Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM_ PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM HÓA 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.34 KB, 29 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM HÓA 8
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

A/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
T
hế kỷ XXI – Thế kỷ của khoa học công nghệ trí tuệ. Khi xã hội ngày càng
phát triển thì yêu cầu về nguồn nhân lực càng lớn, nhưng đòi hỏi nguồn
nhân lực đó phải có một tri thức toàn diện. Chính điều này đòi hỏi con
người phải luôn có sự phấn đấu cố gắng để chiếm lĩnh những tri thức để trở
thành một con người vừa hồng, vừa chuyên, đáp ứng được nhu cầu của xã
hội. Để có được nguồn tri thức đó buộc con người không còn con đường
nào khác đó là phải tìm đến các bộ môn khoa học để tìm kiếm những thông
tin tri thức, trong đó Hoá Học là bộ môn khoa học mà con người cần tìm
hiểu. Hoá Học là bộ môn khoa học đóng góp nhiều trong việc cung cấp
những thông tin cho con người. Đặc biệt nó có vai trò hết sức quan trọng
trong việc hình thành nhân cách và tư duy cho con người.
Với vai trò như vậy cho nên bộ môn Hoá Học ở trường THCS đã được
quan tâm rất nhiều kể từ khi mà BGD có kế hoạch thay đổi chương trình
SGK cụ thể là:
Số tiết của lớp 8 được tăng lên gấp đôi so với chương trình cũ,
chương trình lớp 9 được giữ nguyên nhưng kiến thức có sự thay đổi đáng
kể. Nhìn chung cả ở 2 khối lớp 8, 9 khối lượng kiến thức tăng đặc biệt đã
chú trọng đến việc biên soạn SGK theo phương pháp đổi mới đó là thời
gian giành cho luyện tập, thực hành tăng, đồng nghĩa với việc nhằm tăng
1
khả năng hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em có cơ hội nhiều
hơn để rèn luyện các kỹ năng thực hành, giải bài tập.
Như chúng ta đã biết Hoá Học giữ một vai trò hết sức quan trọng trọng
hệ thống các môn khoa học. Nếu như: Toán, Văn, Lý…trang bị cho con


người nhừng kiến thức về tự nhiên xã hội thì Hóa Học cũng đóng góp một
phần vào trong cái hệ thống hoàn chỉnh đó. Ngoài ra Hoá Học nó còn giải
thích được các vấn đề, các hiện tượng trong tự nhiên, trong thực tế mà các
bộ môn khoa học khác không có được từ đó giúp con người hiểu thêm đời
sống thực tế. Hơn thế nữa với sự phát triển của khoa học kỹ thuật như hiện
nay thì ngành Hoá Học nói chung đóng góp và giữ một vị trí hết sức quan
trọng trong việc phát triển kinh tế.
Chính vì vai trò và vị trí của bộ môn khoa học Hoá Học như vậy cho
nên việc đề ra phương pháp học bộ môn này mới là một vấn đề khó đối với
học sinh. Vậy thì để học tốt bộ môn khoa học này thì cần phải trả lời được
những câu hỏi sau: Học để làm gì? Đó là mục đích. Học như thế nào? Đó
lại là phương pháp.
Mặt khác Hoá Học lại là bộ môn khoa học thực nghiệm có nghĩa là
học đi đôi với hành. Chính vì thế mà phương pháp là một vấn đề rất quan
trọng trong môn học này. Đặc biệt là phương pháp giải bài tập nhận biết,
trắc nghiệm trong hoá học lại càng khó khăn tức là để giải quyết được dạng
bài tập này đòi hỏi người học cần phải nắm chắc về kiến thức lý thuyết trên
cơ sở đó mới hình thành được phương hướng giải quyết bài tập. Ngoài ra
còn phải có kỹ năng thực hành thí nghiệm và tư duy giải nhanh các bài tập
loại trắc nghiệm đây là một phần không thể thiếu trong dạng bài tập nhận
biết và bài tập trắc nghiệm.
2
Hoá Học là khoa học nghiên cứu các chất, sự biến đổi và ứng dụng
của chúng, đó là môn khoa học thực nghiệm. Hóa học có vai trò quan trọng
trong cuộc sống của chúng ta. Hoá học đóng góp một phần rất quan trọng
vào việc giải thích các hiện tượng trong thực tế, giúp cho mỗi chúng ta có ý
thức hơn về các lĩnh vực mà Hoá học đề cập tới. Trong giảng dạy hoá học,
nếu ta lồng ghép được các hiện tượng xẩy ra trong thực tế và những bài tập
về giải thích hiện tượng thì sẽ làm cho bài học trở lên sinh động hơn, gây
hứng thú và sức thu hút với học sinh. Có như thế, chất lượng dạy học mới

được nâng lên và đạt hiệu quả cao. Các xu hướng xây dựng bài tập Hoá học
hiên nay là:
- Loại bỏ những bỏ bài tập có nội dung hoá học nghèo nàn nhưng lại
cần đến những thuật toán phức tạp để giải (Hệ nhiều ẩn, nhiều phương
trình, bất phương trình, phương trình bậc hai, cấp số cộng, cấp số nhân…).
- Loại bỏ những bài tập có nội dung lắt léo, giả định, rắc rối, phức tạp,
xa rời hoặc phi thực tiễn hoá học.
- Tăng cường sử dụng bài tập thực nghiệm.
- Tăng cường sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan.
- Xây dựng bài tập về các hiện tượng thực tế và các bài tập về bảo vệ
môi trường.
- Xây dựng bài tập mới để rèn luyện cho học sinh năng lực phát triển
vấn đề và giải quyết vấn đề.
- Đa dạng hóa các loại hình bài tập như bài tập bằng hình vẽ, bài tập vẽ
đồ thị, sơ đồ, bài tập về lắp ráp dụng cụ thí nghiệm…
- Xây dựng những bài tập có nội dung hoá học phong phú, sâu sắc,
phần tính toán đơn giản nhẹ nhàng.
3
- Xây dựng và tăng cường dạng bài tập thực nghiệm định lượng.
Với các xu hướng có thể xây dựng các nội dung bài tập như trên
nhằm mục đích để tăng cường sự hoạt động của học sinh thúc đẩy tính duy
lôgíc.
Tóm lại với vai trò vị trí quan trọng của bộ môn khoa học hoá học như
vậy nó góp phần làm nên một cái tổng thể toàn diện của khoa học nói
chung giúp con người hình thành nên một thế giới quan và nhân sinh quan
nhằm thúc đẩy sự phát triển tri thức của con người. Tạo ra một thế hệ người
vừa hồng vừa chuyên phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội ngày càng
phát triển.
2. Cơ cở thực tiễn.
Căn cứ vào chương trình thay SGK của Bộ Giáo Dục theo hướng

