chú trọng xây
dựng hệ thống bài tập có thể có trong sách giáo khoa, và có thể tự lấy từ bên các
tài liệu khác có liên quan đến bài học.
2. Thực trạng trước khi thực hiện giải pháp của đề tài.
a. Thuận lợi.
*Về phía giáo viên:
- Hiện nay phương pháp dạy học phát huy vai trò chủ động, tích cực của
học sinh là một phương pháp dạy học mới phù hợp với xu hướng của thời đại,
được sự ủng hộ cao của xã hội, sự nhiệt tình ủng hộ của phụ huynh và học sinh.
Và áp dụng thực hành để rút ra lý thuyết là một hình thức giúp học sinh thông
qua làm bài tập tự rút ra những kết luận then chốt là một hình thức đề cao vai trò
của người học, gây hứng thú cho người học cho nên tôi nhận được sự ủng hộ,
hưởng ứng nhiệt tình của học sinh.
5
- Cơ sở vật chất của nhà trường đã được đầu tư đầy đủ hơn, với trang bị

máy chiếu đa năng và trình độ công nghệ thông tin của bản thân tôi có thể thuận
tiện áp dụng phương pháp dạy học này vì không sợ mất thời gian với công đoạn
chép hệ thống bài tập lên bảng .
*Về phía học sinh:
- Khi áp dụng phương pháp từ thực hành rút ra lí thuyết học sinh có cơ hội
để thể hiện sự hiểu biết của mình, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi. Do vậy các em
sẽ hào hứng, nhiệt tình hơn trong khi học, khắc phục được lối truyền thụ tri thức
thụ động, một chiều trước kia.
Đa phần học sinh của trường THPT Triệu Sơn1 đều theo khối A, các em
khá thông minh năng động và đặc thù khối học tạo cho các em thói quen phải
được làm việc trong mỗi tiết học, vì vậy làm bài tập để tự rút ra lý thuyết khiến
các em tham gia giờ học sôi nổi hơn rất nhiều, không còn mang suy nghĩ học
văn là chỉ ngồi nghe và chép không cần tư duy, không cần làm việc.
b.Khó khăn
*Về phía giáo viên:
- Đây là phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải tạo được hệ thống
bài tập thật sự phù hợp và có sức thuyết phục, bài tập phải vừa quen thuộc lại
vừa mới với học sinh để các em thấy dễ có thể tìm hiểu, lại thấy khó cần phải
chinh phục. Điều đáng nói là hệ thống bài tập này không có sẵn đòi hỏi người
giáo viên phải tư duy, tìm tòi mất nhiều thời gian.
* Về phía học sinh:
- Kiến thức tiết làm văn thường khô khan, khác hẳn với những tiết đọc
hiểu văn bản, nhiều học sinh chưa học đã có tâm lí chán, ngại học. Hơn nữa nhìn
vào nhan đề tiết học là Đề văn nghị luận học sinh dễ phát sinh tâm lí đó là một
bài học không có gì mới vì đề văn nghị luận các em đã làm rất nhiều
- Hầu hết học sinh trong trường đều theo khối A vì vậy niềm đam mê tìm
hiểu của các em trước các bài tập là rất ít.
6
3. Giải pháp áp dụng thực hành để rút ra lí thuyết trong tiết làm văn Đề văn
nghị luận

Để giúp học sinh có sự hứng thú và tích cực chủ động trong các tiết học
làm văn nói chung và tiết Đề văn nghị luận nói riêng trong quá trình giảng dạy
tại trường, tôi đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu và qua quá trình thực tế
giảng dạy tôi đã rút ra giải pháp “Áp dụng thực hành để rút ra lí thuyết trong
tiết Đề văn nghị luận” : Tạo một hệ thống bài tập; hướng dẫn học sinh thực
hành; và cuối cùng là đưa ra những câu hỏi mang tỉnh tổng kết. Giải pháp được
tôi thực hiện cụ thể trong tiết học như sau:
3.1 Nhận thức về nhan đề của tiết học :
- Trước bất kỳ một tiết học nào tôi cũng có thói quen giúp học sinh tìm hiểu
về nhan đề của nó, một mặt các em sẽ có ngay định hướng về nội dung toàn tiết
học, mặt khác nó cũng sẽ giúp các em có ngay ý thức về vị trí, vai trò của tiết
học. Để thực hiện nội dung này tôi đã lồng ghép với phần kiểm tra bài cũ, và tôi
đã thực hiện nó bằng một câu hỏi mang tính tái hiện như :
- Em hãy giải thích về nhan đề của bài học hôm nay?
Hỏi như vậy học sinh sẽ trả lời ngay: Nhan đề này là Đề văn nghị luận, tiết
học này sẽ học về Đề văn nghị luận. Như vậy nghĩa là các em không phải suy
nghĩ gì chỉ nhìn vào sách giáo khoa là có thể trả lời, và trong nhận thức của các
em sẽ không có gì để khắc sâu. Tôi đã khắc phục điều này bằng cách tạo ra một
bài tập cho học sinh làm, bài tập đó như sau:
- Bài tập : Em hãy xác định các đề văn nghị luận trong các đề văn sau đây :
+ Đề 1: Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật cô Tấm trong truyện cổ tích
Tấm Cám.
+ Đề 2: Từ truyện Tấm Cám hãy viết 3 đoạn văn miêu tả cô Tấm trong ba
hoàn cảnh : Lúc bị dì ghẻ bắt nhặt thóc; Khi cưỡi ngựa đi xem hội và lúc là cô
gái từ quả thị bước ra giúp bà cụ bán hàng nước dọn dẹp nhà cửa.
7
+ Đề 3: Giới thiệu tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của
Nguyễn Dữ.
+ Đề 4: Kể lại chuyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ, tưởng
tượng một đoạn kết khác với cách kết thúc của tác giả dân gian.

