Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tổng quát về virus viêm gan b (hbv) và bệnh viêm gan siêu vi b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 39 trang )

1



BÀI IỂU LUẬN: ĐỘC TỐ VI SIH VẬT
ĐỀ TÀI: TỔNG QUÁT VỀ VIRUS VIÊM GAN B (HBV) VÀ BỆNH VIÊM
GAN SIÊU VI B.
THÀNH VIÊN:
NGHIÊM THỊ GIANG
ĐINH THỊ HẰNG
NGUYỄN THỊ TUYẾT
HƯƠNG
PHẠM THỊ HẢI
VƯƠNG ĐẮC HẠNH
LÊ HOÀNG DUY HƯNG
NGUYỄN KHẮC HƯNG
NGUYỄN THỊ THANH
HOA
MỤC LỤC
I: GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC BÊNH VIÊM GAN B
1) TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH
2) LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DỊCH BỆNH
3) DỊCH TỄ HỌC
4) CẤU TRÚC VIRUS VIÊM GAN B
II: CƠ CHẾ XÂM NHẬP VÀ GÂY BỆNH CỦA VIRUS VIÊM GAN B
(HBV)
1) MỐI LIÊN QUAN GIỮA CẤU TRÚC VÀ SỰ XÂM NHIỄM CỦA
HBV VÀO TẾ BÀO GAN
2) CƠ CHẾ XÂM NHIỄM VÀ TÁI BẢN CỦA HBV
3) NGUYÊN NHÂN SINH BỆNH VIÊM GAN DO NHIỄM HBV
III/ CÁC TRIỆU CHỨNG BỆNH LÝ VÀ PHƯƠNG PHÁP CHUẨN ĐOÁN


1) CÁC TRIỆU CHỨNG BỆNH LÝ
1.1 VIÊM GAN B CẤP TÍNH
1.2 VIÊM GAN B TỐI CẤP
1.3 CÁC DI CHỨNG VÀ HẬU QUẢ CỦA VIÊM GAN VIRUS B
a) Viêm gan B mãn tính.
b) Xơ gan sau viêm gan.
c) Ung thư tế bào gan.
2) MỘT SỐ XÉT NGHIỆM TRONG VIÊM GAN VIRUS.
2.1) CÁC XÉT NGHIỆM XÁC ĐỊNH TỔN THƯƠNG GAN
2.2) XÉT NGHIỆM MIỄN DỊCH CÁC DẤU ẤN VIRUS HBV
a) PHƯƠNG PHÁP ELISA
b) PHƯƠNG PHÁP RIA
2.3)SINH HỌC PHÂN TỬ TRONG CHUẨN ĐOÁN VIÊM GAN B
a) PHƯƠNG PHÁP PCR
b) CÁC PHƯƠNG PHÁP LAI PHÂN TỬ
3) MỘT SỐ LOẠI THUỐC DÙNG TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN B
MẠN
IV/ CÁCH PHÒNG TRÁNH VIÊM GAN B
KẾT LUẬN
2
MỞ ĐẦU
Từ “bệnh viêm gan” có nghĩa là “tình trạng sưng viêm lá gan " Bệnh
viêm gan B là căn bệnh viêm gan nghiêm trọng và thường gặp nhất trên thường
gặp nhất trên thế giới và do siêu vi viêm gan B (HBV) gây ra (siêu vi này tấn
công lá gan). Bệnh viêm gan B cấp tính (ngắn hạn) có thể chuyển thành viêm
gan B mãn tính — một căn bệnh cả đời có thể gây xơ gan, hoặc sẹo gan, ung
thư gan, và suy gan. Viêm gan vi-rút B (VGVR B) là một trong những bệnh có
tần suất mắc và tỷ lệ tử vong cao. Trên thế giới có khoảng 2 tỷ người bị nhiễm
vi-rút viêm gan B (VRVGB), trong đó có 360-400 triệu người mang vi-rút mạn.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm có khoảng 2 triệu

người nhiễm HBV mạn tử vong do xơ gan và ung thư gan nguyên phát. Nguy
cơ tương đối bị ung thư gan nguyên phát ở người nhiễm VRVGB cao gấp 100
lần so với người không nhiễm VRVGB.Việt Nam nằm trong khu vực có tỷ lệ
nhiễm VRVGB rất cao.
Không phải tất cả mọi người bị nhiễm viêm gan B đều sẽ phát triển
thành viêm gan B mãn tính. Thực ra, đa số những người lớn khỏe mạnh (90%)
bị nhiễm bệnh đều sẽ hồi phục và phát triển các kháng thể bảo vệ chống lại sự
nhiễm trùng trong tương lai. Nếu siêu vi này ở trong máu hơn sáu tháng, thì quý
vị được chẩn đoán là bị viêm gan B mãn tính, và thường cần phải được điều trị
để tránh gây tổn thương thêm cho lá gan.
I ) BỆNH VIÊM GAN B
1)Tình hình dịch bệnh :
3
Gan là một trong những bộ phận quan trọng trong cơ thể . Gan giúp loại
bỏ các chất độc hại và vi khuẩn khỏi máu, là nơi dự trữ năng lượng , các
enzyme và hormone quan trọng trong cơ thể . Viêm gan là hiện tượng hủy hoại
tế bào gan. Viêm gan do virut là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ thông
nhất trên thế giới và là 1 trong những thách thức quan trọng đối với sức khỏe
của cộng đồng hiện nay. Hiện nay có tổng cộng 7 loại viêm gan là A, B, C, D,
E, F và G. Viêm gan A, E và F lây lan qua đường miệng ;viêm gan B , C , D, G
truyền qua máu và dịch cơ thể. Trong đó nguy hiểm nhất là viêm gan B và C
mang tính chất phổ biến .
Theo ước tính của tổ chức Y tế thế giới ( WTO ), có khoảng hơn 35 triệu
người mang virut viêm gan B, tập trung chủ yếu ở Châu Phi, Châu Á, và khu
vực Đông Nam Á, trong đó chiếm trên 75 % ở khu vực Châu Á và Tây Thái
Bình Dương. Viêm gan B được đánh giá là 1 trong 9 nguyên nhân gây ra tử
vong. Vào năm 1996 hơn 1,1 triệu người đã chết vì căn bệnh này. Việt Nam
thuộc vùng dịch tễ lưu hành của viêm gan virut đặc biệt là viêm gan A và B.
Trong số 250 triệu người nhiễm viêm gan B mạn tính ở Châu Á – Thái Bình
Dương, Việt Nam chiếm tới 10- 14%. Hiện nay Việt Nam là 1 trong những