tích cực đã đặt ra nhu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học. Cho đến năm
2002 BGD triển khai việc thay SGK và áp dụng phương pháp dạy học mới
vào các trường THCS trên cả nước. Đến năm học 2004-2005 việc thực hiện
chương trình SGK và phương pháp dạy học đổi mới được áp dụng và tiến
hành ở cả 4 khối của bậc THCS. Việc thay đổi chương trình SGK và
phương pháp giảng dạy nhằm mục đích phát triển nặng lực toàn diện cho
học sinh đồng thời phát huy hết khả năng tư duy của học sinh.
Song việc triển khai chương trình SGK và phương pháp dạy học mới
còn gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là ở những địa phương vùng sâu vùng
xa điều kiện kinh tế còn khó khăn.
Hơn nữa đối với bộ môn Hoá Học là môn học thực nghiệm vì vậy cần
có đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất như phòng thực hành thí nghiệm, đồ
dùng, dụng cụ thực hành để học sinh có điều kiện học tập học theo đúng
chương trình thay sách và đổi mới phương pháp dạy học.
4
Trong điều kiện thực tế nhà trường còn có nhiều khó khăn đặc biệt
là CSVC không có phòng thực hành thí nghiệm, học sinh trong một lớp
đông nên để áp dụng được nhiệm vụ chung của các môn học và đặc thù
riêng của môn Hoá Học là “Dạy-học” bằng phương pháp thực nghiệm
người thày cần phải cho học sinh thấy được vai trò của các thí nghiệm
trong các bài học nói chung và trong bài tập nhận biết nói riêng, sao cho
học sinh không thể có điều kiện trực tiếp làm thí nghiệm thì cũng có hứng
thú trong học tập bộ môn, giám đề xuất những phương án thí nghiệm, dự
đoán kết quả của thí nghiệm từ đó kích thích tinh thần học tập của học sinh
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Chính vì thế mà ta cần có sự linh hoạt khi mà điều kiện giảng dạy
không cho phép áp dụng những phương pháp tích cực một cách triệt để.
Trong đó có một phương pháp có thể áp dụng đó là xây dựng các dạng bài
tập trắc nghiệm, đây cũng là điều kiện rất tốt cho học sinh có khả năng tư
duy logic nhằm củng cố kiến thức trong quá trình học tập.

Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này ở cấp học THCS là một vấn đề
khoa học không phải là mới đối với học sinh. Bởi lý do là hiện nay số
lượng đầu sách nói riêng về rèn luyện tư duy logic cho học sinh thông qua
dạng bài tập trắc nghiệm lại rất ít có chăng cũng chỉ lồng ghép với các dạng
bài tập khác mà không trình bày một cách rõ ràng chuyên biệt cho nên gây
nhiều khó khăn đối với học sinh khi nghiên cứu làm dạng bài tập này. Hơn
nữa bài tập dạng trắc nghiệm khách quan liên quan rất nhiều đến việc
phương pháp học và tư duy của học sinh. Vậy để có được một giáo trình
cho việc giảng dạy dạng bài tập này là rất quan trọng cho các giáo viên và
kể cả học sinh khi nghiên cứu vấn đề này.
5
Với số tiết như hiện nay cùng với phân phối chương trình thì việc
rèn luyện kỹ năng giải bài tập trắc nghiệm là rất khó khăn vì thế mà cần
phải có một giáo trình cơ bản trình bày ngắn gọn, rễ hiểu, xúc tích nhằm
giúp giáo viên cũng như học sinh có khả năng dễ dàng thực hiện dạng bài
tập này. Chính vì thế mà việc đưa ra phương pháp trình bày cả là một vấn
đề khó khăn.
Qua quá trình trực tiếp giảng dạy bộ môn Hoá học ở trường THCS
tôi thấy rằng việc học sinh học bộ môn này cũng như khi làm dạng bài tập
trắc nghiệm khách quan còn là một vấn đề khó khăn đối với các em. Phải
chăng các em tập chung cho các môn khác như Văn, Toán … vì đây là
những môn có liên quan thi vào cấp III hay Hóa học là bộ môn khó học?.
Đó cũng chỉ là những câu hỏi mang tính chất dự đoán nhưng trong bất cứ
giá nào thì cũng phải tạo cho học sinh những hứng thú trong học tập bộ
môn này. Muốn vậy thì người thày phải biết thiết kế, tổ chức một giờ dạy
như thế nào cho hợp lý và mang lại hiệu qủa cao cho người học đồng thời
phải rèn được những kỹ năng trong việc giải các dạng bài tập trong đó bài
tập trắc nghiệm khách quan là một ví dụ vì đây không chỉ đơn thuần là trắc
nghiệm khách quan mà là rèn luyện cho các em có một tư duy sáng tạo
trong quá trình giải bài tập dạng này. Chính vì đặc thù của dạng bài tập này