+ Đề 5: Từ một số bài ca dao than thân đã học, hãy phát biểu cảm nghĩ của
em về về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ .
+ Đề 6 : Vai trò của sách đối với đời sống nhân loại.
+ Đề 7: Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký
Rõ ràng khi đứng trước bài tập này các em không thể không tư duy, suy
nghĩ, thậm chí còn phải có sự liên hệ đối chiếu để phân biệt xác định đâu là đề
văn nghị luận chứ không thể chỉ nhìn vào sách giáo khoa để trả lời. Và trên thực
tế, trong quá trình giảng dạy, nhiều học sinh khi đứng trước bài tập này đã
không có câu trả lời đúng, các em không xác định được chỉ có 2 đề 6, 7 là đề
nghị luận, thường nhầm cả đề 3 và đề 5, dù đề 3 là đề văn thuyết minh và đề 5
là đề phát biểu cảm nghĩ. Khi các em trả lời sai cũng là lúc các em có ngay nhận
thức - xác định đúng đề văn nghị luận không phải là một vấn đề đơn giản cho dù
các em đã được tiếp xúc với dạng đề này từ những năm học cấp 2. Vậy làm thế
nào để xác định chính xác đề văn nghị luận? Muốn xác định được phải căn cứ
vào đâu? Nếu không xác định chính xác bài làm của các em sẽ hoàn toàn lạc đề.
Với câu hỏi đó, tất yếu các em sẽ muốn khám phá và háo hức với tiết học hơn –
Nghĩa là ngay từ những giây phút đầu tiên tôi đã tạo cho các em thấy có vấn đề
cần phải tìm hiểu, và vấn đề đó không hề đơn giản, tất cả các em đều phải tập
trung vào guồng làm việc tích cực … Và đây chính là kết quả mà tôi muốn đạt
được, tôi không muốn giờ học của mình rơi vào tẻ nhạt, nhiều học sinh buồn
ngủ vì cảm giác đơn điệu, dễ dãi vì không cần động não hay tư duy.
Có thể nói với phần bài tập trên đây, chỉ cần một khoảng thời gian là 5,
hoặc 7 phút tôi đã có được sự kiểm tra đánh giá đối với học sinh phần kiến thức
bài cũ và kiến thức đó không chỉ nằm trong phạm vi bài học trước mà tích hợp
với cả những bài trước đó nữa. Hơn thế tôi còn giới thiệu được bài mới, giới
thiệu về nhan đề của tiết học một cách có hiệu quả.
8
3.2 Phần I- Yêu cầu chung của đề văn nghị luận:
- Tiết học Đề văn nghị luận gồm có 3 phần : Phần I là Yêu cầu chung của
đề văn nghị luận, khi đọc sách giáo khoa học sinh sẽ có ngay câu trả lời như thế

nào là một đề văn nghị luận, và những yêu cầu của đề văn nghị luận. Như tôi đã
trình bày trong phần đặt vấn đề thì hầu hết kiến thức của tiết học được sách giáo
khoa trình bày rất rõ ràng và cụ thể trong sách, học sinh chỉ cần đọc có thể nhận
biết ngay, cho nên nếu không lựa chọn một phương pháp tối ưu nhất thì phần
kiến thức đó sẽ đến với các em như kiểu học vẹt, không khắc sâu. Vì thế ở phần
I này tôi đã xây dựng ngay một hệ thống bài tập, nó sẽ được thể hiện trên máy
chiếu đa năng trong mỗi tiết học để học sinh làm và tự mình rút ra kiến thức của
bài học.
- Trước khi cho học sinh làm các bài tập để rút ra yêu cầu của đề văn nghị
luận tôi sẽ cho học sinh trả lời câu hỏi ôn lại kiến thức cũ nhưng có liên quan
đến bài học mới :
+ Câu hói đó là cho các em nhắc lại : Khái niệm văn nghị luận – Khái niệm
này học sinh hầu như nắm rất kĩ vì trong quá trình giảng dạy giáo viên thường
nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho nên các em sẽ nhanh chóng có câu trả lời : Văn
nghị luận là dạng văn trình bày tư tưởng, quan điểm của người viết về một vấn
đề nào đó thuộc lĩnh vực đời sống hoặc lĩnh vực văn học, nhằm thuyết phục
người đọc hoặc người nghe đồng tình với quan điểm của mình. Từ câu trả lời
này của học sinh giáo viên có thể định hướng luôn, muốn thuyết phục người
đọc, người nghe đồng tình với qua điểm của mình buộc người viết phải thực
hiện được một số yêu cầu nhất định, các yêu cầu đó sẽ được thể hiện cụ thể trên
mỗi đề bài, vậy đó sẽ là những yêu cầu gì? Để trả lời được câu hỏi này tôi sẽ cho
học sinh làm bài tập sau :
Bài tập : Đọc các đề văn nghị luận sau và trả lời các câu hỏi :
+ Đề 1 : Phân tích vai trò của sách đối với đời sống con người.
+ Đề 2 : Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Tỏ lòng ( Phạm Ngũ Lão).
+ Đề 3: Quan niệm của em về một bài thơ hay.
9
+ Đề 4 : Bình luận về tiếng khóc của tác giả Nguyễn Du trong bài thơ Độc
Tiểu Thanh Ký .
Câu hỏi 1 : Em hãy xác định vấn đề cần nghị luận trong mỗi đề văn?