nước có tỉ lệ viêm gan B lớn nhất trên thế giới ( 8- 12%). Trong đó 10 -15%
nhiễm BHV có diễn biến thành viêm gan mạn tính, sau đó khoảng 25% thành
xơ gan, 80% dẫn đến ung thư gan và gây tử vong .
Ở Việt Nam , theo GS Hà Văn Mạo , chủ tịch hội gan mật Việt Nam ,
Viêm gan B là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm , có khả năng lây nhiễm cao gấp
100 lần so với HIV gây bệnh AIDS . Gần một nửa số bệnh nhân viêm gan B
mạn tính tử vong sớm vì bệnh .
2)Lịch sử hình thành và phát triển của bệnh :
Lần phát bệnh đầu tiên của một đại dịch gây ra bởi siêu vi viêm gan B đã
được thực hiện bởi Lurman vào năm 1885. Một đợt bùng phát của bệnh đậu
mùa đã xảy ra ở Bremen vào năm 1883 và 1289 nhân viên nhà máy đóng tàu đã
được chủng ngừa bạch huyết từ những người khác. Sau vài tuần, và lên đến tám
tháng sau đó, 191 công nhân chủng ngừa bị bệnh vàng da và được chẩn đoán là
bị viêm gan huyết thanh. Các nhân viên khác đã được tiêm phòng với các lô
khác nhau của bạch huyết vẫn khỏe mạnh. Lurman của giấy, bây giờ coi như là
một ví dụ cổ điển của một dịch tễ học nghiên cứu, chứng minh rằng bạch huyết
bị ô nhiễm là nguồn gốc của dịch bệnh bùng phát. Sau đó, sự bùng phát nhiều
4
Viêm gan B là một bệnh truyền nhiễm viêm gan gây ra bởi siêu viêm gan B
(HBV) có ảnh hưởng đến hominoidea , bao gồm cả con người. Ban đầu được
gọi là "viêm gan huyết thanh", căn bệnh này đã gây ra dịch bệnh ở các bộ phận
của châu Á và châu Phi , và nó bắt nguồn ở Trung Quốc . Khoảng 1/3 dân số
thế giới đã bị nhiễm tại một thời điểm trong cuộc sống của họ, bao gồm cả 350
triệu người lây nhiễm mãn tính .
3) Dịch tễ học :
HBV thường truyền qua máu và các sản phẩm máu nhưng trong những
trường hợp nhất định, nó cũng có thể lây nhiễm qua đường miệng. Virut cũng
được tìm thấy trong tinh dịch, dịch tiết âm đạo, sữa mẹ, huyết thanh và chúng là
những phương tiện hữu hiệu để truyền HBV. Các nghiên cứu đã cho thấy các
kháng sinh của HBV có mặt trong nước tiểu, phân , mật , mồ hôi và nước mắt

nhưng không lâu dài. Tất cả các loại dịch cơ thể của người nhiễm HBV đều có
khả năng mang mầm bệnh .
Sự nhiễm HBV phổ biến trên toàn thế giới nhưng tỉ lệ nhiễm bệnh khác
nhau rất lớn giữa các nước, liên quan đến sự khác nhau giữa các hình thức
truyền bệnh và độ tuổi nhiễm bệnh. Tỉ lệ người mang mầm bệnh cao và tỉ lệ
truyền từ mẹ sang con là những chỉ số cho thấy tỉ lệ nhiễm BHV cao ở một số
nước. Ở những vùng có tỉ lệ nhiễm HBV cao nhưng Trung Quốc, Đông Nam
Á , Châu Phi,Thái Bình Dương khoảng 10-20 % dân số trưởng thành nhiễm
HBV. Ở những quốc gia này, trong các con đường truyền HBV, con đường từ
mẹ sang con là chủ yếu. Sự nhiễm trong giai đoạn ấu thơ rất phổ biến, đặc biệt
là những người mang mầm bệnh nhiễm HBV từ mẹ trong khi sinh. Càng nhiễm
sớm thì mầm bệnh tồn tại càng lâu. Ở những vùng có tỉ lệ nhiễm HBV trung
bình như Bắc Âu hay Đông Âu, Vùng Địa Trung Hải, Nhật Bản, Trung Á ,
Trung Đông, Châu Mĩ la tinh và Nam Mỹ , tỉ lệ người mang mầm bệnh thấp chỉ
khoảng 0.1 -0.5 % dân số. Hiếm thấy nhiễm HBV trong giai đoạn ấu thơ mà
hình thức truyền nhiễm chính qua đường sinh dục và tiêm qua da. Vương quốc
Anh là một trong những nước nhiễm HBV ít nhất .
4) Cấu trúc virus viêm gan B
5
Virus viêm gan B thuộc họ Hepadnaviridae, là một loại vi-rút hướng gan
(hepatotropic) có cấu trúc nhân DNA. Hiện nay người ta chưa nuôi cấy được
VRVGB nhưng các nghiên cứu về VRVGB có thể thiết kế dựa trên mô hình
thực nghiệm của các vi-rút trong nhóm Hepadnavirus gây bệnh ở một số động
vật có vú như marmot, sóc x ám hoặc một số loài chim như vịt Bắc Kinh
Trong huyết thanh của bệnh nhân ở giai đoạn nhân dôi của vi-rút, người ta có
thể tìm thấy ba kiểu cấu trúc:
1. Hạt Dane hay virion hoàn chỉnh có đường kính 42 nm, gồm 3 lớp :
- Vỏ ngoài dày 7 nm, cấu tạo bởi 3 chuỗi polypeptid. Chuỗi có kích thước ngắn
nhất là KN bề mặt HBsAg.
- Vỏ capsit được cấu thành bởi 2 chuỗi polypeptid:

+ Chuỗi polypeptid lõi ngắn là KN lõi của vi-rút, được gọi là HBcAg.
+ Chuỗi polypeptid dài có trọng lượng phân tử 25 kDa, được gọi là polypeptid
trước lõi. Cấu trúc gồm 1 polypeptid ngắn cọng với 1 peptid đơn, được gọi là
HBeAg.
6
Cấu trúc hạt Dane của virus HBV
2. Các cấu trúc hình cầu và hình ống. Hầu hết các hạt HBs có hình cầu,
đường kính khoảng 17-25nm, chiếm số lượng lên đến 10
13
/ml. Ngoài ra, còn có
các hạt hình ống, có đường kính 20nm với chiều dài rất thay đổi, chiếm một
lượng ít hơn vào khoảng 10
11
/ml hoặc 1 µg/ml. Ngược lại, trong huyết thanh của
những người có nồng độ virút thấp, chỉ chứa khoảng 10
12
/ml các hạt HBs hình
cầu và một vài hoặc không có hạt hình ống.Hai cấu trúc này chính là phần KN
bề mặt của vi-rút được sản xuất dư thừa tại bào tương của tế bào gan, cho nên
chúng cũng mang những đặc tính như HBsAg. Tuy nhiên chúng không chứa
HBV DNA nên không có tính lây nhiễm.