như vậy giáo viên có điều kiện tạo hứng thú cho học sinh, từ đó làm cho
học sinh hứng, say mê với bộ môn khoa học này hơn.
Hơn nữa khi BGD có kế hoạch thay đổi chương trình SGK thì có đã
có phương án thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp. Đồng thời kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng theo một hình thức mới. Với
dạng bài tập dạng trắc nghiệm khách quan thì học sinh hoàn toàn xa lạ khi
mới tiếp xúc bởi trong hệ thống bài tập hoá học, bài tập trắc nghiệm có đặc
6
trưng cơ bản là khống chế chặt chẽ về mặt thời gian. Bài toán dùng làm câu
trắc nghiệm nhiều lựa chọn là bài toán có thể giải nhanh được. Vì vậy,
trong dạy học hoá học cần chú ý hướng dẫn học sinh phương pháp tìm tòi
cách giải nhanh, thông minh.
3. Kết luận
Từ những cơ sở thực tiễn trên như nội dung chương trình cùng với
chất lượng của học sinh tôi mạnh dạn đưa ra “ Phương pháp dạy bài tập trắc
nghiệm môn hoá học THCS”. Tuy nhiên sáng kiến này nó còn mang tính
chất bó hẹp vì nó chỉ giới hạn ở một phần nhỏ của bài tập hoá học. Nhưng
để giúp học sinh có cái nhìn khái quát hơn và ham học hơn cũng như là các
em có thể từ đó giải bài tập một cách nhanh và dễ hiểu. Đồng thời đề tài
của tôi nhằm mục đích đó là học sinh phải:
- Sử dụng có hiệu quả triệt để thời gian để giải bài tập trắc nghiệm
khách quan.
- Phát huy tính tích cực của học sinh
- Học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức thông qua giải bài tập trắc
nghiệm.
- Giáo dục tinh thần tự giác, trung thực, sáng tạo, trách nhiệm trong
công việc, có hứng thú trong bộ môn.
- Rèn luyện kỹ năng tư duy linh hoạt và nhanh nhẹn trong quá trình
giải bài tập…
Tóm lại để nâng cao chất lượng dạy và học ở bộ môn hoá học cần

phải đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm mới đó là lấy người học
làm trung tâm. Chính vì vậy việc đưa phương pháp giải bài tập và rèn luyện
7
khả năng tư duy cho học sinh là một việc làm tất yếu cần phải được triển
khai một cách đại trà. Cũng như phương pháp dạy học nói chung tại hội
thảo UNESCO ở Giơnevơ (10/5-16/5/1970) đã khẳng định “Công nghệ dạy
học là một khoa học về giáo dục, nó xác lập những nguyên tắc hợp lý của
công tác học tập và các điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành quá trình dạy
học cũng như xác lập các phương pháp và phương tiện có kết quả nhất để
đạt được mục đích dạy học đề ra đồng thời tiết kiệm được sức lao động của
thày và trò”. Trong việc khẳng định trên tại hội thảo đã nói lên được rằng
đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới cách ra bài tập là một vấn đề hết
sức quan trọng để thúc đẩy quá trình học tập được phát triển. Muốn vậy thì
không chỉ đổi mới ở một khâu nào đó mà phải đổi mới ở tất cả các khâu từ
việc thiết kế, chuẩn bị đến việc tổ chức giảng dạy và ra đề kiểm tra.
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn này cho nên tôi cảm thấy rằng
việc đưa phương pháp giải bài tập đồng thời rèn luyện tư duy cho học sinh
thông qua bài tập trắcnghiệm là rất phù hợp đồng thời tôi chọn đề tài sáng
kiến kinh ghiệm này là để trau dồi cho mình những kinh nghiệm từ đó có
những cách giải bài tập hay hơn, dễ hiểu hơn đặc biệt là phù hợp với từng
đối tượng học sinh. Từ đó giúp cho chất lượng dạy và học được nâng lên
đáp ứng với mục tiêu của ngành giáo dục đề ra đặc biệt là cuộc vận động “
Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” của
Bộ trưởng bộ giáo dục. Qua quá trình nghiên cứu tôi cũng đã đưa ra một số
những kiến nghị để cho việc nâng cao chất lượng dạy học nhằm thúc đẩy sự
phát triển của giáo dục trong giai đoạn mới đó là hội nhập với thế giới trên
tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, TDTT…
B/ MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
8
Khi chọn đề tài sáng kiến " Phương pháp giải bài tập trắc nghiệm

môn hoá học THCS" ở trường THCS để nghiên cứu tôi đã xác định được
cho mình một số mục đích cụ thể như sau:
1- Qua thực tế giảng dạy có điều kiện thuận lợi để thâm nhập thì thấy
rằng vấn đề giải bài tập hoá học đối với học sinh ở trường THCS còn gặp
nhiều khó khăn đặc biệt là giải bài tập trắc nghiệm. Chính vì thế tôi viết đề
tài này để nhằm cung cấp thêm cho các em học sinh những phương pháp
giải nhanh bài tập trắc nghiệm thông qua đó rèn luyện khả năng tư duy cho
học sinh. Đồng thời để xem xét xem phương pháp này đã được đưa vào áp
dụng chưa? Nếu đưa vào áp dụng thì như thế nào? Có ưu nhược điểm gì so
với khi chưa áp dụng.
2- Khi áp dụng " Phương pháp giải bài tập trắc nghiệm môn hoá học
THCS " ở trường THCS có những thuận lợi và khó khăn như thế nào?
3- Từ việc thâm nhập thực tế nghiên cứu vấn đề "Phương pháp giải
bài tập trắc nghiệm môn hoá học THCS" ở trường THCS nhằm thu thập
những thông tin về chất lượng học tập của học sinh. Từ đó có những có
những tổng kết, đưa ra những giả thuyết khoa học nhằm mục đích đưa ra
những lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu "Phương pháp giải
bài tập trắc nghiệm môn hoá học THCS" ở trường THCS. Để góp phần
thực hiện đào tạo học sinh thành những con người vừa hồng, vừa chuyên
tạo cho các em có được sự năng động, sáng tạo tiếp thu những kỹ năng
khoa học. Biết vận dụng tìm ra các giải pháp hợp lý cho những vấn đề khoa
học.
4- Với đề tài này nhằm đáp ứng một vấn đề mà học sinh đang băn
khoăn trong việc giải bài tập mà chưa đưa ra được cho mình phương pháp
9
như thế nào cho hợp lý, dễ hiểu, ngắn gọn, xúc tích và với một thời gian
nhanh nhất. Đồng thời đây cũng là một tài liệu để các đồng nghiệp tham
khảo trong quá trình giảng dạy đăc biệt là rèn luyện khả năng tư duy cho
học sinh.
5- Ngoài những vấn đề trên việc thực hiện đề tài sáng kiến còn nhằm