Câu hỏi 2: Vấn đề nghị luận của đề 1 có gì khác so với so với các vấn đề
nghị luận trong đề 2,3, 4?
Câu hỏi 3 : Đọc các đề bài trên các em có xác định được những thao tác
chính cho bài làm của mình không?
Câu hỏi 4: Theo các em có thể xác định được pham vi tư liệu cho bài viết
khi các em đọc các đề bài trên không?
- Sau khi cho học sinh đọc và nhận thức yêu cầu của bài tập, tôi sẽ để các
em thảo luận nhanh với nhau theo bàn và cử đại diện trình bày, các bàn sẽ nhận
xét cho nhau để rút ra kết quả sau:
+ Vấn đề nghị luận của các đề là : đề 1- Vai trò, tác dụng của sách; đề 2- vẻ
đẹp của bài thơ Tỏ lòng, giá trị về nội dung, nghệ thuật; đề 3- quan niệm về bài
thơ hay, giá trị đích thực của một bài thơ; đề 4 – giá trị nhân đạo, tình thương
yêu con người của tác giả Nguyễn Du thể hiện trong bài thơ Độc Tiểu Thanh
Ký.
+ Vấn đề nghị luận trong đề 1 khác với vấn đề nghị luận trong các đề 2,3,4
là : Đề 1 vấn đề nghị luận thuộc lĩnh vực xã hội, các vấn đề của đề 2,3,4 thuộc
lĩnh vực văn học – Như vậy đề 1 là dạng đề nghị luận xã hội; đề 2,3,4 là dạng
nghị luận văn học .
+ Thao tác chính của mỗi đề : Đề 1, 2 : Thao tác phân tích; Đề 3 : Phân
tích, giải thích; Đề 4 : Thao tác bình luận.
+ Phạm vi tư liệu : Đề 1 – Trong đời sống; Đề 2: Bài thơ Tỏ lòng (Phạm
Ngũ Lão), các tác phẩm văn học cùng thời khác như Nỗi lòng (Đặng Dung) ; Đề
3: Một số tác phẩm thơ có giá trị trong các thời kỳ văn học khác nhau, và có thể
lấy một số tác phẩm thơ nổi tiếng của các tác giả văn học nước ngoài; Đề 4 : Bài
thơ Độc Tiểu Thanh Ký, và một số tác phẩm khác của chính tác giả Nguyễn Du
như Truyện Kiều , hoặc tác phẩm của Hồ Xuân Hương.
10
- Ngay sau khi làm xong bài tập này học sinh đã có thể nhìn thấy ngay
những yêu cầu của một đề văn nghị luận, và nếu nhanh ý các em có thể thấy bốn
yêu cầu mà tôi yêu cầu các em thực hiện trong bài tập trên sẽ tương đương với 4

