Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Thực trạng sinh con thứ 3 ở huyện thiệu hóa tỉnh thanh hóa năm 2009 và một số yếu tố liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.66 KB, 61 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU: 3
1.1 Chính sách dân số: 3
1.1.1 Tình hình thế giới: 3
1.1.2 Chính sách dân số ở Việt Nam 4
1.2 Một số yếu tố liên quan đến mức sinh và tình trạng sinh con thứ 3 7
1.2.1 Tập quán, quan niệm truyền thống của Việt Nam về sinh con trai,
con gái: 7
1.2.2 Yếu tố kinh tế: 9
1.2.3 Tôn giáo, tín ngưỡng 11
1.2.4 Chính sách dân số 11
1.2.5 Các yếu tố khoa học và kỹ thuật 12
1.3 Các nghiên cứu liên quan 13
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
2.1 Địa điểm nghiên cứu 15
2.2 Đối tượng nghiên cứu 15
2.3 Thiết kế nghiên cứu và phương pháp thu thập số liệu 16
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu 16
2.3.2 Cỡ mẫu và chọn mẫu 16
2.3.3 Thu thập số liệu 17
2.3.4 Các chỉ số, biến số nghiên cứu 18
2.4 Thời gian nghiên cứu 20
2.5 Xử lý và phân tích số liệu 20
2.6 Đạo đức nghiên cứu: 20
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 21
3.1 Mô tả mẫu 21
3.2 Thực trạng sinh con thứ 3 huyện Thiệu Hoá 22
3.3 Các yếu tố liên quan đến việc sinh con thứ 3 tại huyện Thiệu Hoá 23
3.3.1 Tâm lý thích con trai và yếu tố phong tục tập quán 23


3.3.2 Yếu tố kinh tế 28
3.3.3 Yếu tố chính sách dân số 30
3.3.4 Yếu tố về dịch vụ sinh con theo ý muốn 32
3.3.5 Một số yếu tố liên quan khác 33
Chương 4: BÀN LUẬN 36
4.1 Bàn luận về phương pháp nghiên cứu 36
4.2 Tình hình sinh con thứ 3 trở lên ở huyện Thiệu Hoá 37
4.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng sinh con thứ 3 trở lên 38
4.3.1 Tư tưởng trọng nam 38
4.3.2. Yếu tố kinh tế 39
4.3.3 Yếu tố chính sách dân số 41
4.3.4 Lựa chọn giới tính trước sinh 43
4.3.5 Một số yếu tố liên quan khác 45
KẾT LUẬN 46
KIẾN NGHỊ 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
BẢNG VIẾT TẮT

BPTT : Biện pháp tránh thai
CSDS : Chính sách dân số
CSSKSS : Chăm sóc sức khỏe sinh sản
KHHGĐ : Dân số kế hoạch hóa gia đình
NC : nghiên cứu
PVS : phỏng vấn sâu
SCT3 : sinh con thứ ba
SRB : Tỷ suất giới tính khi sinh
TCTK : Tổng cục thống kê
TLN : Thảo luận nhóm
UNFPA : Quỹ dân số liên hiệp quốc

LỜI CẢM ƠN
Sau khi cuốn khóa luận tốt nghiệp Bác sỹ y khoa được hoàn thành, tận
đáy lòng mình, tôi chân thành cảm ơn đến:
Các thầy, cô giáo trường Đại học Y Hà Nội, các thầy cô khoa y tế công
cộng đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình
học tập.
TS. Nguyễn Đăng Vững, người thầy đã nhiệt tình hướng dẫn cho tôi từ
xác định vấn đề nghiên cứu, xây dựng đề cương, chia sẻ thông tin và hoàn
thành khóa luận này. ThS. Nguyễn Thị Thúy Hạnh cũng đã tận tình chỉ bảo,
đóng góp nhiều ý tưởng nghiên cứu cho tôi.
Các bác, cô, chú đang công tác tại Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh
Thanh Hóa, Trung tâm Dân số - KHHGĐ huyện Thiệu Hóa, đặc biệt là cô
Minh, cộng tác viên y tế xã Thiệu Đô đã giúp đỡ tôi khi xuống tiến hành điều
tra thu thập số liệu tại địa bàn.
Tập thể nhân dân xã Thiệu Đô đã nhiệt tình tham gia vào nghiên cứu.
Các anh em, bạn bè đã khuyến khích tôi trên con đường học tập 6 năm
qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới bố mẹ tôi, những người đã đã
phải chịu nhiều hy sinh, vất vả và là nguồn động viên cho tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu này.

Nguyễn Thị Xuân Tịnh

Cộng hòa Xã hôi Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
LỜI CAM ĐOAN

Kính gửi :
- Ban giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội.
- Phòng đào tạo đại học trường Đại học Y Hà Nội.

- Khoa Y tế công cộng trường Đại học Y Hà Nội.
- Hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp.
Tôi là sinh viên Nguyễn Thị Xuân Tịnh, lớp Y6B trường Đại học Y Hà
Nội. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, cách
xử lý, phân tích số liệu là hoàn toàn trung thực, khách quan. Các kết quả
nghiên cứu này chưa được công bố trên bất kỳ tài liệu nào.

Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2010
Tác giả khóa luận


Nguyễn Thị Xuân Tịnh


1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA) cho biết, dân số thế giới đang
tăng 78 triệu người/năm [14], kéo theo những hậu quả nặng nề về bệnh tật,
nghèo đói và thảm hoạ môi trường. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc, tổng
dân số thế giới sẽ tăng từ 6,7 tỷ người hiện nay lên 9,2 tỷ người vào năm 2050
[14]. Con số đó nêu lên một thách thức khó khăn cho tất cả các chính phủ của
tất cả các quốc gia. Nằm trong các biện pháp nhằm ổn định dân số, chính sách
dân số được coi là công cụ quan trọng của nhà nước để đạt được kết quả trong
quản lý dân số và thực hiện chính sách kinh tế - xã hội.
Là một thành viên của mái nhà liên hợp quốc, Việt Nam đóng góp
86.024.600 dân vào cộng đồng thế giới ( TCTK-2009) [10]. Với con số này
Việt Nam hiện đang đứng thứ 3 Đông Nam Á, và đứng thứ 13 thế giới [9]
trong danh sách những quốc gia có số dân đông nhất thế giới. Với quy mô dân
số không nhỏ ấy, nhà nước ta đã tự nhận thấy những thuận lợi, khó khăn, vai

trò và nghĩa vụ của mình trong công cuộc ổn định dân số quốc gia. Vì vậy,
ngay từ những năm đất nước vừa được giải phóng khỏi thực dân Pháp-1960,
chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình đã được triển khai ở miền Bắc
(miền Nam chưa được giải phóng) với những chính sách thiết thực nhằm
hướng tới quy mô gia đình 3 con. Sau đó, nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban
chấp hành Trung Ương Đảng đã nêu ra mục tiêu mỗi gia đình chỉ có một hoặc
hai con. Từ đó đến nay, quy mô gia đình ít con cùng với những chính sách hỗ
trợ của chính phủ ngày càng được đẩy mạnh và phát triển trên phạm vi toàn
quốc. Cuộc vận động “dừng lại ở 2 con để nuôi dạy cho tốt” đã thực sự lan
rộng và được đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng. Tỉ lệ sinh giảm từ
43,9%0 năm 1960 xuống còn 21,9%0 năm 1997, mức sinh giảm trung bình
hàng năm 1%0 [1].

2
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tỉ lệ sinh con thứ 3 đang có chiều
hướng gia tăng. Theo Tổng cục Dân số, tình trạng sinh con thứ 3 và mất cân
bằng giới tính khi sinh đang xảy ra khá nghiêm trọng tại nhiều địa phương.
45/63 tỉnh, thành có số con thứ 3 trở lên tăng cao, trong đó tỉnh Cà Mau dẫn
đầu với tốc độ tăng 100%, Trà Vinh 97%, Bạc Liêu 87% [17]. Tình trạng này
có nguy cơ phá vỡ những thành quả mà nước ta đã đạt được trong những năm
qua.
Thanh Hóa là một tỉnh nằm ở bắc trung bộ, có diện tích tự nhiên 11.120
km2, dân số 3,49 triệu người. Tình trạng sinh con thứ 3 trở lên còn ở mức cao
13,27% [8]. Xu hướng tăng không những ở khu vực nông thôn mà còn ở
những khu vực không truyền thống như thành phố và các cán bộ Đảng viên.
Vậy thực trạng hiện nay tại tỉnh là như thế nào? Nguyên nhân nào gây ra thực
trạng này? Làm sao để công tác dân số tại tỉnh đạt hiệu quả cao, góp phần vào
việc ổn định dân số, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân?
Đi tìm câu trả lời cho những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu tại huyện Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa với đề tài: “Thực trạng sinh con

thứ 3 ở huyện Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa năm 2009 và một số yếu tố liên
quan”.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU :
1. Mô tả thực trạng sinh con thứ 3 ở huyện Thiệu Hóa năm 2009.
2.Thăm dò một số yếu tố liên quan tới tình trạng sinh con thứ 3 tại
huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.






3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 Chính sách dân số
1.1.1 Tình hình thế giới
Loài người xuất hiện muộn cách đây chừng 2 triệu năm. Những con
người đầu tập trung chủ yếu ở châu Phi, ước khoảng 100.000 người. Đến thời
đại đồ đá mới dân số thế giới áng chừng 5 triệu người. Trong nhiều năm qua,
loài người đã trải qua nhiều chế độ tái sản xuất dân số với đặc trưng “tỷ lệ
sinh cao, tỷ lệ chết cũng cao”, nên dân số nhìn chung tăng chậm. Và đến năm
1850, dân số thế giới mới đạt 1,26 tỷ người. Từ thế kỷ XIX, dân số thế giới
luôn tăng với tốc độ chóng mặt. So sánh khoảng thời gian để dân số thế giới
tăng gấp đôi qua các thời kỳ ta thấy: năm 1850 dân số thế giới đạt 1,26 tỷ
người, và sau 100 năm (1950) lên đến 2,51 tỷ người, đến năm 1990 dân số đã
là 5,3 tỷ người trong vòng chỉ 40 năm, và 10 năm sau - năm 2000 dân số thế
giới đã tăng thêm 1 tỷ người nữa tức là 6 tỷ người [1].
Khi hiện tượng bùng nổ dân số bắt đầu xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ

20, các tác hại của nó bắt đầu rõ rệt và ngày càng sâu rộng, cũng là lúc các
quốc gia họp bàn nhau lại để tìm giải pháp cho vấn đề này. Có thể kể đến 3
cuộc hội nghị toàn cầu về vấn đề dân số: Hội nghị năm 1974 tại Bucharest,
Hội nghị năm 1984 tại Mexico và Hội nghị Cairo năm 1994 [26]. Các hội
nghị đã đưa ra công ước quốc tế về vấn đề dân số và kiểm soát dân số. Thông
qua các hội nghị này, chính phủ của các quốc gia trên thế giới đã thấy được
tầm quan trọng của vấn đề và vai trò của mình trong vấn đề kiểm soát dân số.
Qua đó, chính phủ của tất cả các quốc gia đã xây dựng và thực thi chính sách
dân số nhằm nỗ lực kiểm soát tình trạng dân số nước mình [11].