giúp cho học sinh rèn luyện một số các kỹ năng sau:
- Sử dụng có hiệu quả dạng bài tập trắc nghiệm
- Phát huy tính tích cực của học sinh
- Học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức thông qua giải bài tập trắc
nghiệm.
- Giáo dục tinh thần tự giác, trung thực, sáng tạo, trách nhiệm trong
công việc, có hứng thú trong bộ môn.
- Rèn luyện kỹ năng tư duy, sáng tạo…
6- Thiết thực hơn nữa tôi là một giáo viên giảng dạy trực tiếp bộ môn
hoá học ở trường THCS nên việc nghiên cứu đề tài cũng nhằm giúp tôi tích
luỹ cho mình những kiến thức, những kinh nghiệm về phương pháp giải bài
tập hoá học nói chung và "Phương pháp dạy bài tập trắc nghiệm môn hoá
học THCS" ở trường THCS nói riêng. Đồng thời cũng là dịp để tích luỹ
thêm được chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân ngày càng vững vàng hơn.
C/ ĐỐI TƯƠNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để trở thành một khoa học độc lập thì bất cứ một khoa học nào cũng
phải xác định đối tượng nghiên cứu của mình vì đối tượng nghiên cứu của
một khoa học là lĩnh vực nhận thức thế giới khách quan của một khoa học
đó. Chỉ khi xác định rõ đối tượng nghiên cứu của mình mới đề ra được
phương hướng nghiên cứu đúng đắn, mới xác định được nội dung nghiên
cứu rõ ràng, chính xác và không bị vượt ra khỏi lãnh vực thế giới khách
10
quan mà mình phải nhận thức cũng như không thu hẹp phạm vi nghiên cứu
của mình. Chính vì vậy vấn đề đối tượng nghiên cứu của khoa học là vấn
đề phương pháp luận nghiên cứu của khoa học đó.
1- Đối tượng nghiên cứu.
Chính vì sự xác định rõ ràng đối tượng nghiên cứu cứu một đề tài
sáng kiến như vậy cho nên đối tượng nghiên cứu của đề tài này chính là
học sinh khối 8, 9 ở trường THCS Tam Đa và giáo viên giảng dạy bộ môn
hoá học tại trường. Với những đối tượng như vậy tôi có thể khai thác một

cách có hiệu quả và triệt để vì là những đối tượng mà trực tiếp tôi quản lí
và giảng dạy. Đồng thời đồng nghiệp trong nhà trường giảng dạy cùng bộ
môn cũng rất ủng hộ và có những đóng góp nhiệt tình cho đề tài của tôi.
2- Phạm vi nghiên cứu.
Như phần trên tôi đã trình bày thì bất cứ một khoa học nào khi đã
xác định cho mình được đối tượng nghiên cứu thì cũng phải xác định được
phạm vi mà đề tài nghiên cứu để tránh không bị vượt ra khỏi lãnh vực thế
giới khách quan mà mình phải nhận thức cũng như không thu hẹp phạm vi
nghiên cứu của mình. Mà phạm vi nghiên cứu của một đề tài đó chính là
nội dung của một đề tài cho nên có xác định được nội dung mới xác định
mục đích cũng như hướng giải quyết đề tài. Vì vậy đề tài này tôi đã xác
định nội dung nghiên cứu đó là: "Phương pháp dạy bài tập trắc nghiệm
môn hoá học THCS" ở trường THCS và được áp dụng ở đối tượng học sinh
lớp 8, 9 tại trường THCS Tam Đa.
II/ NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Trong quá trình nghiêm cứu đề tài tôi thấy gặp một số những thuận
lợi và khó khăn :
A- Thuận lợi, khó khăn.
11
1/ Thuận lợi.
- Hoá học là bộ môn khoa học thực nghiệm đi nghiên cứu các chất và
sự biến đổi của các chất.
- Hoá học có thể giải thích được các hiện tượng trong tự nhiên cũng
như trong đời sống.
- Thông qua các thí nghiệm trong các bài học đặc biệt là trong các bài
tập thực hành, trắc nghiệm, nhận biết đã khích lệ tính tò mò, ham hiểu biết
của các em, từ đó làm cho các em thêm yêu và thích bộ môn học này.
- Được sự hậu thuẫn của các đồng nghiệp trong nhà trường nên phần
nào cũng là động lực cho tôi nghiên cứu đề tài. Đồng với sự tham gia nhiệt
tình của các em hoc sinh trong đối tượng tôi nghiên cứu làm nên sự thành

công của đề tài.
Đó là những thuận lợi mà trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi nhận
thấy được.
2/ Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi trên thì khi nghiên cứu đề tài để áp dụng
một cách rộng rãi thì tôi thấy còn một số những khó khăn sau:
Một khó khăn đầu tiên mà tôi gặp phải đó là kỹ năng giải bài tập hoá
học của học sinh nói chung và giải bài tập trắc nghiệm nói riêng còn rất yếu
và gần như tư duy để giải nhanh các bài tập dạng trắc nghiệm của học sinh
chưa có.
Một khó khăn nữa cũng không kém phần quan trọng là các giáo trình
bài tập còn thiếu, đặc biệt là giáo trình bài tập rèn luyện tư duy giải bài tập
trắcnghiệm có chăng cũng chỉ là mang tính chất lồng nghép với một số
dạng bài tập khác mà nó chưa được trình bày riêng chưa có được phương
12
pháp cụ thể cho nên khi học sinh nghiên cứu dạng bài tập này còn gặp rất
nhiều khó khăn.
Để hoàn thiện vấn đề này tôi mạnh dạn đưa ra một số phương pháp
giải bài tập trắc nghiệm mang tính tư duy nhằm đáp ứng được cách ra đề thi
trắc nghiệm như hiện nay.
B- Một số phương pháp giải bài tập trắc nghiệm.
Để hướng dẫn học sinh giải nhanh bài tập trắc nghiệm theo tôi cần có
những vấn đề cần chú ý sau đây:
- Xuất phát từ những kiến thức và kỹ năng cơ bản từ cách giải thông
thường mà học inhn biết, người giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra những quy
luật, các mối quan hệ đặc biệt để từ đó dẫn đến cách giải nhanh.
- Luôn luôn chú ý phát huy sự tích cực, chủ động của học sinh, tạo hứng
thú học tập chho học sinh. Giáo viên hướng dẫn để học sinh phát hiện, chủ động
tìm ra, nắm bắt được phương pháp giải. Như vậy làm cho học sinh hứng thú, có
được niềm vui khi tự mình khám phá, từ đó kiến thức có được sẽ có tính lâu bền,