Cấu trúc hình cầu và hình ống có chứa
các kháng nguyên bề mặt nhưng không
có hạt lõi mang genome nên không có
tính gây bệnh.
7
3. Cấu trúc bộ gen HBV

Cấu trúc genome HBV

Bộ gen của VRVGB là một phân tử DNA dạng vòng có khoảng 3.200
nucleotide (3,2 kb). Đây là một chuỗi xoắn kép không hoàn toàn gồm hai chuỗi
đơn có chiều dài khác nhau (Hình 1.1):
- Chuỗi dài nằm ngoài, có cực tính âm (-), tạo nên một vòng tròn liên tục
với chiều dài cố định là 3,2 kb. Chuỗi gen này mã hóa cho tất cả các thông tin di
truyền của vi-rút.
- Chuỗi ngắn nằm trong, có cực tính dương (+) với chiều dài thay đổi từ
50 – 100% chiều dài của bộ gen.
Bộ gen là một DNA có cấu trúc kép gồm 4 gen (còn gọi là 4 khung đọc mở
(open reading frame) S, C, P và X. Đây là các vùng mã hoá để tổng hợp các
protein của vi-rút.
Quá trình đọc mã được bắt đầu từ bộ ba nucleotide AUG được gọi là codon
khởi đầu (start codon) và chấm dứt bằng codon kết thúc (stop codon) là TAG.
- Gen S là phần protein chính của vỏ, bao gồm vùng S, pre-S1 và pre-S2 mã hoá
để tổng hợp các protein bề mặt hay kháng nguyên bề mặt HBsAg (“s”:surface).
Vùng S và pre-S2 có chiều dài cố định trong khi vùng pre-S1 có chiều dài thay
đổi tuỳ theo từng phân týp khác nhau.
- Gen C là một polypeptid mang kháng nguyên HBcAg và HBeAg. Nếu quá
trình đọc mã được bắt đàu từ codon AUG thứ nhất ở vị trí 1814 và đọc suốt
chiều dài của đoạn gen pre-C và C sẽ tổng hợp nên HBeAg.
- Gen P chiếm 80% chiều dài của bộ gen. Sản phẩm của nó là ADN-polymerase
cần thiết cho sự nhân lên của vi-rút vì nó tham gia vào quá trình sao chép ngược
DNA mới từ RNA tiền gen.
- Gen X có vai trò trong sự chuyển hoạt tính (transactivation) trong quá trình
nhân đôi của vi-rút.
8
II/ CƠ CHẾ XÂM NHẬP VÀ GÂY BỆNH CỦA VIRUS VIÊM GAN B
(HBV)
1) MỐI LIÊN QUAN GIỮA CẤU TRÚC VÀ SỰ XÂM NHIỄM CỦA
HBV VÀO TẾ BÀO GAN

Sau khi vượt qua hang rào ngăn chặn sự xâm nhiễm của cơ thể, HBV sẽ
di chuyển tới đích đến cuối cùng của mình là những tế bào gan. Cấu trúc đặc
biệt của HBV cho phép xâm nhập và đưa vật chất di truyền của mình vào và tái
bản bên trong tế bào gan. Khả năng xâm nhập vào tế bào gan do các phân tử
protein bề mặt HBsAg thực hiện.
HBsAg ( Hepatitis B surface Antigen) là một protein có tính kháng
nguyên, tham gia cấu tạo nên lớp vỏ của virus. HbsAg gồm ba loại protein là
protein S ( smal), protein M ( medium), protein L ( large). Cả ba loại protein
này đều được mã hóa bởi gen S trong genome của virus. Gen S bao gồm phân
vùng : phân vùng preS1, vùng PreS2 và vùng S. Trong cấu trúc gen, vùng PreS2
và vùng S thường có chiều dài cố định trong khi vùng pre S1 có chiều dài thay
đổi tùy theo từng phân typ khác nhau.
Protein S được mã hóa bởi vùng S và chiếm đa số lượng protein có trên
bề mặt của hạt virus. Protein S là một chuối gồm 226 amino acid nối với nhau
và được tìm thấy ở hai dạng: dạng không glycozit hóa và dạng có glycozit
hóa.Chính protein S qui định typ của virus HBV.
Protein M là chuỗi polypeptide gồm 281 amino acid. Trong đó, có 55
acid amin được mã hóa bởi vùng PreS2 và phần còn lại được mã hóa bởi đoạn
S.Protein PreS2 có tính ưa nước, không chứa cystein và rất nhạy cảm với
proteases. Có thể tách có chọn lọc vùng protein PreS2 ra khỏi các kháng nguyên
Hbs mà không làm tổn hại cấu trúc của protein S.Vùng PreS2 có vai trò giúp
cho virus có thể bám dính vào màng và xâm nhập vào bên trong tế bào gan.
PreS2 có khả năng bám vào tế bào gan do nó liên kết với một loại albumin được
tổng hợp trong huyết thanh người và trên thành tế bào gan cũng có có các điểm
thụ thể của Albumin pHSA ( Polymerized Human Serum Albumin). Nếu trên tế
bào gan thiếu các điểm thụ thể này thì có thể làm cho tế bào có khả năng kháng
với sự nhiễm HBV.
9
Protein lớn nhất của các kháng nguyên bề mặt- protein L bao gồm hai
phân vùng : vùng S và PreS ( được tạo thành bởi chuỗi PreS1 và PreS2). Vùng

hoạt động của PreS ( acid amin 21đến 47) dễ bị ảnh hưởng bởi các kháng thể,
thụ thể và proteases. Protein L đóng vai trò quan trọng trong việc gắn vào thụ
thể và xâm nhập vào tế bào gan do có vùng hoạt động nằm trên chuỗi PreS1.
Hình vẽ Protein S với
cấu trúc được glycozit
hóa. Vùng glycosyl
hướng ra phía bên ngoài
trong khi vùng ưa nước
hườn vào phía bên trong
lớp vỏ.
Cấu trúc protein M được tạo
thành từ doạn S và 55 acid amin
của đoạn PreS2. Cấu trúc có vùng
có khả năng gắn với Albumin
trong huyết thanh giúp cho HBV
có thể bám dính vào tế bào gan.
10
Protein L với cấu tạo từ ba
chuỗi : S, PreS 1 và PreS2.
Chuỗi PreS1 bao bọc chuỗi S
và một phần của chuỗi PreS2.
Trình tự cuối của PreS1 là
Methionin-Glycin cùng với một
vài acid amin lân cận là tín hiệu
cho việc thay thế Methionon
bằng acid béo 18C Myristic.
Ngoài ra, trên chuỗi PreS1 có
vùng chức năng thâm nhập vào
tế bào gan thông qua các thụ
thể màng.