4
Là một trong 3 đích tác động của chính sách dân số, chính sách dân số
trong lĩnh vực sinh sản đang trở thành tâm điểm hành động của các chính phủ.
Trong khi nhiều nước phát triển có chính sách khuyến khích tăng dân số thì ở
các nước đang phát triển, nhiều nước lại phải thực hiện chính sách chống tăng
dân số - chính sách giảm sinh [1].
Chính sách về điều tiết số lần sinh mạnh mẽ nhất có thể kể đến Trung
Quốc. Chính phủ nước này đã ban hành chính sách một con từ năm 1978, với
quy định mỗi cặp vợ chồng chỉ được sinh một con và xử phạt rất nặng những
cặp vi phạm chính sách này [20].
1.1.2 Chính sách dân số ở Việt nam
Sau khi miền Bắc dành độc lập, nền kinh tế nước ta ở trong tình trạng
nghèo nàn và lạc hậu. Tốc độ phát triển dân số ở mức rất cao. Theo TCTK,
dân số nước ta năm 1960 là 30.172.000 người, tốc độ phát triển dân số 3,39%
[1]. Đứng trước thực trạng đó, việc xây dựng và thi hành chính sách dân số là
vấn đề sống còn đối với quốc gia.
Theo thời gian và dựa vào đặc điểm lịch sử của nước ta có thể chia quá
trình hình thành và phát triển chính sách dân số nước ta theo 3 thời kỳ:
Thời kỳ từ năm 1961-1975
Thời kỳ này đất nước tạm bị chia cắt thành 2 miền, chương trình kế

hoạch hóa gia đình mới chỉ triển khai ở miền Bắc với hình thức là cuộc vận
động sinh đẻ có hướng dẫn, trên cơ sở các quyết định của chính phủ. Mục tiêu
cuộc vận động và hướng tới quy mô gia đình 3 con, đối tượng vận động chủ
yếu là phụ nữ trong tuổi sinh đẻ, trước hết là nữ công nhân viên chức nhà
nước, trong các lực lượng vũ trang.
Kết quả là tỷ suất sinh thô ở miền Bắc đã giảm từ 43,9%0 xuống còn
33,2%0 bình quân mỗi năm giảm được 0,71%0. Tổng tỷ suất sinh giảm từ 6,39
con năm 1960 xuống còn 5,25 con năm 1975 [1].

5
Thời kỳ 1975-1984
Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình được triển khai trong phạm vi
cả nước, với mục tiêu được xác định cụ thể tại Đại hội Đảng lần thứ IV (năm
1976) là đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết
giảm dần tốc độ tăng dân số hàng năm.
Kết quả thực hiện mục tiêu của thời kỳ này tuy có tiến bộ hơn thời kỳ
trước nhưng còn rất hạn chế. Tỷ suất sinh giảm từ 33,2%0( năm 1975) xuống
còn 30,8%0. Số con trung bình của mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ
5,25 con năm 1975 xuống còn 3,85 con năm 1984 [1].
Thời kỳ 1984-2000
Thời kỳ này, đặc biệt từ năm 1993 đến nay, công tác dân số và kế
hoạch hóa gia đình có bước phát triển mạnh mẽ, với quyết tâm rất cao của
chính phủ được thể hiện ở những đổi mới cả về nội dung, cách làm, kinh phí
và tổ chức bộ máy thực hiện.
Tại Đại Hội Đảng lần thứ VII năm 1980 đẫ nhấn mạnh rằng: “giảm tốc
độ tăng dân số là một quốc sách, phải trở thành cuộc vận động rộng lớn, sâu
sắc trong toàn dân”. Trong khoảng thời gian 5 năm(1991-1996) công tác dân
số và kế hoạch hóa gia đình đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Từ những kết quả
đạt được của chương trình, Đại Hội đã đề ra mục tiêu: “tạo chuyển biến nhanh
trong trong việc thực hiện chiến lược dân số cả về quy mô, cơ cấu. Sự phân

bố, tập trung trước hết vào mục tiêu mỗi cặp vợ chồng không có quá 2 con và
được nuôi dạy tốt, giảm nhanh tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên [1].
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
chính sách, pháp luật về dân số nhằm điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số. Bao
gồm quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số, phân bố dân cư và đảm bảo cơ sở
pháp lý vững chắc để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ
4-NQ/HNTW, ngày 14/01/1993 của ban chấp hành Trung ương Đảng khóa

6
VII về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình và thực hiện thắng lợi
Chiến lược dân số Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hóa đất nước [21].
Các văn bản chính sách dân số hiện hành
* Căn cứ vào Hiến Pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung, ngày
9/1/2003 Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội đã ban hành Pháp Lệnh Dân Số. Pháp
lệnh này có 7 chương với 40 điều quy định về dân số. Trong đó tại chương II-
mục 1 là quy định về quy mô dân số. Mục này có 5 điều, từ điều 8 đến điều
12 quy định các vấn đề về điều chỉnh quy mô dân số quốc gia. Trong đó điều
10 quy định về Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc
thực hiện kế hoạch hoá gia đình:
1. Mỗi cặpvợ chồng có quyền:
Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần
sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động,
công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình
đẳng.
Lựa chọn, sử dụng các biện pháp kế hoạch hoá gia đình.
2. Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có nghĩa vụ:
a) Sử dụng các biện pháp tránh thai
b) Bảo vệ sức khoẻ và thực hiện các biện pháp phòng, tránh các bệnh
nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục,