vững chắc và quan trọng hơn là rèn luyện cho các em phương pháp tư duy.
Trong đề tài này tôi xin đề cập đến một vài dạng bài tập rất hay gặp trong
chương trình THCS và một số phương phải giải mang tính chất tư duy giúp giải
được nhanh bài toán trắc nghiệm.
1. Bài toán xung quanh phần pha trộn dung dịch.
Như chúng ta đã biết phần dung dịch đặc biệt là phần pha chế trong
chương trình hoá học 8, 9 thì có rất nhiều bài tập liên quan đến cách giải theo
phương pháp đường chéo. Có thể nói rằng phương pháp đường chéo là một
phương pháp giải tương đối nhanh và có tác dụng rất lớn giảm bớt thời gian và
đáp ứng được yêu cầu về mặt thời gian. Sau đây là một số ví dụ tôi xin trính bày
để minh họa.
13
Trước hết xin hướng dẫn sử dụng phương pháp đường cheo trong giải bài
tập pha trộn dung dịch.
Gọi m
1
,C
1
lần lượt là khối lượng và nồng độ % của dd 1
Gọi m
2
,C
2
lần lượt là khối lượng và nồng độ % của dd 2
Khi pha trộn dụng dịc 1 với dung dịch 2.
dd 1 C
1
(C
2
- C)

V
1
, D
1
, m
dd
C
dd 2 C
2
(C - C
1
)
V
2
, D
2
, m
dd

- Lập tỉ lệ ta có:
1
2
2
1
CC
CC
m
m
dd
dd


=


1
2
2
1
CC
CC
V
V

=

- Tương tự có thể áp dụng với việc tìm khối lượng riêng hoặc số mol.
Ví dụ 1: Trộn 60(g) dd NaOH 20% với 40(g) dd NaOH 15% thu được dd
NaOH có nồng độ phần trăm là:
A. 16% B. 18% C. 20% D. 14%
Bải giải:
- Tôi xin trình bày theo 2 cách để thấy rõ được vai trò của phương pháp
đường chéo.
* Cách 1: Theo phương pháp đại số.
- Khối lượng của NaOH có trong 60(g) dd NaOH 20% là:
)g(
%
%.
12
100
2060

=
- Khối lượng của NaOH có trong 40(g) dd NaOH 15% là:
)g(
%
%.
6
100
1540
=
- Khối lượng chất tan sau khi trộn là: 12 + 6 = 18(g)
- Khối lượng dung dịch sau khi trộn là: 60 + 40 = 100(g)
- Nồng độ % của đ dịch sau khi trộn là: Áp dụng công thức
%.
m
m
%C
dd
ct
100=
14
Thay số ta có:
%%.%C 18100
100
18
==
.
Vậy chọn đáp án B.
* Cách 2: Áp dụng theo phương pháp đường chéo ta có.
20% 20% - C
C

15% C - 15%
C%
%C
CC
CC
m
m
dd
dd


=⇒

=

20
15
40
60
1
2
2
1
60(20% - C) = 40(C - 15%)
C = 18%
Ví dụ 2: Cần pha bao nhiêu gam dd NaCl 20% vào 400(g) dd NaCl 15% để
được dung dịch NaCl 16%.
A. 100 B. 150 C. 200 D. 250
* Cách 1: Theo phương pháp đại số.
- Gọi a (g) (a>0) là số gam dd NaCl cần pha.

- Khối lượng NaCl có trong a(g) dd NaCl 20% là:
)g(a,
%
%.a
20
100
20
=
- Khối lượng NaCl có trong 400(g) dd NaCl 15%% là:
)g(
%
%.
60
100
15400
=
- Khối lượng chất tan sau khi trộn 2 dung dịch là: (0,2a + 60)(g)
- Khối lượng dung dịch sau khi trộn 2 dung dịch là: (a + 400) (g)
- Nồng độ % của dung dịch sau khi trộn là: Áp dụng công thức
%.
a
a,
%%.
m
m
%C
dd
ct
100
400

6020
16100
+
+
=⇒=

- Giải tìm được a = 100(g). Chọn đáp án A
* Cách 2: áp dụng theo phương pháp đường chéo.


15
20%



16% - 15%

16%



15%



20% - 16%


4
1

400
=⇒
dd
m
Ta có m
dd
= 100(g). Chọn đáp án A
* So sánh 2 cách giải ta thấy
- Nếu giải theo phương pháp thông thường thì cũng cho ta kết quả. Hơn
nữa có khi học sinh còn dễ hiểu. Nhưng lại rất mất thời gian mà dạng bài tập trắc
nghiệm thì lại khắt khe về mặt thời gian. Nếu vậy thì sẽ không đáp ứng được về
thời gian.
- Nếu giải theo phương pháp đường chéo thì lại cho ta kết quả rất nhanh
không mất thời gian phù hợp với dạng bài tập trắc nghiệm. Nhưng nếu học sinh
áp dụng không tinh thì có thể tìm được một kết quả không chính xác (tức là có
khi tìm được kết quả âm).
Nhưng để đáp ứngđược về mặt thời gian thì phương pháp đường
chéo vẫn là công cụ hữu hiệu nhất để học sinh tận dụng được về mặt thời gian.
2. Dạng bài toán liên quan đến phương pháp bảo toàn nguyên tử.
- Có rất nhiều phương pháp để giải bài toán hoá học khác nhau, nhưng
phương pháp bảo toàn nguyên tử và phương pháp bảo toàn số electron cho phép
chúng ta gộp nhiều nhiều phương trình phản ứng lại làm một, quy gọn việc tính
toán và nhẩm nhanh đáp số. Rất phù hợp với việc giải các bài toán hoá học trắc
nghiệm. Cách thức gộp phương trình làm một và cách lập phương trình theo
phương pháp bảo toàn nguyên tử sẽ được giới thiệu qua một số ví dụ sau đây:
Ví dụ 1: Khử hoàn toàn 17,6 (g) hỗn hợp gồm Fe, FeO, Fe
2
O
3
cần 4,48 lít