2) CƠ CHẾ XÂM NHIỄM VÀ TÁI BẢN CỦA HBV
Những tế bào gan là tế bào đích đối với virus viêm gan B, để có thể
sinh sôi và phát triển trong cơ thể vật chủ thì HBV phải xâm nhập vào tế
bào gan. Sự xâm nhập này xảy ra theo các bước sau : (1)Tấn công,
(2)Thâm nhập, (3) Dịch mã, (4) Phiên mã, (5) Tổng hợp genome, (6) Lắp
ráp, (7) Giải phóng.
2.1) Tấn công
Trước hết, để có thể tấn công và xâm nhiễm vào tế bào gan, virus sẽ
phải vượt qua được hàng rào bảo vệ cũng như hệ thống miễn dịch của cơ thể.
Sau khi vượt qua các rào cản, HBV sẽ gặp phản ứng ngăn chặn của hệ thống
miễn dịch. Một trong những cách để lẩn trốn khỏi hệ miễn dịch nằm ở các dạng
cấu trúc của HBV. Bằng việc tạo ra các thể có lớp vỏ và các kháng nguyên bề
mặt nhưng lại không có genome đẵ một phần đánh lừa hệ thống miễn dịch.
Trong các protein vỏ của virus có protein M và L. đây là hai loại
protein có vai trò lớn trong việc giúp hạt virus có thể tấn công vào tế bào
gan.Trong thực tế, vẫn chưa thể xác định rõ được thụ thể nào trên màng tế
bàogan là điểm tấn công của HBV. Theo giả thiết, có thể có hai cơ chế tấn công
vào tế bào gan là tấn công thông qua đoạn PreS1 và đoạn PreS2.
11
HBV có thể tấn công bằng vùng hoạt động trên PreS1 ở Protein L.
Vùng này tấn công trực tiếp vào điểm thụ thể thụ thể phù hợp trên bề mặt tế bào
gan. Một cách khác để tấn công là n hờ vào khả năng gắn vơi pHSA của vùng
PreS1 và xâm nhập thông qua các điểm vận chuyển albumin vào trong có trên
bề mặt các tế bào gan.
2.2) Thâm nhập
* Quá trình xâm nhập vào bào tương
Đối với virus gây bệnh cho người cũng như động vật có hai cơ chế để
virus đưa được genome của mình vào trong tế bào.
Cơ chế thứ nhất, chỉ xuất hiện ở một vài virus có vở ngoài có các
protein dung hợp. Các protein này chèn một mã kị nước vào bên trong lớp màng

lipid kép của tế bào đích. Quá trình này gây dung hợp lớp màng của virus với
màng tế bào, qua đó phóng thích cấu trúc nucleocapsit vào trong bào tương.
Cơ chế thứ hai, có ở hầu hết các loại virus có vỏ hoặc không có vỏ.
Theo cơ chế này, virus xâm nhập nội bào thông qua thụ thể trên màng tế bào.
Nucleocapsit được vận chuyển vào bào tương thông qua phương tiện là hạt nội
bào ( endosome). Quá trình thâm nhập thành công là khi nucleocapsit thoát
được ra khỏi cấu truc endosome và đưa genome vào trong nhân tế bào trước khi
endoosome chuyển thành trạng thái có tính acid phagolysosome.
12
HBV cũng xâm nhập vào bào tương thông qua cơ chế thứ hai. Sau khi
tiếp xúc với thụ thể màng tế bào gan, lõi của virus được bao bọc bởi endosome.
Hạt nội bào được tạo thành từ phức hợp hạt virus và màng nội bào. Khi xâm
nhập vào bào tương thành công, cấu trúc nucleocapsit được giải phóng vào
nhân.
* Sự giải phóng genome virus vào trong nhân tế bào
Lõi của HBV có kích thước vào khoảng 32 đến 36 nm trong khi đường
kích của lỗ màng nhân chỉ vào khoảng 26nm. Như vậy, lõi của virus qua kích
thước so với lỗ màng nhân và theo đúng logic thì lõi HBV không thể vào được
vùng nhân. Nhưng trong thực tế, một loạt thử ngiệm đánh giá lại đường kính lỗ
nhân được thực hiện. Bằng việc bao bọc một trình tự định vị nhân ( nuclear
localization sequence- NLS) bằng vàng, việc này tạo nên một hạt có kích thước
lên đến 39 nm. Nhưng điều thú vị là hạt vang bọc NLS này vẫn có thể đi qua lỗ
màng và vào trong nhân.
Cũng như nhiều loại virus khác, HBV sử dụng hệ thống các vi ống vận
chuyển của tế bào để giải phóng genome vào trong nhân. Sự tương tác với bộ
máy vận chuyển tế bào được thực hiện thông qua phần đầu cuối cacboxyl của
protein lõi. Phần đuôi cacboxyl này sẽ là phần tiếp xúc vói lớp vỏ thông qua
việc phosphoryl hóa phần đầu tận cùng C. Vùng đầu cuối C này là một miền da
chức năng. Bên cạnh việc tương tác với những protein của tế bào tạo điều kiện
thuận lợi cho việc bám vào các hệ vi ống, nó còn bao gồm một vùng trình tự

định vị nhân (NLS). NLS là yếu tố cho việc tương tác với importin α –một
adaptor protein cho việc gắn vào importin β. Importin β là thụ thể vận chuyển tế
bào, thụ thể này gián tiếp gắn vào các sợi của lỗ màng nhân và chuỗi tín hiệu
vận chuyển qua lỗ màng và vào vùng nhân.
Quá trình các kháng nguyên bề mặt
HbsAg bám vào thành té bào gan và
tạo thành thể endosome. Sau đó lõi
của HBV được đưa vào vùng nhân
tế bào bằng cách vận chuyển thông
qua các lỗ màng nhân.
13
2.3) Quá trình dịch mã các gen của HBV
Một khi genome của virus được đưa vào trong vùng nhân nó chuyển
sang thành một phân tử DNA vòng. Khi đó, liên kết cộng hóa trị giữ protein P
sẽ được loại bỏ khỏi đầu 5’ của chuỗi DNA (-). Đoạn ARN được loại bỏ khỏi
đầu 5’ của chuỗi DNA+, trong khi DNA được tổng hợp ở đầu 3’ của chuỗi
DNA+ khiến toàn bộ phân tử DNA trở thành dạng chuỗi kép.Đầu kết thúc của
mỗi chuỗi được nối lại tạo thành dạng DNA đóng vòng cộng hóa trị cccDNA-
covalently closed circular DNA.
Phân tử cccDNA được dùng làm khung cho quá trình phiên mã.Các
nghiên cứu đã xác định được có bốn promotor trong genome của HBV, những
promotor này định vị ở các vùng PreS1, PreS2, X và PreC của genome. Nhưng
chỉ duy nhất promotor PreS2 có trình tự TATA box. Có ít nhất hai promotor có
tính đặc hiệu cao đối với tế bào gan, việc này được chứng tỏ thông qua một vài
yếu tố phiên mã là những protein của tế bào gan. Tỷ lệ phiên mã cả bốn
promotor được kiểm soát bởi việc các yếu tố phiên mã bám vào hai trình tự điều
hòa tăng cường ( enchancer) có sẵn trong genome HBV. Quá trình phiên mã
được thực hiện nhờ vào RNA polymerase II của tế bào. Sản phẩm của quá trình
phiên mã tạo ra bốn đoạn RNA có kích thước khác nhau. Tất cả đều sử dụng
chung trình tự khởi đầu TATA box của promotor PreS2 nên sẽ có đầu tận cùng