HIV/AIDS
c) ) Thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến chăm sóc sức khoẻ sinh
sản, kế hoạch hoá gia đình [1].
* Ngày 27/12/2008, Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội đã công bố Pháp
lệnh sửa đổi điều 10 của Pháp lệnh dân số 2003. Pháp lệnh sửa đổi Điều 10
được sửa đổi như sau:Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân

7
trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hoá gia đình, chăm
sóc sức khoẻ sinh sản.
1.Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con.
1.1Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy
định.
Bảo vệ sức khoẻ, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm
khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và
thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khoẻ sinh sản [18].
Đây là những văn bản pháp quy cao nhất, là nền tảng cho công tác dân
số trên toàn quốc
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh và tình trạng sinh con thứ 3
1.2.1. Tập quán, quan niệm truyền thống của Việt Nam về sinh con trai,
con gái.
Đặc điểm nổi bật của gia đình truyền thống là hình thành trong nền sản
xuất nông nghiệp lúa nước, nên định cư theo quan hệ bà con máu mủ và gắn
với tộc họ, với làng xã. Sự hình thành cấu trúc và chức năng của gia đình
truyền thống Việt Nam không những chịu ảnh hưởng của nhiều hệ tư tưởng
như Nho giáo, Lão giáo mà nó còn là kết quả của văn hóa làng xã. Điều này
tạo bản sắc văn hóa riêng của gia đình Việt Nam.
Các gia đình Việt Nam liên kết với nhau theo họ nội và rất trọng việc
thờ cúng tổ tiên. Trong gia đình tồn tại một hệ thống các quy tắc đạo đức, bổn
phận, cách ứng xử. Gia đình truyền thống được bảo vệ bằng luân lý, phong

tục và pháp luật. Cái cần bảo vệ là trật tự trên dưới. Người trên có quyền yêu
cầu người dưới làm đúng bổn phận của mình nhưng người dưới không có
quyền đòi hỏi điều này.

8
Nét đặc trưng trong gia đình truyền thống vẵn là trọng nam khinh nữ.
Trong gia đình nam giới là người giữ vai trò quyết định, con trai là người
được thừa hưởng tài sản và chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên [13].
Hệ thống thân tộc Việt nam được xây dựng trên cơ sở của một mô hình
trọng nam, gọi là họ, dòng họ hay gia tộc. Thành viên trong họ tin rằng mình
được sinh ra từ một tổ tiên chung, người mà họ có bổn phận thờ cúng và tin
tưởng sẽ được tổ tiên ban phúc và che chở. Một dòng họ thông thường bao
gồm nhiều chi họ, trong đó người trưởng họ (là 1 nam giới) thờ ông tổ chung
của dòng họ, còn các trưởng chi có trách nhiệm thờ các vị tổ tứ đại trở xuống
[6].
Trong “Việt Nam hóa sử cương”, tác giả Đào Duy Anh đã xem xét ảnh
hưởng của đạo khổng trong xã hội Việt Nam. Theo ông các giá trị đạo đức
của đạo Khổng đã ăn sâu bén rễ trong xã hội Việt Nam trong nhiều thế kỷ, và
được hệ thống pháp lý của nhà nước hỗ trợ. Kinh Lễ, chẳng hạn, cho phép
người chồng bỏ vợ nếu họ phạm một trong 7 điều răn, trong đó không có con
là lý do đầu tiên. Luật nhà nước từ triều Lê đến triều Nguyễn (thế kỷ 15-19)
đều đã vận dụng các nguyên lý của đạo đức nho giáo vào quản lý nhà nước và
gia đình. Trong gia đình, quyền lực tuyệt đối của người cha được pháp luật
ủng hộ. Khổng giáo cũng nhấn mạnh sự phân biệt về những thân phận khác
nhau giữa con trai và con gái. Thờ cúng tổ tiên và sự tiếp nối dòng tộc là
những động cơ quan trọng nhất trong việc theo đuổi để có con trai. Đạo đức
Khổng giáo xem việc không có con nối dõi như một tội nặng với tổ tiên và là
biểu hiện của sự bất hiếu với cha mẹ. Trong khi, các đạo luật xưa lại rất coi
trọng chữ hiếu. Hiếu được xem như là nền tảng cơ bản của quan hệ cha mẹ -
con cái. Trong luật Gia Long khép những người không có con vào tội bất kính

với cha mẹ. Chính vì vậy, phụ nữ khi sinh con ai cũng muốn mình có ít nhất
một con trai [2].

9
Có thể nói đạo Khổng đã tạo ra một nền tảng tư tưởng sâu sắc về quan
điểm trọng nam trong xã hội Việt Nam, và ảnh hưởng của nó trong xã hội
hiện đại cũng không hề nhỏ.
Quy luật dừng
Xuất phát từ tư tưởng trọng nam, xã hội Việt Nam đã tồn tại một quy
luật truyền thống rất phổ biến được gọi là “ quy luật dừng”. Khi chưa có
chính sách dân số về quy mô gia đình ít con và chưa có các kỹ thuật lựa chọn
giới tính hiệu quả thì quy luật dừng tỏ ra có hiệu quả trong việc sinh bằng
được con trai. Các cặp vợ chồng sẽ sinh thêm con nếu những đứa con trước
của họ là con gái, và họ sẽ chỉ dừng lại, không sinh thêm con nếu họ sinh
được con trai ở lần sinh cuối cùng. Điều này được thấy rõ khi mức sinh của
Việt Nam cao, với tổng tỷ suất sinh xấp xỉ 6 con, tỷ lệ phụ nữ không có con
trai là rất thấp, chỉ giới hạn khoảng 1,5% bất kể tỷ lệ tử vong trẻ em [7].
Trong xã hội Việt Nam hiện tại, khi chính sách về quy mô gia đình chỉ
được có từ một đến hai con, kết hợp với tính hiệu quả của các biện pháp chọn
lọc giới tính trước sinh, thì quy luật dừng vẫn tỏ ra có hiệu quả khi các cặp vợ
chồng quyết định sinh thêm đứa con thứ 3 và thậm chí còn hơn nữa.
1.2.2 Yếu tố kinh tế
Nhóm yếu tố này rất đa dạng và tác động theo nhiều hướng khác nhau.
Có nhiều quan điểm khác nhau về ảnh hưởng của nó tới biến động mức sinh.
Theo quan điểm của đa số các nhà nhân khẩu học và bằng thực tế người ta đã
chứng minh được rằng, đời sống thấp thì mức sinh đẻ cao và ngược lại. Ảnh
hưởng của trình độ phát triển kinh tế, mức sống tới mức sinh đã là đối tượng
nghiên cứu của nhiều người. Theo Adam Smith “nghèo đói tạo khả năng cho
sự sinh đẻ”. Còn theo C.Mác, sau khi đã nghiên cứu mối quan hệ giữa thu
nhập và sinh đẻ đã rút ra kết luận rằng, dưới chủ nghĩa tư bản, số sinh tỷ lệ