khí CO (đktc). Khối lượng Fe thu được là:
A. 14,5 gam B. 15,5 gam C. 14,4 gam D. 16,5 gam
- Bài toán này nêu giải theo phương pháp đại số thì phải lập hệ phương
trình và giải hệ, nếu vậy thì rất dài và mất thời gian.
16
- Nếu áp dụng theo phương pháp bảo toàn nguyên tử thì sẽ đơn giản và
ngắn hơn rất nhiều:
Phương trình: FeO + CO
→
0
t
Fe + CO
2
(1)
Fe
2
O
3
+ 3CO
→
0
t
2Fe + 3CO
2
(2)
- Theo phương trình 1 và 2 ta thấy số nguyên tử O có trong CO bằng số
nguyê tử O có trong 2 ôxit sắt. Vì thế khối lượng của ôxi trong 2 oxit sắt được
tính như sau:
- Bài ra có số mol của CO là: 0,2(mol). Khối lượng của ôxi là: 0,2.16 = 3,2
- Do số nguyên tử O trong oxit sắt bằng số nguyên tử trong oxi nên khối

lượng cũng bằng nhau và bằng 3,2(g).
- Khối lượng sắt thu được là: 17,6 - 3,2 = 14,4(g)
Vậy chọn đáp án C
Ví dụ 2: Để khử hoàn toàn 3,04g hỗn hợp X gồm FeO, Fe
3
O
4
, Fe
2
O
3
cần 0,05(mol)H
2
. Mặt khác hoà tan hoàn toàn 3,04g hỗn hợp X trong dung dịch
H
2
SO
4
đặc thu được thể tích SO
2
(Sản phẩm khử duy nhất) ở đktc là:
A. 448ml B. 224ml C. 336ml D. 112ml.
Giải: Thực chất phản ứng khử các oxit sắt trên là:
H
2
+ O
→
0
t
H

2
O.
0,05mol 0,05mol.
Đặt số mol của hỗn hợp X gồm FeO, Fe
3
O
4
, Fe
2
O
3
lần lượt là x, y, z ta có:
n
O
= x + 4y + 3z = 0,05 mol (1)

)mol(,
.,,
n
Fe
040
56
16050043
=

=
x + 3y + 2z = 0,04 mol (2)
Từ (1) và (2) ta có: x + y = 0,02
Mặt khác:
2FeO + 4H

2
SO
4
 Fe
2
(SO
4
)
3
+ SO
2
+ 4H
2
O
17
x x/2
2Fe
3
O
4
10H
2
SO
4
 3Fe
2
(SO
4
)
3

+ SO
2
+ 10H
2
O
y y/2
ml,.,VVËy
)mol(,
,yx
nsèTæng
SO
SO
22442210
10
2
20
2
2
2
==
==
+
=⇒

 Chọn đáp án B
Ví dụ 3: Thổi từ từ V lít hỗn hợp khí ở (đktc) gồm CO và H
2
đi qua một
ống đựng 16,8g hỗn hợp gồm 3 oxit: CuO, Fe
3

O
4
, Al
2
O
3
nung nóng, phản ứng
hoàn toàn thu được m gam chất rắn và một hỗn hợp khí nặng hơn khối lượng của
hỗn hợp V là 0,32g. Tính V và m.
A. 0,224 lít và 14,48g B. 0,672 lít và 18,46g
C. 0,112 lít và 12,28g D. 0,448 lít và 16,48g
Giải: Thực chất phản ứng khử các oxit trên là:
CO + O
→
0
t
CO
2
H
2
+ O


→
0
t
H
2
O
- Khối lượng khí tạo thành nặng hơn hỗn hợp khí ban đầu chính là khối lượng

của nguyên tử ôxi trong các ôxit tham gia phản ứng. Do vậy.
)mol(,nn
)mol(,
,
ng,m
HCO
OO
020
020
16
320
320
2
=+⇒
==⇒=
- Áp dụng định luật bảo toàn khối lượng ta có:
m
ôxit
= m
Chất rắn
+ 0,32
320816 ,m,
+=⇔


m = 16,48g

lÝt,,.,V
)HCO(hh
4480422020

2
==
+
 Chọn đáp án D
Ví dụ 4: Thổi rất chậm 2,24 lít (đktc) hỗn hợp khí gồm CO và H
2
qua một
ống sứ đựng hỗn hợp gồm cá oxit: CuO, Fe
3
O
4
, Al
2
O
3
, Fe
2
O
3
có khối lượng là
24g dư đang được nung nóng. Sau khi kết thúc phản ứng khối lượng chất rắn còn
lại trong ống là:
18
A. 22,4g B. 11,2g C. 20,8g D. 16,8g
Giải:
mol,
,
,
n
)HCO(hh

10
422
242
2
==
+
- Thực chất phản ứng khử các oxit trên là:
CO + O
→
0
t
CO
2
H
2
+ O


→
0
t
H
2
O
mol,nnnVËy
HCOO
10
2
===
 m

O
= 1,6g
- Vậy chất rắn còn lại trong ống sứ là: 24 - 1,6 = 22,4g  Chọn đáp án A
3. Dạng bài toán liên quan đến phương pháp bảo toàn khối lượng.
Ví dụ 1: Khử hoàn toàn 6,64 gam hỗn hợp gồm: Fe, FeO, Fe
3
O
4
, Fe
2
O
3
cần dùng vừa đủ 2,24 lít khí CO (đktc). Khối lượng Fe thu được là:
A. 5,4 gam B. 5,04 gam C. 5,03 gam D. 5,02 gam
Giải:
Phương trình: FeO + CO
→
0
t
Fe + CO
2
(1)
Fe
2
O
3
+ 3CO
→
0
t