3’ giống nhau.
14
Trong quá trình phiên mã có tạo ra đoạn mRNA có kích thước 3.5 kb
lớn hơn kích thước của genome 3.2 kb. Để tạo ra được đoạn mRNA thì trong
quá trình phiên mã, một phần của DNA sẽ được phiên mã hai lần. Để thưck hiện
được điều này RNA pol II sẽ phải bỏ qua tín hiệu TATA box trong lần đi qua
đầu tiên. Các nghiên cứu cho thấy việc bỏ qua này được kiểm soát bởi một trình
tự DNA PET( positive effector of transcription). Trình tự này cho phép RNA
pol II bỏ qua hộp TATA trong lần đi qua đầu tiên nhưng sẽ không cho qua ở lần
thứ hai.
2.4) Quá trình dịch mã
Quá trình dịch mã xảy ra ở bên ngoài nhân nhờ vào các ribosome. Sau
khi tổng hợp, các mRNA được đưa ra ngoài và thực hiên quá trình dịch mã tạo
thành các loại protein của virus như: Protein bề mặt HbsAg ( L, M, S) protein
lõi, DNA polymerase, Protein X.
Đoạn mRNA 2.4 kb tổng hợp nên Protein L, trong khi đoạn 2.1 kb
tổng hợp nên Protein S và M của kháng nguyên bề mặt HbsAg . Đoạn 3.5 kb
tổng hợp nên protein của lõi- protein C và DNA pol( protein P). Đoạn mRNA
nhỏ nhất kích thước 0.9 kb tổng hợp nên protein X. Ngoài ra, đaonj gen C và
Pre C còn tổng hợp nên kháng nguyên lõi HbeAg là một kháng nguyên góp
phần trong chuẩn đoán bệnh viêm gan.
15
2.5)Tổng hợp genome virus
Bên cạnh việc tổng hợp nên protein C và P, đoạn 3.5 kb còn có chức
năng như là tiền genome. Đoạn RNA tiền genome này được sử dụng như một
khuôn để tổng hợp nên hệ genome DNA của virus.
Sau khi được tổng hợp, một phân tử protein P cùng một số loại protein
của tế bào sẽ bám vào phân tử RNA 3.5 kb. Protein P bám vào đoạn trình tự ε
( một đoạn trình tự có cấu trúc bậc hai). Đoạn trình tự ε nằm ở phía bên trong
tín hiệu kết thúc lặp và xuất hiện ở cả hai đầu 3’ và 5’ của RNA. Nhưng protein

P chỉ bám vào đoạn trình tự ở đầu 5’ và quá trình tổng hợp genome bắt đầu nhờ
các enzyme như: Enzyme phiên mã ngược ( Revers transcriptase), DNA pol II.
Quá trình tổng hợp mạch DNA- bắt đầu ở đầu 5’. Một đoạn mồi gồm 4
nucleotide được tổng hợp ở đầu 5’ nhờ Enzyme RT. Sau đó, đoạn mồi được
chuyển đến trình tự bổ sung với nó ở gần trình tự kết thúc lạp ở đầu 3’ của
RNA.
Sự tổng hợp được tiếp tục ở đầu 3’ của RNA sợi DNA- tiếp tục kéo dài từ
chiều 5’ đến 3’.
Trong khi mạch DNA – được kéo dài thì sơi RNA sẽ được phân hủy tử đầu
3’ nhờ vào sự xúc tác của Enzyme RnaseH.
16
Toàn bộ sợi DNA – được tổng hợp hoàn tất,sợi RNA cũng được phân hủy hết
trừ một đoạn trình tự ngắn ở đầu 5’.
Đoạn DNA – đóng vòng và sợi DNA+ được tổng hợp dựa trên mạch khung là
DNA sợi âm.
Quá trình tổng hợp nên genome của virus có sự tham gia của enzym
phiên mã ngược có vai trò chuyển đọan RNA –pre genome thành genome. Sự
phiên mã ngược có tính đột biến cao, những genome tạo ra có thể sẽ không
giống hoàn toàn so với genome ban đầu. Chính sự đột biến này có thể làm thay
đổi cấu trúc của các protein bề mặt, sinh ra những kháng nguyên có cấu tạo
kháng kháng nguyên ban đầu. Đây cũng chính là một cơ chế giúp HBV có thể
thoát khỏi sự tiêu diệt của hệ thống miễn dịch.
2.6) lắp ráp tạo hạt virus hoàn chỉnh
Sau khi genome và cá protein cấu trúc được tổng hợp, quá trình lắp ráp
được tiến hành tạo hạt virus hoàn chỉnh. Protein C sẽ tạo thành lớp protein lõi
bao bọc lấy genome. Sau đó lõi virus sẽ được bao bọc bởi lớp vỏ nền có chữa
các kháng nguyên bề mặt.
17
2.7) Giải phóng
Sau khi trưởng thành, hạt virus HBV được đưa đến màng tế bào và

giải phóng ra ngoài theo con đường ngoại bào và không gây tổn thương đến tế
bào gan. Thực tế, HBV không gây hại trực tiếp đến tế bào gan mà là do sự hoạt
động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể.
Vòng đời của virus viêm gan B (HBV) trong tế bào gan.
18
3) NGUYÊN NHÂN SINH BỆNH VIÊM GAN DO NHIỄM HBV
Thông thường, trong khâu giải phóng ở vòng đời virus, các hạt virus
mới sau khi tổng hợp sẽ thoát ra ngoài theo con đường phá vỡ thành tế bào và
gây chết tế bào nhiễm virus.Virus gây viêm gan HBV lại là một trường hợp cá
biệt. Trong quá trình thoát ra ngoài, các hạt virus thoát ra theo con đường goại
bào nên không phá vỡ thành tế bào, không gây chết tế bào. Thực chất, căn
nguyên của bệnh viêm gan B do nhiễm HBV là do cơ chế hoạt động của hệ
miễn dịch trong cơ thể người và động vật.
Các bệnh viêm gan do nhiễm HBV đều do là do các tế bào gan bị tổn
thương. Nhưng như đã biết, HBV không trực tiếp gây chết tế bàò. Nguyên nhân
là do quá trình hoạt động của các tế bào Tc (cytokin lympho T). Đây là một tế
bào hoạt động trong hệ thống miễn dịch của cơ thể có chức năng nhận biết và
tiêu diệt các tế bào lạ, các tế bào bị nhiễm virus. Một khi HBv vào được trong tế
bào gan, chu trình nhân lên sẽ được bắt đầu. Trong qua trình nhân lên, virus có
sự tổng hợp nên HbeAg- một loại protein của virus. HbeAg được tổng hợp nên
từ đoạn PreC của genome virus. HbeAg sau khi được tổng hợp sẽ được đưa đến
màng tế bào gan do các protein MHC-Major histocaompatibility complex(phức
hợp phù hợp tổ chức). Phức hệ MHC-HbeAg khi lên đến bề mặt tế bào gan sẽ
được tế bào Tc kiểm tra. Do HbeAg là một protein của virus nên sẽ gây tính lạ
đối với Tc. Khi đó, Tc sẽ tiết ra các chất gây độc tế bào, các enzym phá hủy
nhân, màng tế bàovà gây phá hủy các tế bào gan nhiễm virus HBV. Quá trình
tiêu diệt này làm chết các tế bào gan và gây ra bệnh viêm gan.
III/ CÁC TRIỆU CHỨNG BỆNH LÝ VÀ PHƯƠNG PHÁP CHUẨN ĐOÁN
19
1) CÁC TRIỆU CHỨNG BỆNH LÝ