nghịch với quy mô của cải mà người công nhân có. Sau này nhiều nhà khoa

10
học cũng nghiên cứu về mối quan hệ này và cho rằng quy luật về sự phụ
thuộc nghịch giữa mức sống và sinh đẻ mà C. Mác đã nêu ra cũng đúng dưới
cả chủ nghĩa xã hội và mối quan hệ giữa trình độ phát triển kinh tế, mức sống
và mức sinh trong các thời kỳ có khác nhau. Có thể là thuận hoặc nghịch.
Mối quan hệ thuận giữa tình trạng kinh tế gia đình và mức sinh
Khi mức sống còn rất thấp, thu thập không đảm bảo những nhu cầu tối
thiểu thì mối quan hệ đó là phụ thuộc thuận. Hoặc khi đời sống đạt đến mức
rất cao, có thể thể thỏa mãn đầy đủ mọi nhu cầu cuộc sống thì mối quan hệ đó
có thể là thuận. Tuy nhiên chỉ giới hạn ở mức độ nhất định.
Mối quan hệ ngược giữa tình trạng kinh tế gia đình và mức sinh
Khi đời sống đã nâng cao đến mức độ nhất định nhưng chưa thỏa mãn
đầy đủ mọi nhu cầu cuộc sống thì mối quan hệ đó lại là nghịch.
Sự tham gia hoạt động kinh tế của người vợ
Lý thuyết kinh tế về mức sinh quan tâm nhiều đến mâu thuẫn có thể tồn
tại giữa vai trò làm mẹ và vai trò làm việc của một phụ nữ. Trong tình trạng
người phụ nữ có cơ hội làm việc, khi công việc đó không cho phép nuôi con
đồng thời thì cặp vợ chồng thường chọn có ít con hơn. Ở các nước phát triển
mối quan hệ nghịch giữa công việc phụ nữ và mức sinh rõ ràng hơn ở các
nước đang phát triển.
Mối quan hệ giữa mức sinh và sự tham gia hoạt động kinh tế của người
phụ nữ cũng có thể nghịch hoặc thuận. Để giải thích tại sao quan hệ này
không nghịch, một số nhà nghiên cứu giả thiết rằng chỉ trong trường hợp công
việc phụ nữ không thuận lợi với làm mẹ thì mới có quan hệ nghịch, còn
ngược lại nếu phù hợp thì vẫn có thể không nghịch: người phụ nữ tham gia
vào lực lượng lao động lại có nhiều con hơn những người không tham gia. Ví
dụ, khi làm ruộng có thể sinh con đồng thời, những khi làm trong nhà 7 tiếng


11
trong 1 ngày, 6 ngày 1 tuần thì công việc và trách nhiệm làm mẹ không phù
hợp.
Quan điểm khác giả thiết rằng, trong các nước đang phát triển,đơn vị
gia đình thường là gia đình mở rộng có cả ông bà ở nhà. Khi mẹ đi làm đã có
người ở nhà chăm sóc con thì mâu thuẫn không mạnh lắm. Cũng có quan
điểm cho rằng, trong nước đang phát triển nhiều phụ nữ nghèo không có sự
lựa chọn làm việc hoặc không làm việc vì họ quá nghèo khó, bắt buộc họ phải
đi làm để sống sót được [13].
1.2.3 Tôn giáo, tín ngưỡng
Tôn giáo tín ngưỡng chắc chắn là nhân tố có ảnh hưởng đáng kể tới
mức sinh. Theo thống kê trên thế giới, người theo đạo Thiên Chúa thường có
mức sinh cao hơn so với những người Do Thái hay đạo Tin Lành và hầu hết
các nghiên cứu đều cho thấy người theo đạo Hồi thường có mức sinh cao hơn
so với những người không ở đạo Hồi. Tuy nhiên sự tác động của tôn giáo, tín
ngưỡng ở các nước khác nhau, các vùng khác nhau, qua các giai đoạn khác
nhau là không giống nhau bởi nó chịu sự tác động của các yếu tố khác như
trình độ văn hóa, giáo dục, đặc biệt là khi địa vị của người phụ nữ trong xã
hội được cải thiện nhiều [1].
1.2.4 Chính sách dân số
Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết quá trình vận
động và phát triển dân số cho phù hợp với nhu cầu và khả năng phát triển của
đất nước trong mỗi thời kỳ. Nhà nước quản lý quá trình vận động này thông
qua chính sách dân số.
Chính sách dân số hiểu theo nghĩa rộng là, đó là toàn bộ chủ trương,
biện pháp của nhà nước điều tiết quá trình phát triển dân số. Nó bao gồm các
biện pháp tuyên truyền , giáo dục, biện pháp kinh tế, hành chính và những
biện pháp về kỹ thuật chuyên môn.