2Fe + 3CO
2
(2)
Fe
3
O
4
+ 4CO
→
0
t
3Fe + 4CO
2
(3)
- Bài ra số mol của khí CO là: 0,1 (mol). Khối lượng của CO là: 0,1.28 = 2,8g
- Theo phương trình 1, 2, 3 ta thấy tổng số mol của CO bằng tổng số mol của
CO
2
ta có số mol của CO
2
là 0,1 (mol). Khối lượng của CO
2
: 0,1.44 = 4,4g
- Áp dụng định luật bảo toàn khối lượng ta có:
m
hh chất ban đầu
+ m
CO
= m
Fe

+
2
CO
m
6,64 + 2,8 = m
Fe
+ 4,4
 khối lượng sắt thu được là: m
Fe
= 5,04g
 Chọn đáp án B
Ví dụ 2: Cho một luồng khí CO dư đi qua ống sứ chứa 5,64 gam hỗn hợp
gồm: Fe, FeO, Fe
2
O
3
, Fe
3
O
4
(đun nóng). Sau khi phản ứng xẩy ra hoàn toàn, khí
đi ra dẫn vào dụng dịch Ca(OH)
2
dư thu được 8 gam kết tủa. Khối lượng của sắt
thu được là:
A. 4,36 gam B. 4,63 gam C. 3,46 gam D. 3,64 gam
Giải:
19
Phương trình: FeO + CO
→

0
t
Fe + CO
2
(1)
Fe
2
O
3
+ 3CO
→
0
t
2Fe + 3CO
2
(2)
Fe
3
O
4
+ 4CO
→
0
t
3Fe + 4CO
2
(3)
CO
2
+ Ca(OH)

2
 CaCO
3
+ 2H
2
O (4)
- Số mol của CaCO
3
là: 0,8 (mol)
- Theo phương trình (4) số mol CO
2
= số mol của CaCO
3
= 0,08 (mol)
- Theo phương trình 1, 2, 3 ta thấy tổng số mol của CO bằng tổng số mol của
CO
2
ta có số mol của CO
2
là 0,8 (mol). Khối lượng của CO
2
: 0,08.44 = 3,52g
- Khối lượng của khí CO là: 0,08.28 = 2,24g
- Áp dụng định luật bảo toàn khối lượng ta có:
m
hh chất ban đầu
+ m
CO
= m
Fe

+
2
CO
m
5,64 + 2,24 = m
Fe
+ 3,52
 khối lượng sắt thu được là: m
Fe
= 4,36g
 Chọn đáp án A
- Do thời gian không cho phép nên tôi cũng chỉ giới thiệu được một số ví
dụ điển hình để minh hoạ cho mỗi phương pháp giải bài tập với cách nhẩm
nhanh để các em học sinh tham khảo, đồng thời để các đồng nghiệp có thể lấy đó
làm ví dụ trong qúa trình hướng dẫn học sinh giải bài tập trắc nghiệm theo
những phương pháp trên.
III/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Trong đề tài này tôi có sử dung một số tài liệu có liên quan để nghiên
cứu cụ thể như:
- Đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm của tác
giả “Trần Kiều”.
20
- Lý luận dạy học hoá học của tác giả “Nguyễn Ngọc Quang, Nguyễn
Cương, Dương Xuân Trinh”.
- Phương pháp nghiên cứu giáo dục.
Mục đích khi sử dung phương pháp này là nhằm thu thập những
thông tin, số liệu có liên quan đến đề tài để phục vụ cho quá trình nghiên
cứu.
Đối tượng của phương pháp là các tài liệu có liên quan đến đổi mới

phương pháp dạy học.
2- Phương pháp điều tra giáo dục.
Điều tra giáo dục là phương pháp rất phổ biến trong quá trình nghiên
cứu khoa học.
- Mục đích: Thu thập số liệu sử lý thông tin để phục vụ cho qua trình
làm đề tài.
- Đối tượng của phương pháp: Tập thể học sinh thuộc hai khối 8, 9
trường THCS Tam Đa chủ yếu tập chung vào học sinh khối lớp 9.
3- Phương pháp quan sát.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài và áp dụng đề tài mang tính chất
thí điểm tôi có quan sát xem thái độ cũng như phản ứng của học sinh xem
các em tiếp cận đề tài ở mức độ nào và khi đưa vào áp dụng rộng rãi thì có
phát huy kết quả không
Qua phương pháp này tôi thu thập được những thông tin từ phía học
sinh để có thể điều chỉnh đề tài cho phù hợp với từng đối tượng học sinh từ
đó giúp đề tài của tôi có thể được áp dụng rộng rãi trên tất cả cá đối tượng
học sinh.
4- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
21
Thực hiện phương pháp này tôi tiến hành áp dụng vào giảng dạy cho
những học sinh khá giỏi trước. Đặc biệt là đội tuyển học sinh giỏi trong
năm học vừa qua tôi thấy rằng khi áp dụng đề tài này cho các đối tựơng học
sinh như vậy thì phát huy rất tốt những khả năng của các em từ đó tôi thấy
chất lượng nắm bài của các em rất tốt đồng thời những kỹ năng thực hành
của các em rất thuần thục từ đó thúc đẩy được sự ham học hỏi của các em
hơn.
Ngoài những phương pháp chủ yếu trên tôi còn sử dụng một số
phương pháp khác để phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài như: Phương
pháp nghiên cứu lí thuyết, Phương pháp đàm thoại, Phương pháp trao đổi
hỏi ý kiến. Tuy nhiên ở mỗi một phương pháp nó lại có những thuận lợi và