yêu cầu trong mỗi đề văn nghị luận vì vậy khi tôi nêu ra một câu hỏi mang tính
tổng kết về kiến thức lí thuyết như sau : Vậy sau khi làm xong bài tập này các
em có thể xác định được những yêu cầu của đề văn nghị luận chưa? Lúc đó học
sinh sẽ có ngay câu trả lời – Yêu cầu của một đề văn nghị luận là :
+ Yêu cầu về vấn đề nghị luận (Luận đề) – Thường được nêu dưới dạng
một nhận xét hoặc một câu hỏi.
+ Yêu cầu về loại văn nghị luận : Nghị luận xã hội, hoặc nghị luận văn học.
+ Yêu cầu về các thao tác nghị luận chính.
+ Yêu cầu về phạm vi tư liệu.
- Từ câu trả lời của các em tôi sẽ có kết luận về lí thuyết cho phần I của tiết
học và tôi cũng đã giúp các em được thực hành.
Như vậy, với bài tập này tôi đã tạo cho các em một hứng thú là tự mình rút
ra được kiến thức sau khi làm bài tập, các em sẽ có cảm giác rất dễ chịu vì hiểu
ra vấn đề một cách cụ thể chứ không phải đọc trên sách giáo khoa, khắc phục
hoàn toàn với việc chiếm lĩnh kiến thức một cách tái hiện, dễ dãi. Thực tế là
trong sách giáo khoa ở mục này trình bày như sau , giới thiệu một số đề văn
nghị luận, sau đó sẽ trình bày cụ thể về yêu cầu của đề văn nghị luận là : Yêu
cầu về vấn đề nghị luận, yêu cầu về thao tác nghị luận, và yêu cầu về phạm vi tư
liệu . Nếu không áp dụng phương pháp từ thực hành rút ra lí thuyết tôi chỉ cần
cho học sinh đọc các đề nghị luận, và sau đó hỏi yêu cầu của đề văn nghị luận là
gì? Học sinh có thể nhìn sách trả lời ngay một cách chính xác, tôi cho học sinh
ghi lại và kết thúc phần 1. Học sinh không cần phải động não, cũng không được
rèn luyện kĩ năng tiếp cận, xác định yêu cầu của đề, thậm chí các em có thể phát
biểu - tiết học này để tự đọc sách giáo khoa, mà khi các em tự đọc không trãi
qua thực hành cụ thể thì phần đọng lại sẽ không có, theo thời gian các em sẽ
quên ngay vì đây là kiểu thuộc vẹt, không hiểu bản chất của vấn đề.
11
Như tôi đã đề cập ở trên, trường THPT Triệu Sơn I chủ yếu học khối A,
nếu không đặt ra vấn đề cho các em làm việc, tư duy các em sẽ rất dễ rơi vào
nhàm chán, giờ học trôi qua một cách buồn tẻ, nhưng với phần bài tập tôi đã nêu

ra thì tiết học sẽ trở nên sôi nổi , hào hứng và có hiệu quả đích thực.
3.3 Phần II – Tìm hiểu đề văn nghị luận
- Phần nội dung thứ 2 của tiết học này cũng được sách giáo khoa trình bày
tương tự như phần 1, kiến thức cũng được trình bày rất rõ – Tìm hiểu đề là phải
xác định được yêu cầu trọng tâm cần nghị luận, kiểu bài nghị luận, các thao tác
chính và phạm vi tư liệu. Nếu như theo phương pháp dạy học truyền thống tôi
chỉ cần đặt ra một câu hỏi như sau : Tìm hiểu đề là chúng ta tìm hiểu những gì?
học sinh đọc sách giáo khoa sẽ có ngay câu trả lời, phần 2 kết thúc trong đơn
điệu, học sinh lại không được thực hành. Để khắc phục điều này, tôi cho học
sinh làm bài tập – Phần bài tập này hoàn toàn không có trong sách giáo khoa.
- Bài tập1: Cùng một đề văn nhưng có 2 dàn ý sơ lược sau, các em hãy xác
định xem dàn ý nào đúng và dàn ý nào chưa đúng? Nguyên nhân sai là gì?
+ Đề bài : Cá nhân và tập thể như giọt nước và biển cả - Anh (chị) hiểu như
thế nào về câu nói đó?
+ Dàn ý sơ lược thứ nhất :
Ý 1- Như thế nào là cá nhân?
Ý 2- Tập thể là gì?
Ý 3- Vai trò của cá nhân
Ý 4- Vai trò của tập thể
+ Dàn ý sơ lược thứ 2:
Ý 1 : Giải thích ngắn gọn cá nhân và tập thể là gì?
Ý 2 : Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là mối quan hệ gắn bó,
hỗ trợ lẫn nhau.
Ý 3 : Tầm quan trọng của mối quan hệ đó.
Ý 4 : Bàn bạc mở rộng : Nếu mỗi người không hiểu đúng về mối
quan hệ giữa cá nhân và tập thể thì sẽ như thế nào?
12
- Với bài tập này tôi cũng sẽ cho học sinh thảo luận nhanh với nhau, qua
quá trình thảo luận các em sẽ rút ra được kết quả :
+ Dàn ý sơ lược đúng với yêu cầu của đề bài là dàn ý 2, dàn ý 1 là dàn ý