Trong quá trình nhiễm virus viêm gan B, người bệnh mắc phải bệnh lý
viêm gan B cấp tính. Đây là bệnh xảy ra do hệ thống miễn dịch của cơ thể hoạt
động để thải loại yếu tố gây nhiễm trùng là HBV. Một trường hợp khác khi
nhiễm HBV là chuyển sang dạng viêm gan B tối cấp tính và có nguy cơ gây tử
vong, nhưng trường hợp mắc phải viêmgan tối cấp tính là hiếm. Phần lớn khi
nhiễm HBV, người bệnh chỉ bị viêm gan cấp và đa số là khỏi và có khả năng
miễn dịch. Chỉ có một tỷ lệ nhất định người viêm gan tối cấp chuyển sang dạng
viêm gan mạn và gây các ra các di chứng như: xơ gan, ung thư gan…
Sơ đồ thể hiện tỷ lệ
bệnh lý khi nhiễm
HBV ở người trưởng
thành và tre mắc HBV
khi sinh.
Đối với trẻ em nhiễm HBV khi sinh có tới 90% chuyển sang dạng
viêm gan mãn tính và chỉ khoảng 10% là hồi phục hoàn toàn. Khi người trươngr
thành nhiễm HBV thì tye lệ khỏi hoàn toàn là 90% và chỉ có 10% chuyển sang
dạng mãn tính.Khi bệnh lý chuyể sang viêm gan mãn tính thì 80% người bệnh
là không có biến chứng nặng và chỉ có khoảng 20% là có biến chứng nặng gây
xơ gan, ung thư gan.
1.1) Viêm gan B cấp tính.
20
Biểu hiện lâm sàng của VGVRB cấp thường phong phú và đa dạng. Tỷ
lệ nhiễm VRVGB cấp có triệu chứng lâm sàng tương đối thấp, khoảng 10%
trường hợp và phụ thuộc vào tuổi của bệnh nhân. Đối với trẻ em trước tuổi đến
trường, viêm gan cấp rất hiếm xảy ra. Khi tuổi càng lớn, tỷ lệ mắc viêm gan B
cấp tăng tương ứng. Ở người lớn có khoảng 25% người nhiễm VRVGB có các
dấu hiệu lâm sàng.
Thể điển hình thường có 4 giai đoạn:
- Thời kỳ ủ bệnh: khoảng 30-180 ngày. Thời gian này tuỳ thuộc vào nồng độ
của vi-rút trong huyết thanh và các yếu tố của ký chủ. Đây là giai đoạn im lặng,

không có triệu chứng.
- Thời kỳ khởi phát (trước vàng da): kéo dài từ 1-2 tuần, trung bình từ 3-7
ngày. Đây là giai đoạn tiền triệu với các triệu chứng giống như cúm. HBsAg có
thể được phát hiện ở giai đoạn này. Trên lâm sàng ghi nhận các triệu chứng: sốt
nhẹ (12-55%), đau cơ (15-50%), đau khớp (15-40%), mệt mỏi, chán ăn (95%),
buồn nôn, đau hạ sườn phải Ngoài ra có thể có nhức đầu, đau họng, sợ ánh
sáng…Đau khớp, phát ban có liên quan đến sự hình thành các phức hợp miễn
dịch.
+ Khởi phát của bệnh có thể đột ngột nhưng cũng có thể âm thầm với những
triệu chứng giống cảm cúm như đau cơ, đau khớp. Điều cần chú ý là sốt cao
kèm theo vàng da-vàng mắt không phải là đặc điểm của bệnh VGVRB. Mệt
mỏi, uể oải là những dấu hiệu xuất hiện rất sớm, hiện diện trong khoảng 95%
trường hợp. Đây không những là dấu hiệu xuất hiện đầu tiên mà còn là dấu hiệu
kéo dài lâu nhất.
Chán ăn là triệu chứng rất thường gặp và thường kéo dài. Bệnh nhân thường
không còn thích những món ăn mình ưa thích trước đây. Buồn nôn, nôn và chán
ăn thường có liên quan với thay đổi cảm giác và khẩu vị. Có khi bệnh nhân có
cảm giác khó tiêu sau mỗi lần ăn, vì vậy khiến cho bệnh nhân không muốn ăn
uống.
+ Đau bụng thường xuất hiện trong khoảng 60% trường hợp. Bệnh nhân cảm
thấy đau âm ỉ ở hạ sườn phải, không giảm khi dùng các thuốc trung hoà dịch vị,
khi ăn hoặc khi thay đổi tư thế.
+ Viêm khớp cũng rất thay đổi từ mức độ nhẹ đến trung bình, xảy ra ở nhiều
khớp nhưng không gây biến dạng khớp. Bệnh nhân thường đau ở các khớp
khuỷu tay, cổ tay, đầu gối, khớp liên đốt bàn tay Ở trẻ em bị VGVRB cấp có
thể bị bệnh Gianotti với 3 đặc điểm: phát ban ngoài da, nổi hạch, viêm khớp.
Tiểu vàng đậm và phân có màu đất sét có thể được ghi nhận ở bệnh nhân
khoảng 1-5 ngày trước khi bắt đầu thời kỳ vàng da.
- Thời kỳ toàn phát (thời kỳ vàng da): Các dấu hiệu toàn thân của thời kỳ
trước vàng da giảm dần, bệnh nhân hết sốt. Bệnh nhân thấy nước tiểu ít đi, tiểu