có những khó khăn nhất định trong qúa tình thu thập thông tin và các dữ
liệu để nghiên cứu đề tài.
IV/ KẾT QUẢ
- Trước khi áp dụng đề tài thì tôi thấy răng mỗi khi ra đề kiểm tra với
những câu hỏi trắc nghiệm đòi hỏi học sinh phải nhanh để trách mất thời gian thì
học sinh lại rất lúng túng khi tìm được ra kết quả thì thời gian dành cho bài tự
luận cũng không còn nhiều. Chính vì thế mà các em thường thiếu hụt thời gian
mặc dù đề ra không phải là quá dài. Khi hướng dẫn các em một số phương pháp
có thể giải nhanh được các bài tập thì mỗi khi có bài tập trắc nghiệm trong bài
kiểm tra thì không còn là những nỗi lo cho các em đặc biệt là về mặt thời gian.
Đồng thời cũng là điều kiện để rèn luyện khả năng tư duy cho học sinh khi giải
các bài tập hoá học.
- Có thể nói rằng việc áp dụng những phương pháp giải được nhanh các
bài tập trong hoá học là rất quan trọng đặc biệt là dạng đề thi như hiện nay thì
trắc nghiệm chiếm tới 40% đến 50% thậm trí trong bài kiểm tra 15 phút thì trắc
22
nghiệm có thể là 100%. Mà bài tập trắc nghiệm có nhiều bài cũng cần phải giải
thì mới tìm được kết quả.
- Với kết quả khá khả quan tôi nghĩ rằng việc triển khai đề tài này không
có gì là khó mà còn giúp học sinh khá nhiều trong việc rèn luyện tư duy cho học
sinh và phát huy tính sáng tạo cho các em khi giải các dạng bài toán hoá học.
Đặc biệt đối với những đồng chí giáo viên ôn thi đội tuyển thì việc áp dụng
những phương pháp này là rất hữu ích và mang lại kết quả khá cao.
V/ ĐÚC RÚT KINH NGHIỆM
Qua việc thực hiện đề tài này tôi rút ra được một số kinh nghiệm cho
chính bản thân và các em học sinh cụ thể là:
1. Đối với bản thân.
- Trau dồi, tích luỹ được những vốn kiến thức bổ ích cho bản thân
trong quá trình giảng dạy
- Tiếp cận được với những phương pháp dạy học tích cực từ đó có

thể áp dụng vào trong công tác giảng dạy của mình.
- Có cơ hội để tham khảo ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp và
các em học sinh từ đó có phương pháp giảng dạy phù hợp hơn.
- Giáo viên không phải chủ động truyền đạt kiến thức mà chỉ giữ vài
trò chỉ đạo học sinh giải quyết các tình huống, tức là học sinh tự tìm tòi,
khám phá để chiếm lĩnh kiếm thức, đồng thời qua các bài tập trắc nghiệm
thực sự rèn luyện cho các em có một tư duy tích cực trong giải bài tập hoá
học.
- Nếu đề tài này được áp dụng và giáo viên hướng dẫn học sinh một
cách chi tiết thì nó sẽ góp phần rất lớn vào việc nâng cao chất lượng dạy
học đặc biệt là dạy học theo phương pháp mới “ Lấy người học làm trung
tâm”.
23
2. Đối với học sinh.
- Phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Học
sinh có thể có thể tự mình hiểu và lĩnh hội kiến thức một cách chủ động.
- Rèn luyện được tính tự giác, tính độc lập nghiên cứu khoa học từ
đó hình thành cho học sinh thói quen làm việc theo khoa học.
- Giúp học sinh tiếp cận được với những phương pháp dạy học mới,
phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
- Rèn luyện cho học sinh thành thạo trong việc thực hành thí nghiệm
chủ động trong việc làm thí nghiệm để tìm kiếm kiến thức.
- Học sinh có được một phương pháp giải bài tập nhận biết một cách
chi tiết dễ hiểu xúc tích và có hệ thống bài tập để rèn luyện.
VI/ NHỮNG VẤN ĐỀ BỎ NGỎ VÀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN
Trong một thời gian có hạn cho nên đề tài của tôi còn có nhiều phần
còn hạn chế đồng thời để thực hiện được đề tài này đòi hỏi một số yếu tố cụ
thể là.
A- Những vấn đề bỏ ngỏ
Đối với bài tập trắc nghiệm thì phải đủ ở cả hai mảng đó là hoá học

vô cơ và hoá học hữu cơ nhưng ở đây tôi mới chỉ trình bầy được những ví
dụ thuộc phần hoá học vô cơ là chủ yếu vì thế riêng phần hoá hữu cơ cũng
rất mong các đồng nghiệp cùng tôi sẽ bổ xung thêm để các em học sinh có
được một tài liệu hoàn chỉnh về dạng bài tập nhận biết giúp các em dễ dàng
học tập.
Trong quá trình thực hiện đề tài còn nhiều phần tôi trình bày trong đề
tài còn chưa chi tiết đặc biệt là khi áp dụng những phương pháp này thì có
những chú ý gì?. Liệu khi áp dụng phương pháp đó thì có xảy ra tình trạng
sai xót hay nói cách khác là những sai lầm khi áp dụng những phương pháp
24
giải nhanh này không?. Việc đưa ra các bài tập mẫu còn chưa được nhiều
và đa dạng ở các loại bài tập cho nên việc tham khảo bài tập mẫu còn hạn
chế.
Trong đề tài này thì phạm vi nghiên và đối tượng nghiên cứu còn bó
hẹp vì thế nó cũng phần nào ảnh hưởng đến tính khả thi của đề tài. Cụ thể
là nếu đề tài này nếu chỉ áp dụng để giải những bài tập trắc nghiệm thì hơi
lãng phí mà nó còn có thể áp dụng để giải các bài tập dạng khác cũng rất
hữu ích.
B/ Điều kiện thực hiện đề tài
Điều kiện thực hiện đề tài sáng kiến là rèn luyện được cho học sinh
khả năng tư duy nhưng phải hướng dẫn các em thất nhuẫn nhuyễn với các
phương pháp đó thì khi áp dụng tránh được những sai xót đáng tiếc dẫn tới
có thể tìm ra đáp án sai.
Chỉ áp dụng được với những trường có chất lượng học sinh đồng đều
còn những trường có chất lượng học sinh không đồng đều hoặc còn nhiều
học sinh trung bình và yếu kém thì hiệu quả có thể không cao khi mà các
em không chịu khó nghiên cứu.
Giáo viên phải chịu khó nghiên cứu tìm tòi những kiến thức mới bổ
xung kịp thời để phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Học sinh phải chịu khó nghiên cứu tài liệu, cần cù, tính tỉ mỉ cao,

ham học hỏi và thích thú với bộ môn.
VII/ KIẾN NGHỊ
Đối với đề tài này thực chất không phải là mới đối với các đồng chí giảng
dạy bộ môn hoá học nhưng để áp dụng và có hiệu quả tôi xin có một số kiến nghị
như sau:
25

×