chưa đúng với yêu cầu của đề bài, nếu làm theo dàn ý này sẽ rơi vào tình trạng
lệch đề văn.
+ Nguyên nhân dẫn đến điểm sai của dàn ý thứ nhất là người lập dàn ý
không xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Từ kết quả trả lời này tôi có thể giúp học sinh rút ra kết luận thứ nhất bằng
một câu hỏi :
+ Vậy theo các em khi chúng ta tìm hiểu một đề văn nghị luận thì trước tiên
chúng ta phải xác định được điều gì?
- Do có phần thực hành vừa rồi, học sinh sẽ trả lời được ngay- đó chính là
xác định nội dung trọng tâm cần nghị luận, vì khi xác định được nội dung trọng
tâm thì cũng sẽ xác định được hệ thống luận điểm phù hợp nhất.
- Để các em tiếp tục rút ra những kiến thức lý thuyết tiếp theo tôi lại có một
bài tập khác :
+ Bài tập2: trong 2 dàn ý cho 1 đề bài sau, dàn ý nào sai? Sai ở điểm nào?
+ Đề bài : Thông qua nhân vật cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám anh
(chị) hãy trình bày quan niệm của mình về qua niệm ở hiền gặp lành của nhân
dân ta .
+ Dàn ý sơ lược thứ nhất :
* Các ý chính cần đạt :
Ý 1 : Phân tích số phận bất hạnh của cô Tấm
Ý 2 : Phân tích quá trình vươn lên giành hạnh phúc của cô Tấm
Ý 3 : Bàn bạc, đánh giá về nhân vật cô Tấm, một người đại diện cho quan
niệm ở hiền gặp lành, một niềm mong ước của nhân dâ Việt nam cả thời xưa lẫn
thời bầy giờ.
* Kiểu bài nghị luận văn học .
* Phạm vi tư liệu : Truyện cổ tích Tấm Cám .
13
* Thao tác nghị luận : phân tích, chứng minh .
+ Dàn ý sơ lược thứ 2:
* Các ý chính cần đạt :

Ý 1: Giải thích về quan niệm ở hiền gặp lành .
Ý 2 : Dựa vào phần giải thích chứng minh về quan niệm đó bằng những
dẫn chứng từ cuộc sống thực tế.
Ý 3: Bàn bạc, đánh giá về quan niệm – Đây là một quan niệm đúng, phù
hợp với mọi thời đại, giúp con người rèn luyện nhân cách, tâm hồn nhân hậu.
Ý 4: Mở rộng – Ở hiền không phải là hèn nhát, bạc nhược .
* Kiểu bài : Nghị luận xã hội .
* Phạm vi tư liệu : Từ thực tế đời sống, có thể lấy một ít tư liệu từ văn học.
* Các thao tác chính : Giải thích, chứng minh, bình luận.
- Trước bài tập này tôi cũng cho học sinh thảo luận, mặc dù bài tập không
có trong sách giáo khoa nhưng cũng không quá khó với học sinh vì kĩ năng tìm
hiểu đề và lập dàn ý đã được tôi thực hiện khá nhiều trong các tiết trả bài kiểm
tra định kỳ. Vì thế cho nên học sinh của tôi có thể nhận thức ra vấn đề nhanh
chóng, cụ thể :
+ Dàn ý sơ lược thứ nhất hoàn toàn sai: Xác định hệ thống ý chính sai, xác
định kiểu bài sai, phạm vi tư liệu sai và xác định các thao tác chính cũng sai; dàn
ý thứ 2 là đúng với yêu cầu của đề bài .
+ Nguyên nhân sai là do người lập dàn ý chưa xác định được yêu cầu trọng
tâm của đề bài, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là do xác định kiểu bài sai,
chính vì xác định kiểu bài nghị luận trong đề văn trên là kiểu bài nghị luận xã
hội dẫn đến một loạt các phần tiếp theo như tạo hệ thống ý, xác định phạm vi tư
liệu và các thao tác chính đều đồng loạt sai theo (trong thực tế thì hiện thượng
sai như thế này của học sinh diễn ra rất nhiều, ví dụ khi giáo viên ra đề - Từ bài
thơ Tràng giang (Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Vội vàng (Xuân
Diệu) anh (chị) hãy trình bày quan niệm của mình về tình yêu quê hương đất
nước, học sinh của tôi có rất nhiều em, trong đó có cả những em mà lực học vào
14
loại khá đều tập trung vào phân tích 3 bài thơ trong bài làm, không hề có nhận
thức rằng đây là kiểu bài nghị luận xã hội).
- Sau khi học sinh làm xong bài tập tôi đã cho các em tự rút ra kết luận