vàng đậm, sau đó vàng mắt, vàng da, phân hơi bạc màu. Khoảng hơn 40% bệnh
nhân có triệu chứng ngứa ngoài da. Tình trạng ngứa tăng lên theo mức độ vàng
21
da. Khi nồng độ bilirubin trong huyết thanh <10 mg% thì rất khó phát hiện vàng
mắt.Thăm khám thực thể có thể phát hiện gan lớn (50-80%), mềm, gây cảm
giác đau và khó chịu ở hạ sườn phải. Khoảng 10-20% bệnh nhân có lách lớn và
hạch lớn ở cổ. Xét nghiệm có transaminase và bilirubin tăng cao, tỷ lệ
prothrombin giảm. Trên 20% bệnh nhân có các dấu hiệu bệnh lý ngoài gan như
viêm mạch dạng nút (polyarteritis nodosa), viêm vi cầu thận cấp, ban đỏ dạng
nút (erythema nodosa). Các bệnh lý này xuất hiện chủ yếu do hình thành phức
hợp kháng nguyên-kháng thể. Bệnh nhân có thể có giảm cân nhẹ khoảng 2,5-5
kg trong suốt thời kỳ vàng da. Có một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân VGVRB cấp không
có giai đoạn vàng da rõ.
- Thời kỳ hồi phục: Dấu hiệu vàng da kéo dài trong 2-6 tuần, có khi dài hơn,
sau đó bệnh nhân tiểu trong hơn và nhiều hơn, ăn ngon miệng, ngủ được, cảm
giác mệt mỏi giảm rõ rệt. Thăm khám thấy gan nhỏ lại. Các thông số sinh hoá,
huyết học dần trở lại bình thường nhưng chậm hơn. Giai đoạn hồi phục kéo dài
khoảng 2-12 tuần, nhưng sự hồi phục hoàn toàn về lâm sàng và sinh hoá ở 3/4
bệnh nhân VGB cấp không có biến chứng kéo dài khoảng 3-4 tháng kể từ khi
bắt đầu vàng da.
1.2) Viêm gan B tối cấp tính.
Biểu hiện lâm sàng của viêm gan tối cấp rất đa dạng. Bệnh nhân có thể có
tiền hôn mê, hôn mê hoặc không. Hôn mê là đặc điểm lâm sàng có ý nghĩa tiên
lượng. Hôn mê thường xảy ra vào giai đoạn toàn phát và thường vào ngày 5-8
của thời kỳ vàng da, có khi xảy ra vào ngày thứ 3-4 hoặc muộn hơn, vào tuần
thứ 3-5 của bệnh.
Những triệu chứng lâm sàng khác:
- Rối loạn tâm thần kinh: Là triệu chứng cơ bản và xuất hiện sớm. Bệnh
nhân có trạng thái kích thích, cảm thấy bứt rứt, khó chịu, không nằm yên, trong
đêm hoàn toàn không ngủ được. Mất định hướng không gian và thời gian. Sau

đó là trạng thái rối loạn tâm thần cấp tính, mê sảng kèm theo kích thích vận
động rồi dần dần đi vào hôn mê.
- Buồn nôn và nôn: Nôn kéo dài suốt các giai đoạn của bệnh viêm gan tối
cấp. Ban đầu, nôn thường xuất hiện khi ăn, uống nước hoặc thuốc. Về sau nôn
tự nhiên và nôn ra dịch màu cà phê (có xuất huyết do rối loạn đông máu).
- Xuất huyết: Bệnh nhân có thể bị xuất huyết dưới da, niêm mạc (chảy
máu cam, chảy máu chân răng), xuất huyết phủ tạng (tiêu hoá, tiết niệu ).
Nguyên nhân do giảm prothrombin, fibrinogen, vitamin K và tổn thương mạch
máu do nhiễm độc. Nhiều tác giả đã chứng minh rằng ở bệnh nhân viêm gan tối
cấp có hội chứng đông máu nội mạch rải rác (CIVD).
- Sốt: Sốt có thể kéo dài liên tục từ khi khởi phát nhưng thường thấy sốt
trở lại khi gan thu nhỏ. Sốt liên tục, tăng dần đến 400C. Không giảm khi dùng
thuốc hạ sốt.
- Hơi thở có mùi gan tươi: Đây là dấu hiệu đặc trưng của hoại tử gan cấp.
22
Ngoài hơi thở, mùi gan tươi còn có thể thấy ở chất nôn, nước tiểu bệnh nhân
viêm gan tối cấp.
- Teo gan: Một trong những dấu hiệu đặc trưng của bệnh là gan teo nhỏ từ
2-3 cm dưới bờ sườn đến không sờ thấy chỉ trong vòng 1-2 ngày cùng với tình
trạng toàn thân xấu dần.
- Đau vùng gan: Đau ở vùng hạ sườn phải là triệu chứng sớm gặp ở bệnh
nhân viêm gan tối cấp. Đôi khi đau dữ dội như trường hợp sỏi mật hoặc viêm
ruột thừa cấp. Nguyên nhân chủ yếu là do hoại tử và sự tự dung giải tổ chức gan
kèm theo tổn thương đường mật và tuyến tuỵ.
1.3) Các di chứng và hậu quả của viêm gan virus B
a) Viêm gan mạn.
Viêm gan mạn là một trong những hậu quả và di chứng của những
bệnh nhân bị mắc viêm gan virus cấp. Có một tỷ lệ nhất định các bệnh nhân
nhiễm viêm gan virus cấp chuyển thành dạng viêm gan B mãn tính. Tỷ lệ này
thay đổi một cách đáng ngạc nhiên ở những vùng khác nhau vào những thời kỳ

khác nhau, có thể dao động từ 0.15% đến 40.5%. Viêm gan mạn được chia
thành hai thể:
- Viêm gan mạn tồn tại: là hậu quả kéo dài và phổ biến nhất của viêm
gan cấp do nhiễm virus. Các nhà nghiên cứu cho rằng nguyên nhân sinh
bệnh là do virus tồn tại trong máu gây ra. Mặc dù kiểm tra giải phẫu bệnh
lý thấy những biểu hiện của viêm gan xảy ra rất rõ rệt trong tổ chức gan
nhưng lại không có triệu chứng lâm sàng rõ rệt.
o Đại đa số bệnh nhân cảm thấy khỏe mạnh. Một số người cảm
thấy mệt, làm việc chóng mệt, ăn kém ngon, cảm giác khó
chịu tức vùng hạ sườn phải. Lách không to, không có những
triệu chứng biểu hiện ngoài gan.
- Viêm gan mạn tấn công: là một thể viêm gan tiến triển theo kiểu những
giai đoạn bôc phát cấp tính xen kẽ với thời kỳ lắng dịu, thường dẫn đến
xơ gan.
b) Xơ gan sau viêm gan
Xơ gan sau viêm gan là tổn thương nặng lan tảo mãn tính của gan, đây
là hậu quả nặng nề nhất của viêm gan virus. Khi mắc xo gan sẽ hình thành
trong gan những cấu trúc: tổ chức xơ cùng những cục tái tạo có kích thước
khác nhau làm đảo lộn cấu trúc của gan.
Triệu chứng lâm sàng rõ nhất là gan to, một độ chắc, bờ rõ, sắc, có thể
đau khi khám. Người bệnh thấy yếu đuối, làm việc chóng mệt, rối loạn giấc
ngủ, người gầy sút, kém ăn, đau thượng vị, đau hạ sườn phải, chướng hơi vv
Suy gan còn được biểu lộ bằng sự xuất huyết, triệu chứng đầu tiên là
chảy máu cam. Xuất huyết xảy ra do sự rối loạn tổng hợp các yếu tố đông
máu, sự giảm tiểu cầu. Những triệu chứng thiếu sinh tố do rối loạn chuyển
hóa như: quáng gà, viêm lưỡi, viêm phổi, thiếu máu, viêm các dây thần kinh
23
ngoại vi, phù nề. triệu chứng cuối cùng của suy gan nặng là gây hôn mê ở bệnh
nhân.
c) Ung thư tế bào gan