12

Ở nhiều nước, chính sách dân số đã phát huy tác dụng to lớn của nó
trong việc điều tiết các quá trình vận động dân số theo hướng cần thiết. Ở
nước ta, nhờ chính sách dân số, trong những năm gần đây tốc độ tăng dân số
đã giảm đáng kể. Chẳng hạn các chương trình kế hoạch hóa gia đình, khuyến
khích sử dụng các biện pháp tránh thai, cho phép nạo phá thai, quy định tuổi
kết hôn và các chính sách khác có ảnh hưởng trực tiếp tới mức sinh. Ngoài ra
chính sách cũng tác động gián tiếp tới mức sinh chẳng hạn: chính sách cung
cấp đất hoặc nhà ở cho những gia đình có ảnh hưởng tới tuổi kết hôn và số
con đẻ ra. Chính sách giảm học phí cấp 2, chính sách cung cấp cơ hội việc
làm, chính sách cấp điện cho các địa phương xa giúp họ tìm hoạt động văn
hóa phong phú hơn, chính sách nâng cao hiểu biết sức khỏe, biện pháp tránh
thai, cải thiện lối sống [1].
1.2.5 Các yếu tố khoa học và kỹ thuật
Trình độ phát triển xã hội càng cao, đặc biệt những thành tựu về y học,
càng tạo điều kiện cho loài người chủ động điều tiết mức sinh. Tùy thuộc vào
điều kiện cụ thể của từng nước trong từng thời kỳ hoặc là khuyến khích hay
hạn chế sinh, nhà nước áp dụng các biện pháp kỹ thuật khác nhau.
Yếu tố khoa học kỹ thuật có tác dụng rất lớn trong việc cải thiện khả
năng sinh sản:
Đối với các gia đình và những cặp vợ chồng không có khả năng sinh
đẻ, nhờ có khoa học kỹ thuật mà y học có thể khắc phục vô sinh. Bằng kỹ
thuật chuyên môn của y học, nhiều cặp vợ chồng từ vô sinh trở nên sinh đẻ
được. Chữa bằng biện pháp thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm, các
cặp vợ chồng không có khả năng sinh con đã có con, tạo điều kiện cho gia
đình hạnh phúc.
Mặt khác, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y học,
đặc biệt là các phương tiện chẩn đoán một cách chính xác giới tính thai nhi là

13
siêu âm, chọc màng ối. Sự phát triển của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh

sản, sự phổ biến, tính dễ tiếp cận của các thủ thuật sản khoa như nạo phá thai
đã “tiếp tay” cho các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi của người dân. Và do
đó đây có thể là một phương tiện có ích cho các bà mẹ muốn sinh thêm con
với giới tính mà mình mong muốn [27].
Yếu tố kỹ thuật có tác dụng trong việc kế hoạch hóa gia đình
Cũng bằng biện pháp kỹ thuật chuyên môn (triệt sản, đặt vòng, tiêm
thuốc tránh thai, bao cao su…) đã giúp các cặp vợ chồng sinh đẻ có kế hoạch
(sinh muộn, sinh ít, giãn khoảng cách sinh, thôi sinh đẻ…) thực hiện việc sinh
đẻ theo ý muốn.
Ngày nay nhờ có yếu tố kỹ thuật đã điều tiết trực tiếp mức sinh làm cho
loài người chủ động sinh đẻ theo ý muốn [1].
1.3 Các nghiên cứu liên quan
Nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng tới mức sinh, một nghiên cứu đã
được tiến hành năm 2008 tại Hà Nội “Nghiên cứu các yếu tố liên quan đến
việc quyết định sinh con thứ 3 trở lên của các cặp vợ chồng” (Viện nghiên
cứu dân số và phát triển năm 2009) [4]. Nghiên cứu sử dụng phương pháp
định tính. Theo nghiên cứu này, giới tính các lần sinh và yếu tố phong tục tập
quán có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định sinh con thứ 3 của các cặp vợ
chồng. Quan điểm phải có con trai để nối dõi tông đường và phụng dưỡng về
già còn rất nặng nề trong cuộc sống của người dân. Yếu tố kinh tế cũng có
phần ảnh hưởng tới quyết định này, khi kinh tế gia đình khá giả, họ cảm thấy
đủ điều kiện để sinh thêm con khi họ chưa có con trai. Thêm vào đó, yếu tố
thông tin và dịch vụ sinh con theo ý muốn đã khiến cho người dân có thêm
“niềm tin” đứa thứ 3 sẽ là con trai. Ngoài ra, hầu hết các đối tượng nghiên cứu
đều nhận thức đúng về chính sách dân số của nhà nước nhưng họ vẫn vi
phạm, người dân sẵn sàng nộp phạt để sinh thêm con [4].

14
Nghiên cứu về giá trị của con trai trong các gia đình ở nông thôn, bài
viết “ cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của người Việt”

(Nguyễn Văn Chinh-Tạp chí xã hội học số 3 và 4, 1999), nghiên cứu được
tiến hành tại làng Giao – tỉnh Hải Dương năm 1995 [3]. Kết quả khảo sát cho
thấy hầu hết các hộ gia đình có ba thế hệ cùng chung sống là các hộ của người
con trai trưởng. Người con trai cả thường được giữ ở lại với cha mẹ, được
thừa hưởng nhà cửa và kế tục bổn phận thờ cúng gia tiên. Những người con
trai trong gia đình chỉ có một con trai thường được chiều chuộng một cách
đặc biệt, ít khi bị bố mẹ bắt làm việc nặng nhọc cho đến khi trưởng thành.
Không có cơ sở để kết luận sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái nhưng
cha mẹ kỳ vọng vào con trai. Vì vậy sự hướng nghiệp cho con trai được thể
hiện tương đối rõ ràng. Nguyên tắc cư trú bên nhà chồng sau khi kết hôn đã
đặt người con gái ở vị trí “người ngoài”. Đặc biệt từ khi lấy chồng người con
gái không còn vai trò quyết định ở nhà bố mẹ nữa, mặc dầu họ vẫn giữ mối
quan hệ thường xuyên và làm bổn phận làm con đối với cha mẹ [3].