bằng câu hỏi :
+ Vậy tìm hiểu đề ngoài xác định yêu cầu trọng tâm về vấn đề nghị luận thì
ta còn phải tìm hiểu những phương diện nào nữa?
- Vì chính các em vừa thực hành xong nên các em có thể rút ra ngay : Tìm
hiểu đề là phải xác định được :
+ Kiểu bài nghị luận
+ Các thao chính
+ Phạm vi tư liệu
- Và sau câu trả lời của các em tôi có thể hướng dẫn các em kết luận chốt
lại kiến thức của phần II này, đồng thời tôi cũng sẽ có thêm một câu hỏi giúp các
em nhìn thấy được mối quan hệ giữa phần I và phần II để các em ý thức được
rằng khi các em xác định được những yêu cầu của đề văn nghị luận thì các em
cũng sẽ thực hiện được quá trình tìm hiểu đề một cách chính xác nhất, và khâu
tìm hiểu đề này nó sẽ quyết định đến sự thành công của các em trên bài viết vì
thực ra một bài viết hay trước hết phải là một bài viết đúng, sau đó tôi có thể kết
thúc phần giảng dạy lí thuyết tại đây.
- Như vậy, với bài tập này ngoài mục tiêu chính là giúp học sinh tự rút ra
được phần kiến thức của bài học, tôi còn hướng dẫn các em thực hành tìm hiểu
đề và điều đáng nói nhất là tôi đã lưu ý được cho học sinh một lỗi mà các em
thường mắc phải đó là sự nhầm lẫn giữa nghị luận xã hội và nghị luận văn học,
khi ra một đề nghị luận xã hội người ra đề có thể lựa chọn một câu tục ngữ, một
triết lí, hoặc một câu nói hay một quan niệm nào đó trong tác phẩm văn học nếu
không tỉnh táo các em sẽ rất dễ nhầm lẫn sang kiểu bài nghị luận văn học.
- Vì những lợi ích trên cho nên thực tế công đoạn soạn giáo án theo phương
pháp áp dụng thực hành rút ra lí thuyết đòi hỏi rất nhiều công sức và thời gian.
Nhưng tôi vẫn lựa chọn, tôi không muốn theo phương pháp truyền thống là cho
15
các em đọc nhanh kiến thức lí thuyết hoặc chiếm lĩnh nó bằng vài câu hỏi tái
hiện sau đó chuyển sang phần luyện tập, như vậy tiết học sẽ trôi qua rất đơn điệu
và không thể lồng ghép được nhiều vấn đề, tôi muốn các em vừa luyện tập, vừa

rút ra kiến thức lại vừa được nhắc nhở một số lỗi hay những kĩ năng quan trọng.
Và có một kết quả lớn nhất mà tôi nghĩ mình sẽ đạt được khi áp dụng phương
pháp này là học sinh sẽ không có suy nghĩ bài dạy của cô chỉ là sự mô phỏng lại
sách giáo khoa, cho nên chỉ cần đọc sách giáo khoa.
3. 4. Phần III : Luyện tập
- Phần luyện tập này chính là phần học sinh áp dụng lý thuyết vào thực
hành, nhưng với phương pháp dạy của mình tôi đã cho các em thực hành được
khá nhiều trong quá trình giúp các em chiếm lĩnh lí thuyết, vì vậy đây sẽ là một
công đoạn khá nhẹ nhàng với cả cô và trò, tôi cho các làm 2 bài tập, bài 2 và bài
5, đó là 2 bài tập gắn liền với 2 phần lí thuyết mà các em vừa học là xác định
yêu cầu của đề và tìm hiểu đề .
+ Bài tập 2 : Vẻ đẹp của bài thơ Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)
+ Bài tập 5 : Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh ký
- Tôi không cho các em thảo luận nhóm khi làm 2 bài tập này nữa vì nó rất
đơn giản, trong phần lí thuyết các em đã làm quen, thực hành khá nhiều, tôi hỏi
cả tập thể lớp ai có thể làm được bài tập, nó cũng là một hình thức tôi kiểm tra,
đánh giá xem phần tiếp nhận kiến thức của mỗi cá nhân như thế nào. Và có một
kết quả rất đáng mừng là gần như cả lớp đều giơ tay để làm bài tập, tôi cho 2 em
trình bày nhanh bài tập, khi các em làm tốt tôi có thể cho các em điểm cao để
khích lệ, tinh thần các em càng phấn chấn hơn - làm việc thật sự, hiểu bài, và
được điểm sẽ rất có ý nghĩa với học sinh (Tôi có quan niệm điểm kiểm tra bài cũ
không nhất thiết chỉ là con điểm kiểm tra vào đầu giờ học, mà nó có thể rất linh
hoạt để động viên, khích lệ các em giúp giờ học sôi nổi hơn rất nhiều) .
- Với học sinh ở các lớp học không theo khối tôi sẽ dừng lại với 2 bài tập
trên, tuy nhiên khi dạy một lớp nâng cao, theo khối C thì phần bài tập 2,5 trong
sách giáo khoa gần như quá đơn giản với các em, học sinh có thể thực hiện
16
chúng trong vòng 2,3 phút vì vậy tôi sẽ mở rộng như hơn bằng một bài tập khác
không có trong sách :
+ Em hãy chọn một đề văn nghị luận mà mình tâm đắc (đề phải chưa có