Ung thư tế bào gan nằm trong số những bệnh ung htuw thường gặp
nhất trên thế giới và là một trong số ít ung thư của loài người liên quan về dịch
tễ với nhiễm virus. Virus viêm gan B ( HBV) đã được xác định là là tác nhân
chủ yếu trong ung thư tế bào gan. Nguy cơ phát triển ung thư an ở người mắc
bệnh viêm gan B mãn tính cao gấp hàng trăm lần so với người không nhiễm.
HBV thường được cho là không có tác dụng trực tiếp sinh ung thư
hoặc tác dụng gây bệnh trên các tế bào gan nhiễm virus. Sự chuyển dạng ung
thư xảy ra sau một thời gian bệnh viêm gan mạn kéo dài, thường kết hợp với
xơ gan Việc gan bị nhiễm virus mãn tính, chết tế bào và tiếp diễn là việc tăng
sinh của tế bào gan có thể làm tăng các yếu tố gây ung thư gan.
2) MỘT SỐ XÉT NGHIỆM TRONG VIÊM GAN VIRUS
2.1) CÁC XÉT NGHIỆM XÁC ĐỊNH TỔN THƯƠNG GAN
Xét nghiệm xác định hàm lượng Aminotranferase.
Đây là một loại eyme giúp cho quá trình vận chuyển những nhóm amin
của acid α-cetonic, tạo nên mối liên quan giữa chuyển hóa protein và gluxit.
Amiotransferase thường được dùng nhiều nhất và là chỉ thị dặc hiệu trong
việc xác định hoại tử tế bào gan. Có hai loại aminotransferase được chú ý
nhiều nhất là:
- Aspartate aminotransferase ( AST) có trong nhiều mô khác nhau:
tim, cơ vân, thận, não, gan. Trong gan, AST hiện diện ở ty thể và
phần bào tương của tế bào gan.
- Alanine aminotransferase ( ALT) có chủ yếu ở trong phần bào
tương của các tế bào gan. Ở bệnh nhân có tổn thương gan- mật
nồng độ ALT tăng cao do gia tăng rò rỉ từ trong gan vào huyết
tương.
Chuẩn đoán xác định tổn thương gan thường dựa vào mức
aminotransferase tăng cao.
Nồng độ gia tăng aminotransferas gợi ý chuẩn đoán
Tăng nhẹ Tăng vừa Tăng cao
Bệnh gan nhiễm mỡ

Viêm gan ứ mỡ không do
rượu
Viêm gan virus mãn tính
Viêm gan virus cấp
Viêm gan mãn tính
Viêm gan do rượu
Viêm gan virus cấp
Hoại tử gan do thuốc hoặc do
độc tố
Viêm gan thiếu máu cục bộ
do sốc hoặc thương tổn bảo
tồn sau ghép gan
24
2.2) XÉT NGHIỆM MIỄN DỊCH CÁC DẤU ẤN VIRUS HBV
*Kháng nguyên bề mặt của VRVGB ( HBsAg)
HBsAg là dấu ấn đầu tiên của VRVGB xuất hiện trong huyết thanh của
bệnh nhân, khoảng 2-12 tuần sau khi nhiễm vi-rút và khoảng 2-6 tuần trước khi
có triệu chứng lâm sàng. Sự hiện diện của HBsAg là bằng chứng giá trị nhất
đang nhiễm VRVGB dù có hay không có triệu chứng lâm sàng.
Trong viêm gan vi-rút B cấp HBsAg đạt đến nồng độ cao nhất tương ứng với
thời kỳ vàng da rõ trên lâm sàng rồi sau đó giảm dần. Có khoảng 5-10% trường
hợp HBsAg biến mất rất sớm trước khi có triệu chứng lâm sàng. HBsAg có thể
dương tính kéo dài từ 1-3 tháng và trở về âm tính sau khi Transaminase đã trở
về bình thường. Nhiễm VRVGB mạn tính được xác định khi HBsAg tồn tại
trên 6 tháng sau giai đoạn khởi phát của VGVRB cấp.Thăm dò bằng kỹ thuật
ELISA hay RIA có thể phát hiện được HBsAg ở nồng độ 0,1-0,5 ng/ml.
* Kháng thể kháng HBs (Anti-HBs)
Anti-HBs là kháng thể duy nhất có khả năng trung hoà. Đây là dấu ấn
huyết thanh phản ánh tình trạng VG B đã khỏi bệnh và (hay) được miễn nhiễm
đối với VRVGB. Anti-HBs tồn tại trong huyết thanh một thời gian dài. Trong

phần lớn các trường hợp, Anti-HBs bắt đầu xuất hiện khi HBsAg đã biến mất.
Thời điểm xuất hiện Anti-HBs rất thay đổi, từ 1-10 tuần, có khi đến 6 tháng sau
khi HBsAg biến mất. Phần lớn bệnh nhân sẽ có miễn dịch bảo vệ lâu dài đối với
VRVGB khi có Anti-HBs.
Sau khi tiêm chủng phòng VRVGB, Anti-HBs là dấu ấn huyết thanh duy nhất
hiện diện trong huyết thanh của người được tiêm chủng.
Anti-HBs được phát hiện bằng kỹ thuật ELISA hay RIA.
*Kháng nguyên lõi vi-rút VG B (HBcAg)
HBcAg là kháng nguyên cấu trúc nhân nucleocapsid, có thể được phát hiện
trong nhân tế bào gan bị nhiễm VRVGB nhưng không bao giờ có trong huyết
thanh. HBcAg không có đoạn peptide tín hiệu cho nên nó không dược bài tiết ra
khỏi tế bào gan.
* Kháng thể kháng HBc (Anti-HBc)
Anti-HBc là dấu ấn huyết thanh quan trọng nhất để chứng minh bệnh nhân
đã từng bị nhiễm HBV. Có 2 loại Anti HBc :
+ Anti-HBc IgM: có nồng độ cao trong huyết thanh của bệnh nhân viêm gan B
giai đoạn cấp, kéo dài trong vài tháng, sau đó nồng độ sẽ giảm dần hay biến mất
trong giai đoạn mạn tính.
+ Anti-HBc IgG: xuất hiện sau và tồn tại trong một thời gian dài ở bệnh nhân
viêm gan B mạn tính.
25

×