15
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại huyện Thiệu Hóa của tỉnh Thanh Hóa.
Thanh Hóa là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có diện tích tự
nhiên 11.120 km2, có 27 huyện, thị xã, thành phố với 636 xã phường, thị trấn.
Dân số năm 2008 là 3.498.403 người, mật độ dân số 305 người/km2.
Tỷ suất sinh thô là 14,4%0. Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên là 13,97% [9].

Về kinh tế - xã hội: GDP 519 USD/người/năm. Cơ cấu kinh tế: nông
nghiệp chiếm 29,93%, công nghiệp chiếm 36,03%, dịch vụ chiếm 34,02%.
Thiệu Hóa là một huyện nằm ở trung tâm các huyện đồng bằng của
tỉnh Thanh Hóa. Diện tích đất 17.547,52 ha. Huyện có 30 xã và 1 thị trấn. Số
dân 192.153 người. Tốc độ phát triển kinh tế năm 2008 là 11,2%.
Công tác DS-KHHGĐ: Trung tâm dân số huyện có 4 người, trong đó
có 3 người có trình độ đại học và 1 người có trình độ trung cấp. Huyện có 31
cán bộ chuyên trách dân số, và 456 cộng tác viên dân số.
Biến động dân số năm 2008: Tỷ lệ tăng dân số: 0,6%. Tỷ suất sinh thô:
11,12%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên: 10,85%. Tỷ lệ vợ chồng sử dụng BPTT
83,86%, trong đó BPTT hiện đại là 81,50%. Chưa có trạm y tế nào được giao
thực hiện dịch vụ KHHGĐ mà chủ yếu là do khoa chăm sóc sức khỏe sinh
sản-KHHGĐ của trung tâm y tế thực hiện tại các xã dẫn đến tính thường
xuyên chưa cao.
2.2 Đối tượng nghiên cứu
* Thảo luận nhóm
- Những người đàn ông đã có vợ xã Thiệu Đô.
- Những phụ nữ đã có chồng xã Thiệu Đô.

16
- Những cán bộ xã Thiệu Đô.
Chọn những nhóm đối tượng này giúp cho việc thu thập thông tin được
đa dạng, qua đó có thể tìm hiểu những yếu tố liên quan tới tình trạng sinh con
thứ 3 dưới nhiều góc độ.
* Phỏng vấn sâu
- Những bà mẹ, ông bố, ông bà trong gia đình có 3 con trở lên.
Phỏng vấn sâu những đối tượng này giúp cho việc tìm hiểu lý do sinh
con thứ 3 trở lên của người phụ nữ một cách cụ thể, khách quan, thu thập
thông tin qua nhiều khía cạnh.
* Số liệu về tình hình sinh con thứ 3 trở lên, tình hình biến động dân số

ở huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa tại Trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện
Thiệu Hóa, Chi Cục Dân số-KHHGĐ tỉnh Thanh Hóa.
2.3 Thiết kế nghiên cứu và phương pháp thu thập số liệu
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Thu thập số liệu sẵn có và sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính
bao gồm phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.
2.3.2 Cỡ mẫu và chọn mẫu
* Thảo luận nhóm
Cỡ mẫu: tiến hành 3 cuộc thảo luận nhóm: (1) nhóm cán bộ xã: 5
người, (2) Nhóm những người đàn ông có vợ :7 người và (3) Nhóm những
người phụ nữ có chồng: 10 người.
Chọn các đối tượng có chủ đích cho thảo luận nhóm.
Tiêu chuẩn chọn:
- Những người nằm trong độ tuổi từ 18 – 60.
- Có đủ tư cách pháp nhân.
- Có mặt ở thời điểm nghiên cứu.

17
* Phỏng vấn sâu
Cỡ mẫu: 9 người
- Phỏng vấn 6 phụ nữ sinh 3 con trở lên, 1 người chồng, 1 ông, 1 bà
trong gia đình sinh 3 con trở lên.
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Các bà mẹ, ông bố, ông bà trong gia đình có trẻ sinh ra là con thứ 3 trở
lên.
* Các đối tượng nghiên cứu được chọn thông qua một cán bộ chuyên
trách dân số của xã Thiệu Đô, huyện Thiệu Hóa theo những tiêu chuẩn đã
được đưa ra ở trên. Đây là người hiểu rõ về tình hình địa phương và quen
thuộc với các đối tượng nghiên cứu.