trong tiết học), xác định yêu cầu của đề và xây dựng một dàn ý sơ lược.
Với đề này tôi có thể kiểm tra được toàn diện hiểu biết của học sinh về
những kiến thức liên quan đến bài học – Các em phải tự chọn một đề văn nghị
luận, nhìn vào dàn ý có thể thấy các em đã nắm vững yêu cầu của đề và tìm hiểu
đề đúng chưa, hơn thế tôi còn kiểm tra được kĩ năng lập dàn ý của học sinh.
- Phần ra bài tập về nhà với những lớp cơ bản tôi chỉ ra những bài tập trong
sách giáo khoa nhưng với những lớp học khối C tôi sẽ cho thêm bài tập sau :
+ Lập dàn ý cho đề bài sau : Hãy viết một bài văn ngắn (không quá
600 từ ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến sau “ Một ngày so với đời
người là quá ngắn ngủi, nhưng một đời người lại do mỗi ngày tạo nên” .
- Tôi ra đề này với dụng ý, khi kiểm tra phần bài làm của các em tôi chắc
chắn trong dàn ý của học sinh sẽ không có ý nào khai thác đến hình thức của đề
bài, các em sẽ không nhận ra hình thức đề bài có những nghệ thuật nhất định
đó là phép so sánh và nghệ thuật dùng từ Nhưng, 2 biện pháp nghệ thuật này thể
hiện được khá rõ nội dung. Và như vậy trong phần này tôi sẽ lưu ý được cho các
em một vấn đề mà sách gioá khoa không đề cập đến đó là mỗi đề văn ngoài
những yêu cầu các em đã học thì còn phải lưu ý tới yêu cầu về nghệ thuật trong
mỗi đề. Và như vậy, với bài tập này tôi có thể mở rộng, nâng cao kiến thức cho
học sinh vào phần kiểm tra bài cũ trong tiết học ngày hôm sau.
- Trên đây là toàn bộ phần giải pháp áp dụng thực hành rút ra lí thuyết
trong tiết dạy làm văn Đề văn nghị luận của tôi. Thực tế cho thấy, có nhiều giáo
viên có kiến thức rất vững vàng nhưng khi lên lớp lại không thể truyền đạt hết
được những vốn kiến thức cho các em, thậm chí các em còn không hào hứng
đón nhận tiết học. Trường hợp này có thể giáo viên đó chưa biết chọn ra một
phương pháp phù hợp cho đối tượng học sinh.
17
Theo tôi, khi giảng dạy bộ môn ngữ văn nói chung và phân môn làm văn
nói riêg, ta có thể tìm một phương pháp chủ đạo nào đó hoặc vận dụng nhiều
phương pháp phối hợp lẫn nhau mà ta thường vận dụng, tùy thuộc vào nội dung
của bài giảng đó như phương pháp đàm thoại, giảng bình, phát vấn nêu vấn đề,

thảo luận nhóm điều quan trọng hơn là việc vận dụng các phương pháp ấy
cần chú ý đến đối tượng học sinh. Và với tôi phương pháp mà tôi lựa chọn áp
dụng là một phương pháp thật sự chú ý tới sự làm chủ của học sinh trong việc
chiếm lĩnh kiến thức ở mỗi tiết học, và đó cũng là phương pháp mang lại hiệu
quả cao trong học tập.
3.5. Kiểm nghiệm :
- Phương pháp dạy học từ thực hành rút ra lí thuyết trong tiết dạy Đề
văn nghị luận theo tôi là một trong những phương pháp giảng dạy hiệu quả
nhằm khơi dậy sự nhiệt tình của học sinh, khuyến khích học sinh tham gia làm
việc chiếm lĩnh kiến thức. Cụ thể là:
*Ưu điểm:
- Tạo được không khí vui tươi, sôi động trong giờ học.
- Có thể phát triển năng lực toàn diện của học sinh từ tâm lý, tính cách, kỹ
năng.
- Học sinh làm việc tích cực và chủ động trong toàn bộ tiết học, tránh tình
trạng các em chiếm lĩnh kiến thức một cách hời hợt, hoặc có ý thức không coi
trọng phân môn.
- Giáo viên có thể rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh, và lồng ghép
kiến thức một cách linh hoạt .
*Nhược điểm:
- Nếu không có công nghệ thông tin hỗ trợ thì tiết học sẽ khó thực hiệ
được vì phần thể hiện bài tập trên bảng rất tốn thời gian .
* Để tiết học áp dụng phương pháp thực hành rút ra lí thuyết thành công phải có
đầy đủ các tiêu chí sau:
- Giáo viên phải tạo được một hệ thống bài tập đa dạng, phong phú.
18
- Tất cả học sinh đều phải tích cực, chủ động làm việc, giáo viên cần quan
sát chặt chẽ thái độ làm bài tập của các em.
- Cần phải có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin .
4. Kết quả

- Mặc dù thời giann tôi áp dụng phương pháp chưa nhiều nhưng qua kiểm
tra và đánh giá tôi nhận thấy phương pháp mình lựa chọn đem lại những hiệu
quả nhất định, học sinh có thái độ yêu thích và hào hứng hơn với môn học, các
em cảm thấy tự tin vì bản thân là người tự chiếm lĩnh kiến thức và rất hiểu về
kiến thức đó. Cụ thể khi tôi chưa áp dụng phương pháp, khảo sát về ý thức học
tập của một lớp khối 10 - tôi hỏi những học sinh nào thực sự yêu thích học phân
môn làm văn nói chung và tiết Đề văn nghị luận nói riêng thì kết quả như sau :
Khảo sát Số lượng Tỷ lệ Ghi chú
- Tổng số được điều tra. 45 em.
- Số HS yêu thích: 10 em 22%
- Số HS không yêu thích 20 em 44%
- Số HS không có ý kiến 15 em 34%
* Đến khi tôi áp dụng phương pháp trên tiến hành điều tra thì ý thức học
tập của các em có sự chuyển biến :
Khảo sát. Số lượng Tỷ lệ Ghi chú
- Tổng số được điều tra. 45 em.
- Số HS yêu thích: 35 em 67%
- Số HS không yêu thích 5 em 11,5%
- Số HS không có ý kiến 5 em 11,5%
- Trong quá trình giảng dạy của mình tôi không chỉ có ý thức áp dụng
phương pháp trên với riêng tiết Đề văn nghị luận mà với tất cả các tiết làm văn
nói riêng và bộ môn ngữ văn nói chung tôi đều có ý thức trong việc chú ý đến
đối tượng học sinh, giúp các em thật sự hứng thú, sôi nổi trong giờ học và tự
19
mình chiếm lĩnh kiến thức. Đó là lí do vì sao mặc dù dạy chủ yếu là các lớp học
khối A nhưng kết quả học tập của học sinh vẫn tốt, cụ thể:
* Năm học 2011 -2012:
Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu
10C
1

40 4 = 10% 23 = 67,5% 13 = 32,5% 0 = 0%
10C
2
45 4 = 8% 30 = 60% 16 = 32% 0 = 0%
10C
3
50 3 = 6% 28 = 56% 20 = 36% 1 = 2%
12A9 45 8 = 19,3% 30 = 66,6% 7 = 14,6% 0 = 0%
* Kỳ I của năm học 2012 -2013.
Chất lượng bộ
môn
Học sinh
giỏi.
Học sinh
khá.
Học sinh
trung bình
Yêú - kém
12% 67% 20% 1%
III . KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Áp dụng thực hành để rút ra lý thuyết là một phương pháp dạy học tích
cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, làm việc tích cực học sinh. Đây là những
phẩm chất quan trọng của một công dân trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Đề tài này là kết quả của quá trình nghiên cứu và tìm hiểu những đặc điểm
của phân môn cũng như của học sinh qua những năm công tác, tôi tin tưởng rằng
nó sẽ rất cần thiết để tạo ra giờ học có chất lượng hiệu quả. Khi giảng bài, việc
chọn phương pháp giảng bài là một yếu tố rất quan trọng, nó quyết định rất lớn
đến việc học sinh tiếp thu bài. Với đặc thù phân môn làm văn và tiết Đề văn
nghị luận có đặc điểm khá khô khan, vận dụng phương pháp này sẽ tạo cho học

sinh cơ hội thực hành sôi nổi bớt tính khô khan của tiết học, tránh sự nhàm chán,
thụ động và học sinh có thể lĩnh hội tri thức chủ động, rèn luyện các kĩ năng.
Tuy nhiên, đây là một phương pháp khó để vận dụng thành công phương
pháp này, giáo viên phải nắm vững kiến thức, có tư duy thiết lập hệ thống bài
tập, dẫn dắt các em thực hành để từ cụ thể đi đến những kết luận khái quát. Bên
20
cạnh đó, cần phải có điều kiện cơ sở vật chất thuận lợi và sự kết hợp linh hoạt
các phương pháp dạy học khác.
2. Đề xuất:
Để giáo viên có thể thực hiện thành công phương pháp này tôi xin có một số
đề xuất với Nhà Trường một số vấn đề sau:
- Nhà trường nên đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất như : phòng máy (mỗi
phòng học nên có một máy chiếu); thư viện nhà trường nên có nhiều tài liệu
tham khảo.
- Có những giải pháp phù hợp và định hướng cụ thể, kịp thời hơn nữa để
giúp cho những giáo viên giảng dạy bộ môn này thực hiện đạt hiệu quả cao hơn.
- Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc áp dụng thực hành rút ra lý
thuyết trong tiết Đề văn nghị luận tạo sự hứng thú, chủ động cho học sinh trong
giờ học. Tuy nhiên, với năng lực hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót
mong các đồng nghiệp và Hội đồng khoa học nhà trường đóng góp những ý kiến
chân thành, giúp tôi bổ sung đầy đủ hơn vào sáng kiến kinh nghiệm này.
Tôi xin chân thành cảm ơn

Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Thanh Hoá, ngày 5.5.2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép của người
khác.

Nguyễn Thị Thuỷ

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
1. SGK Ngữ văn lớp 10 - Bộ GD- ĐT, Nxb Giáo dục Hà Nội (2006)
2. SGV Ngữ văn lớp 10. Bộ GD_ĐT. Nxb Giáo dục Hà Nội (2006).
3. Lý luận dạy học – PGS-TS khoa học Nguyễn Văn Bộ, Nhà Xb Giáo dục
(2002)
4. Dạy học và phương pháp dạy học trong Nhà trường (Phan Trọng Ngọ), Nxb
Đại học sư phạm Hà Nội(2005)
5. Tài liệu chuẩn kiến thức ngữ văn 10.
22
23

×