2.3.3 Thu thập số liệu:
* Thu thập số liệu sẵn có tại trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện Thiệu
Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
* Tiến hành 3 cuộc thảo luận nhóm tập trung. Hướng dẫn thảo luận
được thiết kế sẵn để đưa ra thảo luận. Mỗi cuộc thảo luận kéo dài từ 1-1,5
tiếng. Người hướng dẫn thảo luận nhóm là các thành viên trong nhóm nghiên
cứu. Trong đó, hướng dẫn thảo luận cho nhóm nữ là 1 nữ giới, hướng dẫn
thảo luận cho nhóm nam là 1 nam giới, nhóm cán bộ xã do 1 tiến sỹ y khoa và
là nam giới hướng dẫn thảo luận.
2 chủ đề chính được đưa ra thảo luận là: tình hình sinh con thứ 3 ở địa
phương và các yếu tố liên quan đến tình trạng này.
Các câu hỏi được đưa ra để hướng dẫn thảo luận dưới dạng mở, với
mong muốn thu được những quan điểm cá nhân của các đối tượng nghiên
cứu. Chẳng hạn:Anh (chị) cho biết tình hình sinh con thứ 3 tại địa phương
hiện tại ra sao? Hay theo anh (chị), những yếu tố nào dẫn đến việc các cặp vợ
chồng ở đây sinh con thứ 3?

18
* 9 cuộc phỏng vấn sâu tại nhà của các đối tương nghiên cứu đã được
tiến hành. Đây là những cuộc phỏng vấn bán cấu trúc. Mỗi cuộc phỏng vấn
kéo dài từ 30 đến 45 phút. Người phỏng vấn là 2 thành viên trong nhóm
nghiên cứu gồm 1 nam và 1 nữ, tiến hành phỏng vấn đồng thời từng đối tượng
nghiên cứu.
2 chủ đề phỏng vấn tương tự như trong thảo luận nhóm.
Câu hỏi phỏng vấn được sắp xếp và thay đổi tùy theo hoàn cảnh của
từng đối tượng nghiên cứu nhằm thu được những lý do cụ thể dẫn đến hành vi
sinh con thứ 3 của họ.
2.3.4 Các chỉ số, biến số nghiên cứu:
Bảng 2.1 Các chỉ số, biến số nghiên cứu
Mục tiêu

NC
Biến số/chỉ số
Phương pháp
NC, công cụ NC
Thực trạng
sinh con
thứ 3
Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên Thu thập số liệu
có sẵn
Tỉ lệ trẻ sinh ra là con thứ 3 trở lên có bố
mẹ là Đảng viên
Kết quả thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu về
tình hình Sct3
Thảo luận nhóm
phỏng vấn sâu
Các yếu tố
ảnh hưởng

tưởng
trọng
nam
Tư tưởng trọng nam- phải có con
trai để nối dõi tông đường
Thảo luận nhóm
Và phỏng vấn sâu


Áp lực gia đình nhà chồng
Áp lực xã hội
Tâm lý muốn có con trai để chăm

sóc khi về già
Sinh con thứ 3 để được con trai-
dịch vụ sinh con theo ý muốn

19
Mục tiêu
NC
Biến số/chỉ số
Phương pháp
NC, công cụ NC
kinh tế

Tình hình kinh tế địa phương Thảo luận nhóm
Kinh tế gia đình có ảnh hưởng tới
tình trạng SCT3
CSDS Nhận thức của người dân về chính
sách dân số
Thảo luận nhóm



Do chính sách dân số bất cập, có
kẽ hở
Quản lý, xử phạt những đối tượng
SCT3 trở lên
yếu tố
khoa
học và
kỹ
thuật

Tình hình sử dụng các BPTT của
phụ nữ
Thảo luận nhóm,
phỏng vấn sâu
Yếu tố thất bại khi sử dụng các
BPTT
phụ nữ siêu âm thai và biết giới
tính thai nhi
Nạo thai khi biết thai là nữ
hậu quả của
sinh con
thứ 3 trở
lên
Hậu quả về kinh tế Thảo luận nhóm,
phỏng vấn sâu

Chăm sóc con cái
ảnh hưởng tới các vấn đề xã hội: môi
trường, mất cân bằng giới,…
Giải pháp Tuyên truyền, giáo dục, các biện pháp tránh
thai, xử phạt…
Thảo luận nhóm,
phỏng vấn sâu
Xây dựng, thực hành chính sách dân số


20
2.4 Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2009 – tháng 6/2010.
2.5 Xử lý và phân tích số liệu

-Số liệu từ trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện Thiệu Hóa được ghi chép
lại thành bảng và xử lý thô.
- Thông tin thu được từ thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu được ghi âm
lại, sau đó được gỡ băng. Áp dụng phương pháp phân tích nội dung- content
analyses [23]. 2 thành viên trong nhóm nghiên cứu làm việc độc lập với nhau,
dữ liệu được đọc kỹ lại nhiều lần, sau đó được mã hóa mở (open coding),
những mã tương tự nhau được nhóm lại thành một nhóm trong những thư
mục nhỏ (sub-categories), và cuối cùng hình thành nên những thư mục lớn
hơn liên quan đến 2 chủ đề chính nghiên cứu (themes). Sau đó 2 người nghiên
cứu này sẽ so sánh kết quả phân tích và thống nhất lại với nhau [25].
2.6 Đạo đức nghiên cứu
Trong quá trình điều tra tại thực địa, các tôn chỉ đạo đức sau đây được
áp dụng :
- Đề cương nghiên cứu đã được các thầy cô Bộ môn dân số học, Phòng
đào tạo đại học trường ĐHY Hà Nội thông qua.
- Nghiên cứu được các cấp chính quyền tỉnh Thanh Hóa, huyện Thiệu
Hóa, xã Thiệu Đô chấp nhận.
- Các đối tượng tham gia nghiên cứu trên cơ sở tự nguyện, hợp tác,
không ép buộc.
- Giải thích rõ cho đối tượng ý nghĩa của cuộc nghiên cứu.
- Sẵn sàng tư vấn cho đối tượng nếu đối tượng có nhu cầu.
- Có quà tặng cho đối tượng đã tham gia và cộng tác trong phạm vi cho
phép của kinh phí đề tài.
- Có phản hồi kết quả nghiên cứu cho đối tượng.

×